I. Cao trào giải phóng dân tộc từ 1918 đến 1923
Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười 1917 ở Nga thắng lợi, cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) kết thúc đã mở ra một thời kỳ phát triển mới trong phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Tiếng vang của Cách mạng tháng Mười Nga đã vượt qua biên giới của nó, tác động mạnh mẽ đến hầu khắp các quốc gia – dân tộc trên hành tinh. Trong đêm dài đen tối đầy bất công của chế độ: phong kiến, tư bản thực dân, nhất là quan những năm tháng khủng khiếp của Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), nhân dân ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, những người phải chịu đựng nhiều tai họa nhất của chiến tranh đã tìm thấy ở Cách mạng tháng Mười những niềm hi vọng to lớn, đối với mình, thúc đẩy họ vùng dậy đấu tranh giành quyền sống, giành độc lập dân tộc.
1. Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc ở châu Á
Châu Á là vùng đông dân cư nhất, bao gồm những nước có lãnh thổ lớn với nguồn tài nguyên thiên nhiên hết sức phong phú. Từ cuối thế kỷ XIX, các nước châu Á đã trở thành những nước thuộc địa, nửa thuộc địa và là thị trường chủ yếu của các nước đế quốc Anh, Pháp, Mỹ, Nhật Bản, Hà Lan…
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước châu Á lên cao và lan rộng hơn cả so với châu Phi và Mĩ la tinh.
Ở Trung Quốc, ngày 4-5-1919, phong trào cách mạng rộng lớn chống chủ nghĩa đế quốc đã bùng nổ, mở đầu cho cuộc cách mạng dân chủ mới tiếp diễn trong suốt 30 năm sau đó. Phong trào Ngũ Tứ đã thúc đẩy phong trào công nhân Trung Quốc nhanh chóng kết hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin và dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1921.
Năm 1921, cuộc cách mạng nhân dân Mông Cổ thắng lợi. Đến năm 1924, nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở châu Á được thành lập. Với sự ủng hộ và giúp đỡ của giai cấp vô sản Nga, nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ đã đứng vững và từng bước tiến lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm 1918 - 1922, nhân dânẤn Độđã tăng cường đấu tranh chống thực dân Anh. Nhiều cuộc bãi công lớn của công nhân với hàng chục vạn người tham gia, kéo dài hàng tháng, đã lan lộng khắp cả nước. Đồng thời, phong trào nổi dậy của nông dân cũng liên tiếp bùng nổ chống lại bọn địa chủ phong kiến và đế quốc Anh.
Ở Thổ Nhĩ Kì, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc 1919 - 1922 (do giai cấp tư sản lãnh đạo) đã kết thúc thắng lợi. Ngày 29-10-1923, chế độ cộng hòa được thiết lập Thổ Nhĩ Kì có điều kiện để trở thành một nước tư sản có chủ quyền và bước vào thời kì phát triển mới.
Năm 1919, nhân dân Ápganixtan thu được thắng lợi trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, buộc đế quốc Anh phải công nhận quyền độc lập chính trị của mình. Cũng vào năm 1919, nhân dân Triều Tiên đã nổi dây khởi nghĩa chống đế quốc Nhật Bản.
Những năm sau Cách mạng tháng Mười Nga, phong trào giải phóng dân tộc ở châu Phi và Mĩ la tinh cũng có những bước phát triển mới.
2. Phong trào cách mạng ở châu Phi
Ở châu Phi, phong trào đấu tranh mạnh mẽ nhất là ởAiCập.Năm 1918, những tiểu tổ xã hội chủ nghĩa xuất hiện ở Cairô, Alêchxanđri, Poócxait, rồi hợp nhất thành Đảng Xã hội và từ năm 1921 mang tên Đảng Cộng sản Ai Cập. Trong những năm 1918 - 1923, đã diễn ra cuộc đấu tranh giành độc lập hoàn toàn cho Ai Cập… bằng con đường hòa bình hợp pháp'', do giai cấp tư sản dân tộc khởi xướng. Bị thực dân Anh đàn áp, phong trào vẫn tiếp tục dâng cao và chuyển biến thành khởi nghĩa vũ trang trong nhiều thành thị. Công nhân xe điện, đường sắt ở Cairô, công nhân khuân vác ở Alêchxanđri, các viên chức cơ quan nhà nước đã bãi công.
