Chào các quý thầy cô, hôm nay LogaVN gửi tới quý thầy cô giáo án "Cõi người ta (Antoine de Saint-Exupery)". Hi vọng sẽ giúp ích cho các quý thầy cô giảng dạy.
Cõi người ta
Antoine de Saint-Exupery
MỤC LỤC
TIỂU SỬ SAINT – EXUPÉRY
Saint – Exupéry sinh năm 1990, mất năm 1944 (ông lớn hơn Albert Camus 16 tuổi). Nhà – văn – phi – công đại tài, trở thành trứ danh với cuốn Bay đêm (Vol De Nuit), giải thưởng Fémina, 1931; trước đó Thơ về Nam (Courrier Sud). Tiếp theo sau là Phi công thời chiến (Pilote de Guerre), Hoàng tử bé (Petit Prime), Cõi người ta (Terre Des Hommes)…
Những kỉ niệm của ông trong cuộc sống ở Sahara làm phấn phát tinh thần ông, linh cảm ông, và xui ông chọn lựa sa mạc như chỗ đồng nhất quy lai của cái chốn, nơi ông đi về.
Quy tụ toàn thể tự niệm tư tưởng suốt bình sinh – một bình sinh chịu tử diệt để hồi sinh giúp đồng bào thiên hạ nhận thấy chốn đi về của mọi hoạt thể lao tứ, lao tâm.
Cõi người ta
Antoine de Saint-Exupery
Chia sẻ ebook: http://www.downloadsach.com
Follow us on Facebook: https://www.facebook.com/caphebuoitoi
MỤC LỤC
TIỂU SỬ SAINT – EXUPÉRY
TỰA
I
DẶM ĐƯỜNG BAY
II
BẠN ĐỒNG NGHIỆP
1
2
III
PHI CƠ
IV
TÀU BAY VÀ TRÁI ĐẤT
1
2
3
4
V
MÀU XANH SA MẠC
VI
TRONG SA MẠC
1
2
3
4
5
6
7
VII
GIỮA LÒNG SA MẠC
1
2
3
4
5
6
7
VIII
NGƯỜI TA
1
2
3
4
TIỂU SỬ SAINT – EXUPÉRY
Saint – Exupéry sinh năm 1990, mất năm 1944 (ông lớn hơn Albert
Camus 16 tuổi). Nhà – văn – phi – công đại tài, trở thành trứ danh với cuốn
Bay đêm (Vol De Nuit), giải thưởng Fémina, 1931; trước đó đ~ có ra T{u Thơ
về Nam (Courrier Sud). Tiếp theo sau là Phi công thời chiến (Pilote de
Guerre), Hoàng tử bé (Petit Prime), Cõi người ta (Terre Des Hommes)…
Những kỉ niệm của ông trong cuộc sống ở Sahara làm phấn phát tinh
thần ông, linh cảm ông, và xui ông chọn lựa sa mạc như l{ chỗ đồng nhất quy
lai của cái chốn, c|i nơi ông đi về.
Quy tụ toàn thể tự niệm tư tưởng suốt bình sinh – một bình sinh chịu tử
diệt để hồi sinh giúp đồng bào thiên hạ nhận thấy đ}u l{ chốn đi về của mọi
hoạt thể lao tứ, lao tâm. – “Gia đình, nh{ cửa, nghề nghiệp, lao động, cuộc hòa
đồng của nhân loại, và cuộc gắng gổ vô cùng tận để đạt tới một sự đồng cảm
vượt xa cuộc hì hục bình sinh của mỗi c| nh}n…”
Tính cách nhân bản lạ lùng của ông đ~ giúp cho mọi người trong “bốn
biển một nh{” bằng linh cảm (dự cảm) của tâm linh, nhận ra đ}u l{ cứu cách
tuyệt đối của những “c|nh hồng bay bổng tuyệt vời…”
Cuộc tán loạn lưu ly x~ hội Âu Châu giữa trận hung t{n Đệ Nhị Thế
Chiến, những khốc liệt m{ ông đ~ chứng kiến ngay trên xứ sở ông, những biến cố kỳ lạ ông đ~ chứng gi|m ngay trên đất Huê Kỳ, đ~ có t|c dụng chuyển
hướng những tư niệm của ông. Ông sang Huê Kỳ năm 1940 (th|ng Chạp).
Ông rời New York đầu năm 1941… đi về California chữa bịnh… Trở về New
York… Ông tiếp tục làm việc – ghi vào trong Hoàng tử bé bằng một ngôn ngữ
tượng trưng – thơ mộng vô cùng, và xa thẳm vô cùng – Tất cả cái tiếng Hót
của con Thiên Nga trước khi lìa cõi đời vĩnh viễn… (Có lẽ, nếu hoàn cảnh cho
phép, chúng ta sẽ gặp lại Saint – Exupéry trong một vài tác phẩm khác) –
Những tài liệu trên đ}y đều góp nhặt từ nhà Gallimard.
