Đến với 6 câu thơ đầu của tác phẩm "Truyện Kiều" là những dòng thơ Nguyễn Du vẽ lên khung cảnh thiên nhiên xung quanh lầu Ngưng Bích:
"Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"
Từ "khóa xuân" ở câu thơ thứ nhất được dùng thật đẹp nhưng nó lại phản ánh hiện thực phũ phàng: Thúy Kiều đang bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Không gian xung quanh lầu hoang vắng, rợn ngợp. Dưới đêm trăng, trên đầu cao, Kiều nhìn ra xa chỉ thấy một dãy núi mờ xa, một cồn cát trải dài, bụi đường gió cuốn bụi bay mù mịt. Câu thơ thứ ba "Bốn bề bát ngát xa trông", từ nào cũng gợi cái dài, cái xa, cái rộng gợi ta hình dung lầu Ngưng Bích như đang chơi vơi giữa mênh mông trời đất. Khung cảnh thiên nhiên xung quanh có thể là cảnh thực. Song cũng có thể chỉ mang tính ước lệ nhưng dù thật hay ước lệ thì nhấn mạnh hoang vắng cuả cảnh là Nguyễn Du muốn nhấn mạnh tâm trạng cô đơn tuyệt đối của Kiều. Nàng hoàn toàn bị cách ly với cuộc sống con người. Vì vậy, tháng này trôi qua dòng thời gian tuần hoàn khép kín, Kiều sống trong tâm trạng bẽ bàng, xấu hổ, tủi nhục. Sáng làm bạn với áng mây buổi sớm, tối làm bạn với ngọn đèn canh khuya - những sự vật vô tri, vô giác không cùng nàng tâm sự, sẻ chia khiến cuộc đời Kiều ngày một mòn mỏi, không sức sống, niềm tin. Trong suốt những ngày tháng ấy tâm trạng của nàng như được chia đôi: nửa gửi trong cảnh, nửa nghĩ đến tình.