Trong nhiều làng xã, tỉnh thành, các ủy ban cách mạng (mang tên gọi Xô viết) được thành lập. Nhân dân Ai Cập đã anh dũng đấu tranh nhưng do thiếu sự lãnh đao thống nhất nên đến đầu tháng 4-1919, thực dân Anh đã đàn áp được khởi nghĩa vũ trang.
Cuối năm 1921, cuộc khởi nghĩa mới lại bùng nổ. Thực dân Anh buộc phải đi đến những nhượng bộ bề ngoài. Tháng 2-1922, Chính phủ Anh phải tuyên bố hủy bỏ chế độ bảo hộ và trao trả “độc lập” cho Ai Cập. Xuntan Atmét Phuát đổi danh hiệu là vua Phuát I; tháng 5-1923, hiến pháp mới được ban hành. Tuy vậy, trên thực tế ảnh hưởng của đế quốc Anh vẫn giữ nguyên. Quân đội Anh vẫn đóng ở Ai Cập, thực dân Anh còn nắm quyền nội trị, ngoại giao và đô hộ trực tiếp vùng Xuđăng
Ở Tuynidi, phong trào diễn ra sôi nổi trong những năm 1920 – 1922.
Phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ. Đồng thời giai cấp tư sản dân tộc, đứng đầu là Xaalibi, cũng dấy lên phong trào đòi hỏi những quyền lợi chính đáng cho Tuynidi. Thực dân Pháp chẳng những bác bỏ các yêu sách đó mà còn đàn áp phong trào. Lập tức làn sóng biểu tình phản đối và bãi công sôi sục diễn ra khắp cả nước. Phong trào đấu tranh chính trị lên tới đỉnh cao vào tháng 4-1922, đòi hỏi phải khẩn trương thực hiện những cải cách hiến pháp. Tháng 6-1922, chính phủ Pháp buộc phải ban hành sắc lệnh về cải cách hiến pháp ở Tuynidi. Phong trào đấu tranh vũ trang bùng lên mạnh mẽ ở nhiều vùng Marốc (thuộc Pháp) và đặc biệt Marốc thuộc Tây Ban Nha. Giữa năm 1921, các bộ lạc Rớp (thuộc Tây Ban Nha), dưới sự lãnh đạo của Ápđen Kêrim, đã đánh bại đạo quân của tướng Xinvéttôrơ gồm 12.000 binh lính với 120 khẩu đại bác. Ngày 19-9-1921, trong đại hội các bộ lạc, dưới sư lãnh đạo của Ápđen Kêrim, Cộng hòa Ríp độc lập đã ra đời và tồn tại được đến năm 1926.
Ở châu Phi nhiệt đới cũng bùng nổ phong trào đấu tranh chống đế quốc. Phong trào bãi công rộng lớn ở Nạm Phi (diễn ra trong những năm 1918 - 1920, Đảng Cộng sản Nam Phi ra đời năm 1921, Đảng Đai hội quốc dân Tây Phi thành lập năm 1920 và Đại hội toàn Phi họp năm 1919 là những sự kiện quan trọng trong phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân châu Phi. Đặc biệt, Đại hội toàn Phi lần thứ I họp năm 1919 ở Pari (có 17 Đại biểu tham dự) đã để ra nghị quyết về quyền của người Phi được tham gia cai quản đất nước, bắt đầu từ các cơ quan địa phương và dần dần đi đến những “nhiệm vụ chính quyền cấp cao để trong tương lai châu Phi phải do người Phi cai quản”.
3. Phong trào cách mạng ở Mĩ latinh
Ở Mĩ latinh, phong trào cách mạng lên cao ở nhiều nước. Trong những năm 1917 - 1921, ở Achentina đã xuất hiện cao trào đấu tranh của công nhân (riêng năm 1919 đã diễn ra 367 cuộc bãi công với 306.000 người tham gia).
Trong những năm 1920 - 1921, tại một số thành phố và các bang ở Mêhicô đã ra đời các Xô viết. Ở Braxin, làn sóng bãi công tiếp diễn trong suốt năm 1920 đã buộc chính phủ phải có một số nhượng bộ (như thực hiện chế độ ngày làm 8 giờ và nâng cao tiền lương cho công nhân một số ngành; thi hành chế độ tiền lương mới cho công nhân, thi hành chế độ trợ cấp cho công nhân bị tai nạn lao động).