Bùi Giáng
1995
TỰA
Câu chuyện kể, là chuyện phi công v{ phi cơ.
Nhưng giọng người là giọng trần gian đi tìm linh hồn mình giữa non
nước quạnh.
Văn minh, văn hóa đương phiêu bồng đợi giờ thành tựu. Những xế
chiều ký niệm đương linh cảm sương v{ng bình minh.
Saint-Exupéry đ~ đi mất từ l}u, nhưng tiếng ngân dài trong suốt vẫn
xuyên vào trong giấc chiêm bao thương nhớ của những người ở lại.
Kẻ trước, người sau, xin “dịch” đi, dịch lại những lời… Dịch, biến làm
chuyển dịch cho tương giao. Bất cứ nhìn ai cắm cúi dịch Saint-Exupéry, ta
h~y xem như đó l{ chuyện chung của những con người rủ nhau ghé vào bờ
mộng. “Ở giữa lòng một v{i đêm th}u lục nhạt, tôi đ~ nhìn những tia lửa
băng trời thành một đường rẽ vút như một làn gió dài dàn rộng giữa muôn
sao”.
SAINT-EXUPÉRY
Theo dõi giấc mộng dài của Saint-Exupéry, lại gọi ngôn ngữ Việt Nam
về hạ tứ, nhiều phen phải b{ng ho{ng: Chúng ta đứng trước mấy lần hiểm
họa của màu sắc lục hồng cứ trùng điệp rủ nhau bay, tung lên và phủ xuống.
“Phi hồng trường phát phi kiên. Ôi mùa tích lục phi tuyền lên cao”.
René Char còn bảo: “Ne regardez qu’une fois la vague jeter I’ancre dans
la mer. Hãy nhìn chỉ một lần thôi, làn sóng thả neo vào lòng biển”.
Dịch văn – sao cứ gọi là dịch? – dịch văn biến thành câu chuyện: vừa
bay lên, vừa lặn xuống, vừa nối liền hai bờ ngôn ngữ quá xa nhau. Thật vừa
vui, vừa mệt mỏi.
Ngôn ngữ đa }m đòi hỏi lối phiên dịch như thế nào qua ngôn ngữ đơn
}m? Đó l{ điều đ|ng xui chúng ta tư lự đăm chiêu.
Vì lẽ: tiết điệu đa }m có một phong thái dồi d{o đương yêu cầu được
tái hiện. Đ}y l{ trường hợp: ở bên kia từ ngữ, tiết nhịp của ngôn ngữ đương
nói rất nhiều.
May sao, Việt ngữ đơn }m lại giàu sang âm vận. Nhưng không phải: ở
mọi cơ hội, đều giản dị giàu sang. Do đó cần thêm một chút chuyển giao thỏa
đ|ng, thì lời dịch sẽ tái lập được “cung bậc” gieo v{ng của nguyên ngôn. Mà
nguyên ngôn Saint-Exupéry lại chứa chan những thơ mộng khi u trầm,
ngậm ngùi, lúc lộng lẫy. Cái điệu nói la cà diệu vợi, vừa chát chát vừa hắt
hiu, lúc nhắc tình bạn hữu, lúc gợi tiếng U già, lúc chuyện trò với gái trên
nhịp cầu hai cõi hoang vu. “Tả nhi nữ tư tình, đ~ng khí hồi trường. Tả anh
hùng sự tích, nghĩa bạc v}n tiêu”.
Hai điếu xì gà của một ông bạn cho tôi hôm qua, tôi vừa hút xong hết
cả. Vậy xin kết thúc.
B.G.
T.B. Trong bản dịch, có mấy chỗ tôi thêm vài lời, ấy là gắng đưa ngôn
ngữ đơn }m đuổi theo tiết điệu ngôn ngữ đa }m. Thỉnh thoảng lại bớt vài lời,
ấy là bởi: Việt ngữ mang nhiều tính chất parataxique, trong khi Pháp ngữ lại
triệt để là một ngôn ngữ Syntaxique.
Đất dạy ta hiểu hơn mọi sách vở. Vì đất cưỡng kháng lại ta. Con người
tự kh|m ph| ra mình l{ lúc đọ sức với trở ngại. Nhưng muốn đạt tới, cần
phải có một dụng cụ. Cần một cái bào, hoặc một cái cày. Trong cuộc cày bừa,
người nông dân dần d{ cướp giật được của thiên nhiên một vài bí nhiệm, và
ch}n lý anh tìm được cũng l{ ch}n lý suốt cõi muôn năm. Phi cơ cũng vậy:
dụng cụ h{ng không kia, cũng đặt con người trở lại trong những vấn đề cũ.