Ở các nước Mĩ latinh khác, chính đảng vô sản và các tổ chức công đoàn lần lượt được thành lập nhằm lãnh đạo phong trào công nhân và nhân dân lao động chống đế quốc Mĩ và các lực lượng phản động trong nước.
Nhìn chung, cao trào cách mạng giải phóng dân tộc bùng nổ mạnh mẽ ở khắp các châu lục, tiến công vào chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong nước, đồng thời góp phần bảo vệ cách mạng Nga và nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới. Đặc điểm của cao trào cách mạng này là giai cấp vô sản non trẻ đã tích cực tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và ở nhiều nước, họ đã đóng vai trò lãnh đạo các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Trong điều kiện đó, các Đảng Cộng sản lần lượt được thành lập ở nhiều nước: Đảng Cộng sản Inđônêxia (1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Aicập (1921), Đảng Cộng sản Braxin (1922), Đảng Cộng sản Cuba (1925)…
II. Phong trào giải phóng dân tộc trong những năm 1924-1929
Một đặc điểm nổi bật của phong trào cách mạng 1924 - 1929 là phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa xuống thấp nhưng phong trào giải phóng dân tộc vẫn tiếp diễn mạnh mẽ ở hầu khắp các nước châu Á, châu Phi và Mĩ latinh.
1. Ở châu Á, phong trào phát triển đặc biệt mạnh mẽ ở Trung Quốc. Những năm 1924 - 1927 là thời kì bùng nổ cuộc đấu tranh quan trọng - cuộc nội chiến cách mang lần thứ nhất.
Ở Ấn Độ, phong trào bãi công của công nhân tiếp diễn trong suốt những năm 1924 - 1927. Phong trào nông dân chống thuế, chống địa chủ tăng tô tức diễn ra mạnh mẽ vào năm 1927. Đảng Quốc đại, sau một thời gian suy giảm lực lượng, bắt đầu tăng cường hoạt động mở rộng đội ngũ.
Ở các nước Đông Nam Á, phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc diễn ra sôi nổi. Đặc biệt ở Indônêxia, Đảng Cộng sản tích cực lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi hỏi những quyền lợi thiết thân. Năm 1925, phong trào bãi công của công nhân dâng cao. Năm 1926, nhân dân Bativia (tức Giacacta ngày nay) khởi nghĩa vũ trang. Năm 1927, khởi nghĩa vũ trang bùng nổ ở đảo Xumatơra.
Ở Việt Nam, trong những năm 20 của thế kỉ này, thông qua lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, người cộng sản Việt Nam đầu tiên, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đến với nhân dân ta. Phong trào công nhân phát triển từ tự phát sang tự giác và tiến tới việc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương).
2. Ở Trung Đông và Bắc Phi, phong trào giải phóng dân tộc diễn ra sôi sục, nhất là ở Xiri - Libăng và Marốc đã bùng nổ những cuộc đấu tranh vũ trang oanh liệt. Dưới sự thống trị nặng nề của thực dân Pháp, nhân dân Xiri trong những năm 1920 đến 1924 đã sáu lần vùng dậy khởi nghĩa: ở Khauran (8-1920), ở Bắc Xiri (1921 - 1925), ở vùng Giơben Đruydơ (1922- 1923) ở vùng Bêcaa (1924). Tháng 7-1925, lại một lần nữa nhân dân Xiri vùng dậy đấu tranh ở vùng Giơben Đruydơ. Cuộc khởi nghĩa do Xuntan Atratxơ lãnh đạo đã nhanh chóng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang chống thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc. Vào đầu tháng 8-1925, quân khởi nghĩa đã giáng cho quân Pháp những đòn nặng nề. Cuộc chiến tranh kéo dài đến năm 1927, thực dân Pháp đã huy động lực lượng đến đàn áp, nên cuộc khởi nghĩa không tránh khỏi thất bại.
Tại Marốc thuộc Pháp, trong năm 1924 - 1926 đã diễn ra cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp rất quyết liệt. Nghĩa quân Ríp được nhân dân Marốc ủng hộ đã tiến công quân Pháp và thu đươc nhiều thắng lợi. Quân đội Pháp và quân đội Tây Ban Nha phải hợp sức tấn công mới chiến thắng được quân đội Ríp vào năm 1926. Cộng hòa Ríp bị thủ tiêu, phong trào đấu tranh của các bộ lạc Ríp thất bại.