Trước nhãn quan của mình, tôi luôn nhìn thấy lại chuyến bay đêm lần
đầu tại Argentine, một đêm tăm tối, nhìn xuống bình nguyên chỉ thấy một vài
|nh s|ng cô đơn lấp l|nh thưa thớt như những vì sao.
Trong bóng tối bao la mờ mịt, mỗi |nh đèn b|o biểu mỗi hiện diện
huyền diệu của mỗi tâm linh. Chốn n{y, người ta đang xem s|ch, người ta
đang suy tưởng, người ta đang thổ lộ t}m tư. Nơi kia có lẽ người ta đang dò
dẫm không gian, người ta đang mỏi mòn trước những con số, tính toán mãi
về tinh vân Andromède. Chốn nọ, người ta đang yêu đương. Đó đ}y, l|c đ|c
trên c|nh đồng, những ánh lửa đang đòi hỏi được nuôi dưỡng, giữ gìn. Cho
đến cả những |nh đèn kín đ|o nhất, của nh{ thơ, của nhà giáo, của người thợ
mộc. Nhưng giữa đ|m sao r{n rạt sống động kia còn biết bao cánh cửa kín
bưng, biết bao tinh cầu tắt lịm, biết bao con người ngủ say.
Phải gắng làm sao tiếp ứng nhau.
Phải gắng thử tương giao với một v{i đốm lửa đang thưa thớt cháy
trong c|nh đồng bình lặng dưới kia.
I
DẶM ĐƯỜNGBAY
Thủa ấy, v{o năm 1926. Tôi vừa được tuyển dụng làm tập sự phi công
đường dài của h~ng Latécoère. H~ng n{y, trước Air-France và Aéropostale,
từng chuyên trách liên lạc hàng không giữa Toulouse và Dakar. Tôi học
nghề tại đó. Cũng như mọi đồng nghiệp kh|c, đến lượt tôi phải chịu những
đợt thử thách dành cho những phi công tập sự trước lúc nhận cái vinh dự
lái những chuyến chở thư tín. Những cuộc tập dượt lái thử các kiểu phi cơ,
những lần di chuyển giữa Toulouse và Perpignan, những bài học buồn thiu
về khí tượng ở tận một căn phòng s}u hút trong một xưởng gi| băng. Chúng
tôi sống trong mối e ngại những d~y núi T}y Ban Nha m{ mình chưa được
biết, và sống trong niềm tín phục, tôn kính những bạn đồng nghiệp lão
thành.
Các vị này, chúng tôi vẫn thường gặp lại trong tiệm ăn. Họ khó tính và
cách biệt. Khuyên bảo đ{n em với giọng điệu kẻ cả kiêu kỳ. Mỗi khi có một
người trong bọn họ từ Alicante hoặc từ Casablance về chậm, áo choàng da
đẫm nước, nếu trong bọn chúng tôi có kẻ rụt rè hỏi thăm về chuyến bay ấy,
thì những lời đ|p cộc lốc của họ cùng với cảnh trời giông b~o, đ~ tạo cho
chúng tôi một thế giới hoang đường, một thế giới đầy những cạm bẫy hiểm
nghèo, những gian nan bất trắc, những v|ch đ| sừng sững đột ngột hiện ra,
những cơn lốc cuồng loạn cơ hồ muốn lật nhào cổ thụ, bật rễ tùng b|ch như
chơi. Thế giới của những con hắc long khổng lồ đứng chặn lối vào thung
lũng, của những tràng chớp động vây bọc đầu non. Các bạn kỳ cựu kia đ~
khéo nuôi dưỡng lòng kính phục của chúng tôi. Và thỉnh thoảng trong đ|m
người ấy có một kẻ bay đi không thấy trở về, thì ông trở thành thiên thu khả
kính.
Cùng với những kỷ niệm kia, tôi nhớ lại chuyến trở về của Bury, người
mà về sau sẽ tử nạn tại Corbières. Anh phi công lão thành này vừa ngồi vào
giữa bọn chúng tôi v{ đang mệt nhọc dùng bữa, không nói một lời, hai vai
còn nặng trĩu những cố gắng đ~ chịu đựng trong chuyến bay. Đó l{ v{o tối
một ngày trời xấu, một trong những ngày mà suốt con đường hàng không
trời m}y đen kịt tối sầm, núi rừng trùng điệp trước mắt phi công cùng theo
nhau cuồn cuộn trôi trong một màu mực đen ngòm, giống như những khẩu thần công đứt mấu ầm ỹ lăn lông lốc trên boong chiếc tàu buồm thuở xưa.
Tôi nhìn Bury, tôi nuốt nước bọt, và cuối cùng đ|nh bạo xin hỏi liều
xem cho biết chuyến bay của anh vừa rồi có phải gian nan lắm không.
Bury dường như không nghe tiếng tôi hỏi, anh nhíu trán, cúi gằm đầu
trên đĩa ăn. Trên những chiếc máy bay trần, gặp trời xấu, người ta thò đầu
ra ngoài kính cửa để nhìn cho rõ cảnh vật, thì gió lạnh tạt vào tai, rít lùng
bùng trong đó m~i… Chợt Bury ngẩng đầu, như có vẻ đ~ nghe ra c}u tôi hỏi,
như có vẻ sực nhớ lại, v{ đột ngột buông tiếng cười rộ. Tiếng cười tuyệt
diệu, Bury vốn rất ít khi cười, c|i cười ngắn ngủi làm rạng ngời cơn nhọc
mệt của anh. Anh không giải thích gì thêm nữa về sự đắc thắng của mình,
anh nghiêng đầu lặng lẽ tiếp tục nhai. Nhưng trong phòng ăn x|m xịt, ngồi
giữa đ|m công chức nhỏ đang gắng gượng tìm c|ch quên đi những nhọc
mệt rời r~ ban ng{y, thì người bạn có đôi vai nặng trĩu kia mang một vẻ cao
nhã lạ thường. Qua cái bề ngoài cục mịch, ta nhìn thấy rõ vị thiên thần ảo
diệu đ~ nhiếp phục con rồng đen.
Rồi tới ng{y đến lượt tôi được gọi v{o phòng ông gi|m đốc.
Ông điềm nhiên bảo:
- Ng{y mai anh đi.
Tôi đứng yên, chờ ông cho phép lui gót. Nhưng im lặng một lúc, ông
nói thêm:
- Anh đ~ rõ c|c chỉ thị rồi chứ?
Máy bay thời đó không đảm bảo như m|y bay ng{y nay. Nhiều lúc tự
nhiên phát-động-cơ đột ngột vỡ toang, loảng xoảng phá-liệt hệt như tiếng
chén dĩa bể. Mình lại đương đi về hướng vùng núi T}y Ban Nha, nơi không
một chỗ hạ cánh tị nạn. “Ở đ}y, khi m|y hỏng, thì phút chốc hỡi ôi! Phi cơ
hỏng theo liền”, chúng tôi tự bảo mình như vậy. Nhưng một chiếc phi cơ
hỏng, thay thế có khó gì. Điều cần yếu l{ đừng có dại dột mù qu|ng lao đầu
bừa xuống núi. Vì thế cho nên mệnh lệnh ban ra nhất thiết cấm ngặt chúng
tôi (nếu bất tuân, sẽ bị phạt rất nặng) không được bay qua các vùng biển
mây mù mịt vây phủ các vùng núi non. Lúc máy hỏng, nếu phi công đang len lỏi bay giữa những dải mây trắng xóa, thôi chỉ còn có thể đ}m đầu vào núi
mà không biết, không hay.
Thế nên chị đêm ấy, một giọng nói chậm r~i đ~ nhấn mạnh vào những
mệnh lệnh phải theo.
- Cái việc dùng địa bàn mà bay, giữa những biển mây xứ Tây Ban Nha,
hừ, bảnh thật. Nhưng…
Giọng nói càng chậm r~i hơn:
- … Nhưng chớ nên quên rằng bên dưới những biển mây kia là ngàn
năm ngủ mãi.
Bỗng dưng c|i bình lặng phẳng lì đơn giản ta kh|m ph| được mỗi khi
nhô lên khỏi các tầng mây, bỗng dưng đối với tôi, cái thế giới đó đ~ mang
một ý nghĩa lạ. Cái dịu dàng biến thành cạm bẫy. Tôi hình dung cái cạm bẫy
bát ngát trắng phau kia đương nằm duỗi thân dàn trải ngay dưới bước chân
mình; dưới kia, không như thiên hạ tưởng, dưới kia chẳng hề có nô nức của
lo{i người, dập dìu của phố thị: dưới kia chỉ có lặng lẽ thiên thu, im lìm vạn
thuở. Cái khoảnh tròn cuồn cuộn, trắng phau kia đ~ biến thành biên giới
giữa hai cõi thực v{ hư, giữa hai bờ chân và ảo. V{ tôi đ~ linh cảm một điều:
một cảnh tượng chỉ có ý nghĩa n{o l{; được nhìn qua một nền văn minh,
một nghề nghiệp, người dân miền núi cũng nhìn mãi những biển mây,
nhưng họ không nhìn ra cái tấm m{n hoang đường kỳ diệu kia trong đó.