Cuộc đấu tranh của nhân dân Xiri những năm 1925 - 1927 và cuộc đấu tranh vũ trang của Cộng hòa Ríp (Marốc thuộc Pháp) trong những năm 1925 – 1926, chống đế quốc Pháp đã nói lên tinh thần quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức và đóng góp nhiều kinh nghiệm quý báu cho phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Arập.
3. Ở Mĩ latinh, trong thời gian này phong trào dân tộc dân chủ đã diễn ra ở Haiti, Vênêxuêla, Côlômbia, và đăc biệt là ở Braxin và Nicaragoa.
Ở Braxin, chính sách phản động của chính phủ Bécnađét đã gây nên sự bất bình sâu sắc trong các lực lượng dân tộc dân chủ. Tháng 7-1924, một trại lính ở trung tâm công nghiệp Xan Paolô đã khởi nghĩa. Đến mùa thu năm ấy, làn sóng khởi nghĩa lan rộng đến lực lượng hải quân. Ở Tây – Nam Braxin, quân đội dưới quyền chỉ huy của đại úy Luít Cáclốt Pơretxtét đã khởi nghĩa. Cuôc đấu tranh lan rộng khắp vùng Tây-Nam. Nghĩa quân đề ra những yêu sách: tự do ngôn luận, tư do báo chí, thả tù chính trị, thực hiện bỏ phiếu kín, giải quyết nạn thất nghiệp, chia ruộng đất cho nông dân ...và đòi chính phủ Bécnađét phải thực hiện những yêu sách nói trên.
Tháng 10 – 1924, nghĩa quân của Pơretxtét bắt liên lạc được với nghĩa quân ở Xan Paolô. Nhưng cũng từ đây, chính phủ Bécnađét bắt đầu tấn công lại nghĩa quân.
Trong thời gian 2 năm (từ tháng l0-1924 đến tháng 2-1927), nghĩa quân đã vượt qua 26.000 km), đánh thắng nhiều trận. Cuối cùng, do bị hao tổn lực lượng, nghĩa quân buộc phải rút qua biên giới Bôlivia để củng cố lực lượng. Cuộc khởi nghĩa vì mục tiêu dân tộc - dân chủ này đã thức tỉnh ý thức cách mạng của nhân dân bị áp bức ở Braxin.
Ở Nicaragoa, từ năm 1924 đế quốc Mĩ thiết lập chính quyền tay sai Chamôrô và tiến hành can thiệp vũ trang vào Nicaragoa nhằm đàn áp phong trào giải phóng dân tộc ở nước này và uy hiếp phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và tay sai của nhân dân Mĩ latinh nói chung.
Các tầng lóp nhân dân đông đảo - nông dân, công nhân nông nghiệp, lao động thành thị - ở Nicaragoa đã tham gia cuộc đấu tranh dân chủ chống chính phủ phản động Chamôrô, nổi tiếng nhất là các đơn vị du kích dưới sự lãnh đạo của Angutxtô Xêxa Xanđinô bị ám sát. Tháng 4-1927, nghĩa quân uy hiếp thủ đô Managoa. Đế quốc Mĩ đã đưa quân đội vào đối phó và tìm cách phá hoại các lực lượng dân tộc từ bên trong. Những người tư sản tự do do bị mua chuộc đã thỏa hiệp với bọn đế quốc. Chỉ có một bộ phân cách mạng kiên quyết, đứng đầu là Xanđinô, tiếp tục đấu tranh vũ trang. Cuối cùng, Xanđinô bị ám sát, phong trào dân tộc dân chủ ở Nicaragoa bị đàn áp.
Nhìn chung, cao trào giải phóng dân tộc trong những năm 1924 – 1929 là một trong những nhân tố quan trọng làm cho sự ổn định của thế giới tư bản chỉ là tạm thời. Phong trào cách mạng lên cao và bị đàn áp đẫm máu, nhưng biểu hiện ý chí quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do, dân chủ của các dân tộc bị áp bức.