Lúc ra khỏi phòng ông gi|m đốc, tôi cảm thấy một niềm kiêu h~nh thơ
ngây. Tảng s|ng ng{y mai đ}y, tới lượt tôi lên đường, mang trách nhiệm về
một số hành khách, mang trách nhiệm về chuyến thư tín sang Phi Ch}u,
nhưng đồng thời cũng thấy tự thẹn. Tôi nhận ra quả thật mình chưa chuẩn
bị được chu đ|o. T}y Ban Nha không có nhiều nơi l|nh nạn; gặp khi máy
hỏng, biết tìm đ}u một thửa ruộng để thoát thân. Trên bản đồ khô khan tôi
cắm cúi tìm nhưng chẳng thấy một vài chỉ dẫn tôi đương cần. Lòng vừa ngại
ngùng vừa kiêu hãnh, tôi tới phòng anh bạn Guillaumet để qua c|i đêm trầm
trọng. Guillaumet đ~ quen đi lại con đường ấy trước tôi. Guillaumet hẳn là
phải biết nhiều bí quyết để nắm lấy chìa khóa mở ngõ Tây Ban Nha, tôi cần
gặp Guillaumet để xin thụ nghệ.
Vừa tới phòng anh, anh tươi cười hỏi:
- Tôi biết tin rồi. Anh hài lòng chứ?
Anh mở tủ lấy chai rượu mạnh và hai cái cốc quay lại, vẫn tươi cười:
- Ta uống rượu mừng. Anh biết đó nhé, mọi sự trôi chảy êm ru.
Anh ta gieo niềm tin tưởng hồn nhiên như đèn tỏa ánh sáng, anh chính
l{ người về sau sẽ phá kỷ lục l|i t{u thư tín tại vùng Codillère des Andes và
Nam Đại T}y Dương. Tối hôm ấy, mặc sơ mi trần, khoanh tay mỉm cười
dưới ánh đèn, c|i nụ cười hiền hậu bao dung, anh bảo tôi mấy lời giản dị:
“B~o t|p, sương mù, tuyết lạnh, thỉnh thoảng chúng sẽ làm khổ thân anh.
H~y nghĩ tới những người trước anh đ~ từng gặp những chuyện ấy rồi, và
hãy hân hoan tự nhủ: chuyện gì thiên hạ l{m được, thì bao giờ ta cũng có
thể l{m nên”. Tuy nhiên, tôi vẫn mở địa đồ ra và nhờ anh dù sao cũng nên
cùng tôi xét lại cuộc h{nh trình. V{ nghiêng th}n dưới |nh đèn, tựa lên vai
người bạn, tôi sống lại một phút giây bình thản của đời sống học sinh ngày
cũ.
Nhưng b{i học địa dư tối hôm ấy quả là một bài học dị thường. Anh
Guillaumet không dạy tôi học về Tây Ban Nha; anh biến Tây Ban Nha thành
một người bạn thân ái của tôi. Anh không hề nói qua về những song ngòi, về
dân chúng, về súc vật xứ này. Anh không nói đến th{nh Guadix, nhưng lại
nói tới ba cây cam quanh một c|nh đồng gần th{nh Guadix: “Anh phải lưu ý
tới ba cây cam ấy, phải coi chừng, ghi chúng vào bản đồ đi…” Từ đó, ba c}y
cam kia chiếm nhiều chỗ trên tấm bản đồ hơn rặng núi Sierra Nevada. Anh
Guillaumet không nói gì về th{nh Lorca, nhưng lại nói về một cái nông trại
nhỏ ở gần Lorca. Một nông trại sống. Một nông trại linh hoạt. V{ người chủ
trại. Và vợ người chủ trại. Thế là bỗng dưng cặp vợ chồng này mang một ý
nghĩa vô cùng hệ trọng đối với tôi – một cặp vợ chồng sống ở đ}u đ}u, c|ch
biệt tôi một ng{n rưỡi cây số, lẩn bóng mơ hồ giữa không gian. Sống yên ổn
nơi sườn non biệt lập, giống như những kẻ coi giữ hải đăng, cặp vợ chồng
này sẵn sàng chạy đi tiếp cứu mọi kẻ lâm nguy.
Bài học tối hôm đó đ~ đ|nh thức những gì? Từ cõi lãng quên, từ miền
xa vắng, từ những xứ cách biệt nghìn trùng, chúng tôi đ~ lôi ra v{ dựng dậy
những hình hài, những ủy khúc chi li mà không một nh{ địa lý học nào ở khắp thế giới có thể biết ra. Đối với một nh{ địa dư học, thì con sông Ebre
mới l{ đ|ng chú ý, vì nó chảy qua nhiều vùng đô thị lớn. Họ lưu t}m l{m gì
tới cái khe nhỏ len lỏi giấu thân trong lá cỏ ở phía Tây thành Motril? Bất quá
nó chỉ nuôi dưỡng được vài ba chục đóa hoa m{ thôi. “Anh phải coi chừng
cái khe cỏn con đó nhé. C|nh đồng mủm mỉm, chỉ tại nó mà trở nên đ|ng
sợ… Ghi v{o ngay bản đồ đi”. A! Tôi sẽ ghi nhớ nhiều ngày cái con rắn thành
Motril! Nó lập lòe tí tẹo, trông chả ra cái dạng gì gì nhiều cho lắm, thì với
tiếng nước chảy xè xè, nó mê hoặc say sưa v{i con ễnh ương ếch nhái,
nhưng kỳ thật là tối ư nguy hiểm: nó giả vờ vô sự, nó duỗi thân thiu thiu
ngủ, và nhắm mắt chỉ nửa con ngươi. Giữa thiên đường c|nh đồng tế độ vớt
trầm luân, nó duỗi dài mình mẩy dưới cỏ hoa, nằm chờ tôi cách chỗ tôi ngồi
đ}y ngót hai nghìn cây số. Chỉ gặp nó một lần! Thôi cũng đủ tan rã mất thịt
xương…
[1]
Tôi vẫn xin sẵn sàng chờ đợi những ba chục con cừu dàn trận sẵn nơi
kia, bên sườn đồi sắp mở cuộc đ|nh úp: “Anh tưởng c|nh đồng cỏ yên lành,
vù một cái! Ba chục con cừu bỗng loạn cuồng tung vó ngay dưới bánh phi
cơ…”. V{ tôi chỉ đ|p bằng một nụ cười đê mê kinh dị, trước sự hăm dọa
hiểm ác kỳ tuyệt như thế kia.
Cứ từ từ như vậy, dưới |nh đèn chong, xứ Tây Ban Nha trong tấm bản
đồ của tôi, cứ dần dà biến thành xứ sở của những chuyện thần tiên. Tôi vạch
dấu chữ thập những nơi tị nạn, và những chỗ cạm bẫy. Tôi ghi dấu chỗ nông
trại, chỗ ba mươi con cừu, chỗ dòng khe ẩn dạng. Tôi ghi thật đúng chỗ, cái
vị trí của bà chủ trại, m{ c|c nh{ địa dư học đ~ bỏ qua.
Lúc từ giã Guillaumet, tôi cảm thấy hai chân cần bước đi, trong c|i
đêm đông gi| buốt này. Tôi kéo cổ áo choàng lên và giữa đ|m người qua lại
vô tình, tôi triền miên nghe m|u tim mình tươi vui vỗ nhịp. Len lỏi sát nách
những người không quen, tôi hân hoan với niềm riêng tâm sự. Họ không
biết tôi, những người “du di man rợ” ấy, nhưng những ưu tư của họ, nhưng
những hưng phấn ân tình của họ, chính tôi là kẻ được họ gửi gắm sớm hôm
sau, lúc trời hồng dậy, tôi lên đường với những bọc thư tín mang theo.
Chính trong tay tôi là chỗ của mộng đời họ ký thác. Cuộn thân mình trong
chiếc áo choàng ấm |p, tôi bước đi theo nhịp bao dung của linh hồn lãnh tụ,
nhưng n{o họ có biết gì về tấm lòng tôi ân cần “hạ cố đến nhau” đ}u.
Họ cũng chẳng hề lưu ý tới những lời nhắn gửi của đêm đông vì đ}u
mà hạ tứ gieo vàng cho riêng lòng lãnh tụ mông }n. V}ng, c|i đêm tĩnh mịch
này có liên can tới thịt xương của tôi đó. V{ cơn b~o tố n{o đương soạn sửa,
và sẽ gây rối rắm cho cuộc viễn du thứ nhất này, nào ai biết tới đ}u. Tinh tú
mờ dần, lần lượt tắt đi, những người qua đường hồn nhiên dạo gót, làm sao
mà nhìn thấy cho ra? Tôi một mình cùng ngàn sao tâm sự. Tôi một mình
đón nhận những lời ban báo về vị trí qu}n thù, trước khi mở cuộc đấu
tranh…
Tuy nhiên những khẩu lệnh trầm trọng liên can tới đời tôi, thật ra tôi
đ~ thọ lãnh bên cạnh những tủ gương s|ng chiếu, rạng ngời những quà lễ
Giáng Sinh. Trong những tủ h{ng kia, dường như đ~ phơi b{y, trong một
đêm mùa đông kỳ vọng, tất cả những kho tang của mặt đất, v{ tôi đ~ đê mê
hưởng thụ niềm thanh lạc của con người chực từ khước hết để ra đi. Tôi l{
một chiến binh đương bị hăm dọa: tôi lưu luyến làm gì những chuỗi hạt
thủy tinh dùng để trang hoàng những buổi hội, tôi nặng tình chi nữa với
những chụp đèn, với những quyển s|ch kia. Đứng tại đ}y, m{ hình h{i thể
ph|ch đ~ ký th|c v{o những mù sương v}y phủ, những mây kéo tối sầm;
đứng ở đ}y m{ hồn phi công nghìn dặm đ~ nhấm thấy trước rồi, các vị chát
những đêm bay.