III. Phong trào giải phóng dân tộc và phong trào mặt trận nhân dân chống phát xít trong những năm 1929 - 1939.
Những năm 1929 - 1939 là thời kì khủng hoảng kinh tế sâu sắc và toàn diện của thế giới tư bản. Khủng hoảng kinh tế dẫn đến khủng hoảng chính trị. Chủ nghĩa phát xít xuất hiện và chuẩn bị gây chiến tranh thế giới.
Vào giữa những năm 30, ở nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc, Mặt trận dân tộc thống nhất được thành lập tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân yêu nước nhằm chống bọn phản động thuộc địa, chống nguy cơ phát xít và chiến tranh xâm lược.
l. Ở châu Á, nhân dân Trung Quốc đã tiến hành cuộc đấu tranh chống nền thống trị phản động của chính quyền Tưởng Giới Thạch và cuộc kháng chiến chống phát xít Nhật xâm lược, bảo vệ đất nước. Ở Ấn Độ, phong trào đấu tranh chống thực dân Anh tiếp tục phát triển rộng khắp trong những năm 1929 – 1932. Sự thành lập Đảng Cộng sản Ấn Độ vào tháng 11-1939 đã đánh dấu một bước phát triển mới của phong trào giải phóng dân tộc ở Ấn Độ.
Trên bán đảo Triều Tiên, nhân dân tổ chức lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa cách mạng…tiến hành cuộc đấu tranh chống Nhật.
Ở Đông Nam Á, đầu những năm 30, một số Đảng Cộng sản được thành lập, mở ra một thời kì mới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Riêng ở Việt Nam, cuộc khởi nghĩa Yên Bái tháng 2-1930 (do Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức) bị thất bại đã chấm dứt vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp tư sản dân tộc, đồng thời cao trào cách mạng giải phóng dân tộc 1930- 1931, mà đỉnh cao là phong trào Xô viết Nghệ -Tĩnh, đã mở ra thời kì cách mạng Việt Nam đi theo sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và chính Đảng mácxít - lêninnít của nó - Đảng Cộng sản Đông Dương. Ở Philíppin, cuộc khởi nghĩa nông dân chống ách bóc lột của địa chủ phong kiến gắn liền với cuộc đấu tranh chống đế quốc bùng nổ năm 1931 đã buộc Mĩ phải trao trả quyền tự trị cho nước này. Ở Miến Điện, phong trào khởi nghĩa nông dân được diễn ra từ cuối năm 1930 đến mùa xuân năm 1932. Đầu năm 1933, ở Inđônêxia đã bùng nổ cuộc khởi nghĩa của thủy binh trên tàu chiến Đơ Giơven Pơrôvinxien.
2. Ở châu Phi, phong trào cách mạng lên cao ở Ai Cập trong những năm khủng hoảng kinh tế. Tháng 10-1930, thực dân Anh đề ra hiến pháp nhằm tập trung toàn bộ quyền hành vào tay nhà vua thân Anh. Tháng 5-1931, cuộc bầu cử diễn ra trong tình hình quần chúng bất bình sâu sắc.
Trong cả nước đã bùng nổ cuộc bãi công chính trị, đặc biệt mạnh mẽ ở Cairô và Poóc Xít, quần chúng đã xung đột vũ trang với bọn cảnh sát và quân đội.
Ở Êtiôpi, cuộc đấu tranh anh dũng và chính nghĩa của nhân dân chống phát xít Italia xâm lược có ý nghĩa to lớn đối với sự hình thành phong trào chống đế quốc trên toàn lục địa Phi.
Trong các nước châu Phi nhiệt đới ở phía nam sa mạc Xahara, vào cuối những năm 20 đến những năm 39 của thế kỉ XX đã diễn ra sự tập hợp dần dần các lực lượng yêu nước và cách mạng trong cuộc đấu tranh giành được độc lập dân tộc, giành quyền sống. Mầm mống của giai cấp công nhân được phát sinh và phát triển trong nhiều nước. Quá trình hình thành giai cấp tư sản dân tộc cũng bắt đầu trong một số nước.
Liên bang Nam Phi, một thuộc địa di dân của đế quốc Anh, nước phát triển nhất về mặt kinh tế, đã có ảnh hưởng hai mặt đối với tình hình chính trị của châu Phi nhiệt đới. Bọn thống trị ở đây là người da trắng đã thi hành chế độ phân biệt chủng tộc dã man, tàn bạo nhất. Phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Nam Phi đã có ảnh hưởng tích cực đối với phong trào cách mạng châu Phi.