Tôi được đ|nh thức dậy lúc ba giờ s|ng. Tôi đẩy mạnh cánh cửa chớp,
nhận thấy trời đang mưa trên phố, tôi trang nghiêm mặc áo quần.
Nửa giờ sau, ở vệ đường, ngồi bên chiếc va ly nhỏ, tôi chờ chiếc xe
buýt đến. Biết bao bạn đồng nghiệp trước tôi, trong ng{y được chuẩn nhận
vào nghề, cũng đ~ từng ngóng đợi như tôi, lòng se se lại.
Từ góc đường, chiếc xe thời cũ đ~ nhô ra, tiếng kêu rầm rộ. Đến bây
giờ tới lượt mình, tôi cũng như c|c bạn đồng nghiệp cũ, được quyền ngồi
trên chiếc ghế băng d{i, chen giữa một ông ký nh{ đoan chưa tỉnh ngủ và
một vài công chức khác. Chiếc xe hôi mùi mốc, là hình ảnh những công sở
bụi bặm, những bàn giấy cũ mòn, những cuộc đời tàn lụi. Cứ khoảng năm
trăm thước, chiếc xe lại dừng, để chở thêm một thầy ký, một nh{ đoan, một
ông thanh tra nào nữa. Kẻ mới bước lên, buông tiếng chào, xen vào ghế; kẻ
đ~ ngồi từ trước, chớm ngủ thiu thiu, cằn nhằn gù gật. Rồi mọi người cùng
lần lượt lịm vào giấc thiu thiu. Trên các chặng đường trải đ| gồ ghề phố
Toulouse, chiếc xe đi, thật l{ điều ảo n~o… V{ người phi công dặm trường ngồi chen trong đ|m công chức, thoạt tiên, chẳng có gì phân biệt hết…
Nhưng những cột đèn cứ nối tiếp chạy d{i, nhưng phi trường cứ càng gần
thêm mãi, và chiếc xe chở kh|ch cũ kỹ lắt lay kia chỉ còn là cái kén mốc, và
con người từ trong đó lột x|c bước ra.
Mỗi bạn đồng nghiệp cũng từng đ~ như tôi, một sớm mai tương tự, đ~
từng cảm thấy tại thân mình, trong hình hài kẻ thuộc hạ dễ bị tổn thương,
chịu quyền uy của viên thanh tra cau có, bất chợt nảy nở ra con người mang
trách nhiệm chuyến t{u thư đi T}y Ban Nha v{ Phi ch}u; bất chợt nảy ra con
người lát nữa, giữa loạn cuồng sấm chớp, sẽ đương đầu với rặng núi
Hospitalet nằm đen ngòm như một con hắc long… ba giờ sau, ấy thế; bốn
giờ sau, lúc đ~ chiến thắng con rồng đen, người ấy sẽ hoàn toàn tự do tự
mình định đoạt nên bay vòng eo biển hay nhào thẳng tới tấn công dãy núi
Alcoy, đem gan liền ra thi t{i đấu sức với bão tố, với biển rộng, rừng sâu.
Mỗi bạn đồng nghiệp lẫn lộn trong đ|m phi công vô danh dưới vòm
trời đông đen kịt Toulouse, đ~ từng cảm thấy, dưới một buổi mai tương tự
buổi mai này, cứ như lớn rộng mãi trong thân mình một vị chúa tối thượng
năm giờ sau sẽ khởi sự tiện gió cất lìa dặm khơi, thả cánh bằng, nhằm phố
Alicante mà hạ xuống, trong nắng hè chói rực ngày hạ huy hoàng, bỏ lại sau
lưng cả một mùa đông phương Bắc, với mưa sầu tuyết hận phía sau…
Chiếc xe h{ng cũ kỹ biến mất rồi, nhưng vẻ khắc khổ, điệu ì ạch gập
ghềnh kia, tôi còn giữ nguyên trong kỷ niệm. Nó tượng trưng đầy đủ sự
chuẩn bị, rèn luyện cần thiết để thâm cảm một niềm vui trong khổ nhọc của
nghề mình. Mọi sự trong nghề n{y đều đơn giản một cách hãi hùng. Trong
cõi đó, ba năm sau, tôi đ~ nhận được tin anh phi công Lécrivain chết, mà lời
trao đổi không quá hai câu; Lécrivain, một trong số một trăm bạn đồng
nghiệp trên một con đường bay, một ng{y sương hoặc một đêm mù tối, đ~
đi vào cõi yên nghỉ thiên thu.