3. Ở Mĩ latinh, trong những năm 1929 - 1933, khủng hoảng kinh tế đã giáng một đòn nặng nề vào các nước trong khu vực này. Hàng hóa xuất khẩu truyền thống của các nước Mĩ latinh xuống giá nghiêm trọng. Nạn thất nghiệp, đói khổ lan rộng trong quần chúng nhân dân. Trong nhiều nước, cuộc đấu tranh của các lực lượng dân chủ và yêu nước được đẩy mạnh.
Ở Pêru, chính phủ thân Mĩ của nhà độc tài Lêghi bị lật đổ năm 1930, Chính phủ Xanset Xerô được các độc quyền Anh ủng hộ đã lên thay. Dưới danh nghĩa tiến hành cuộc đấu tranh chống ''chủ nghĩa đế quốc bên ngoài'', Xerô tiến hành cuộc đàn áp các lực lượng tiến bộ trong nước. Năm 1932, Xerô gây chiến tranh với Côlômbia và được Mĩ ủng hộ. Cuộc chiến tranh kéo dài gần 2 năm đã gây tổn hại cho cả 2 nước.
Mùa hè năm 1931, các cuộc đấu tranh của quần chúng ở Chilê đẫ lật đổ chính phủ độc tài thân Mĩ của Ibaniét. Phong trào quần chúng tiếp diễn đòi thiết lập chế độ cai trị theo hiến pháp, chống lại ảnh hưởng của các độc quyền Mĩ ở trong nước, đòi giải quyết nạn thất nghiệp và khắc phục tình trạng sinh hoạt đắt đỏ. Đầu tháng 9-1931, binh sĩ trong hạm đội Chilê khởi nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản, nhiều cuộc bãi công của công nhân đã bùng nổ ở những thành phố hưởng ứng cuộc khởi nghĩa. Cuối cùng, cuộc khởi nghĩa bị thất bại vì quân đội phản động tập trung sức mạnh đàn áp. Tháng 6-1932, chính phủ mới đứng đầu là Gơrôvơ được thành lập Chilê tuyên bố là nước ''Cộng hòa xã hội chủ nghĩa'', chứng tỏ mong muốn của đông đảo nhân dân Chilê về một xã hội công bằng. Nhưng các lực lượng phản động trong nước và bọn đế quốc bên ngoài đã lật đổ chính phủ Gơrôvơ. Mùa thu năm 1932, lãnh tụ Đảng Tự do là Ácturô Alêchxanđri lên làm tổng thống. Chính sách phản nhân dân của chính phủ Alêchxanđri đã gây nên làn sóng phản đối không chỉ trong quần chúng lao động, mà cả trong tầng lớp tiểu tư sản và tư sản hạng trung.
Ở Cuba, năm 1933 cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài thân Mĩ – Machađô phát triển mạnh mẽ. Đế quốc Mĩ đưa Xétpêđét, nguyên đại sứ Cuba ở Mĩ, lên thay. Phong trào đấu tranh vẫn tiếp diễn, bao gồm các tầng lớp nhân dân đông đảo, kể cả giai cấp tư sản dân tộc. Binh lính yêu nước cũng vùng dậy đấu tranh. Đầu tháng 9-1933, đã diễn ra một cuộc đảo chính tiến bộ ở Cuba. Xétpêđét bi lật đổ, chính phủ mới do giáo sư Gơrây Xan Mactin đứng đầu được thành lập. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử Cuba, một chính phủ của giai cấp tư sản dân tộc lên cầm quyền và đã thi hành một số biện pháp dân chủ, như chế đó ngày làm 8 giờ, nâng cao tiền lương công nhân, hạn chế hoạt động của một số công ti độc quyền Mĩ…Đầu năm 1934, lực lượng thân Mĩ - Batixta gây áp lực buộc chính phủ Xan Mactin từ chức và chiếm đoạt mọi quyền hành ở Cuba. Tuy nhiên cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Cuba vẫn tiếp diễn trong những năm trước Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trong những năm 1935 - 1939, ở nhiều nước Mĩ latinh. Mặt trận nhân dân đã được thành lập, tập hợp đông đảo lực lượng nhân dân trong nước: công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức tiến bộ và một bộ phận giai cấp tư sản dân tộc.
Ở Mêhicô, những năm 1934 - 1939 chính phủ của giai cấp tư sản dân tộc đứng đầu là Laxarô Cácđênát - lãnh tụ cánh tả của giai cấp tư sản dân tộc, được sự giúp đỡ của Đảng Cách mạng Mêhicô (đảng của giai cấp tư sản dân tộc) đã thi hành một số biện pháp tiến bộ có lợi cho nhân dân, hạn chế ảnh hưởng của chủ nghĩa đế quốc. Năm 1935, phong trào quần chúng nhân dân rộng lớn mà lực lượng cơ bản là công nhân đã đập tan âm mưu đảo chính của lực lượng phản động trong nước. Năm 1936, Tổng liên đoàn lao động Mêhicô ra đời, tập hợp hầu hết các công đoàn trong nước để lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân. Trước cao trào đấu tranh của quần chúng công nông, chính phủ Cácđênát đã tuyên bố thi hành ''luật cải cách ruộng đất''. Ngày 23-6-1937, luật quốc hữu hóa các đường sắt chủ yếu được thực hiện, đưa 700 km đường sắt vào tay Nhà nước. Tháng 3-1938, Cácđênát tuyên bố quốc hữu hóa 17 công ty dầu lửa nước ngoài. Các nước tư bản Anh - Mĩ tìm cách phá hoại, bao vây kinh tế Mêhicô. Trước áp lực đó, chính phủ Cácđênát ngày càng thiên hữu và cuối cùng đã bị đổ. Tuy vậy, phong trào đấu tranh của quần chúng vẫn tiếp tục phát triển. Tháng 9-1938, theo sáng kiến của các công đoàn Mêhicô, Tổng liên đoàn Mĩ latinh được thành lập ở Mêhicô (bao gồm tổ chức công nhân trong nhiều nước Mĩ latinh) đòi độc lập dân tôc, thủ tiêu tàn tích phong kiến, xây dựng một chế độ xã hội dựa trên ''sự tôn trọng độc lập kinh tế và chính trị của mỗi nước và tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới''.
Ở Chilê, Mặt trân nhân dân ra đời năm 1936 trong cao trào đấu tranh chống chính phủ Alêchxanđri. Mặt trận bao gồm Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, những người cấp tiến và những người dân chủ, với yêu sách chủ yếu là tự do, dân chủ, độc lập dân tộc thực sự, cải thiện đời sống nhân dân lao động. Tháng 12-1938, chính phủ Mặt trận nhân dân do Péđơrô Cácđa, lãnh tụ Đảng Cấp tiến, làm tổng thống đã được thành lập. Chilê là nước đầu tiên ở Tây bán cầu có chính phủ của Mặt trận nhân dân. Chính phủ Cácđa đã thực hiện một số biện pháp tiến bộ trong nước và giữ cho Chilê khỏi rơi vào tay lực lượng phát xít.
Ở Áchentina, cuộc đấu tranh thành lập Mặt trận nhân dân diễn ra trong hoàn cảnh khó khăn: giới cầm quyền có những liên hệ chặt chẽ với nước Đức phát xít, các tổ chức phát xít hoạt động mạnh, Đảng Cộng sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Mặc dù vậy, quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo đã đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, đòi dân chủ và cải thiện đời sống. Tháng 3-1936, Tổng liên đoàn lao động đã thống nhất với Liên đoàn các thủy thủ và Liên hiệp các nhân viên điện thoại. Mặt trận nhân dân ra đời trên cơ sở lực lượng của giai cấp công nhân được tập hợp lại. Trong cuộc bầu cử Quốc hội, Mặt trận nhân dân đã giành được ít nhiều thắng lợi.
Cuộc đấu tranh xây dựng Mặt trận nhân dân ở Braxin đã diễn ra dưới nhiều hình thức đấu tranh quyết liệt chống chế độ độc tài Vácgát. Năm 1934, Vácgát ban hành đạo luật an ninh nhằm thủ tiêu những dấu vết cuối cùng của nền dân chủ. Bọn phát xít Braxin đã tăng cường hoạt động khủng bố nhân dân.