Lúc ấy vào khoảng ba giờ s|ng, cũng canh chầy tĩnh mịch, bỗng nghe
trong bóng tối vị gi|m đốc lên tiếng hỏi viên thanh tra:
- Tối nay Lécrivain không thấy hạ cánh xuống Casablanca.
- A! Hả?
V{ như sực tỉnh mộng dài, anh gắng cho tỉnh t|o để tỏ lòng sốt sắng,
anh hỏi thêm:
- A! Thế ư? Y không qua được? Y quay về?
Từ cuối chuyến xe khách, vẳng lên một lời đ|p gọn lỏn: “Không”.
Chúng tôi chờ nghe tiếp, nhưng không một tiếng nào thêm. Và giây khắc
qua, giây khắc biến, càng rõ rằng cái tiếng “không” kia, l{ tuyệt-đối-tiếng-
không; rằng không là không những Lécrivain đ~ không hạ cánh xuống
Casablanca, m{ cũng không bao giờ anh sẽ còn hạ cánh xuống bất cứ một
nơi n{o được nữa.
Buổi mai đó, buổi mai mở màn chuyến bay đầu tiên của tôi, tôi cũng
như c|c bạn đồng nghiệp, xin khuất mình nhận đủ các nghi tiết thiêng liêng
của nghề nghiệp, và cảm thấy thiếu mất tự tin, lúc nhìn ra bên ngoài thấy
con đường trải đ| lấp loáng phản chiếu bóng đèn lồng. Trên đường, những
vũng nước đọng, từng đợt gió bay qua l{m lăn tăn mặt nước. V{ tôi nghĩ:
“Đ}y chuyến bay đầu… thật tình… ta không may mắn lắm.” Tôi ngẩng nhìn
viên thanh tra: “Thế này có phải là xấu trời chăng?” Viên thanh tra mỏi mệt
nhìn ra cửa kính: “Đ}u có chắc gì?” Giọng ông cằn nhằn. Tôi tự hỏi: bằng dấu
hiệu nào mới biết được trời xấu? Tối hôm qua, riêng với một nụ cười, anh
Guillaumet đ~ xóa hết mọi triệu chứng không hay mà các bạn kỳ cựu đ~ l{m
chúng tôi e sợ, nhưng b}y giờ tôi nhớ hết: “Kẻ nào không thuộc đường
mình, thuộc từng đường sỏi, nếu y gặp một trận bão tuyết… thật đ|ng
thương thay! A! V}ng! Thật đ|ng thương thay!...” Họ buộc lòng phải giữ thể
diện với đ{n em, họ lắc đầu nhìn chúng tôi chòng chọc với một lòng thương
hại đ|ng bực phần n{o, như chừng họ ái ngại nơi chúng tôi những lỡ lầm
quá hồn nhiên dại dột.
Và thật vậy, đối với bao nhiêu kẻ trong chúng tôi, chuyến xe “buýt”
n{y l{ nơi tị nạn cuối? S|u mươi? Hay t|m mươi người rồi? Cũng đ~ từng
được chở đi do một tài xế lặng lẽ, một buổi mai mưa nhiều. Tôi nhìn quanh:
lốm đốm sáng trong đêm, những chấm đỏ đầu điếu thuốc như điểm nhịp
hồn tư lự. Những tư lự nhỏ nhoi giản dị của những công chức về già. Với bao
nhiêu người trong bọn tôi, những bạn đồng h{nh n{y đ~ đóng vai những kẻ
tiễn đưa lần cuối?
Tôi bắt gặp những câu tâm sự người ta thủ thỉ trao nhau. Tâm sự về
bịnh tật, tiền tài, về những quẩn quanh gia đình cơ cực. Chúng cho thấy
những v|ch tường tù ngục tẻ lạnh vây hãm những tấm thân kia. Và bất
thình lình hiện ra trước mắt tôi khuôn mặt định mệnh.
Hỡi người công chức già, người bạn hiện diện nơi đ}y, chưa bao giờ có
ai giúp anh lối tho|t, anh cũng không chịu trách nhiệm gì về việc đó. Anh đ~
xây dựng cuộc sống bình thản của mình bằng cách trám kín mọi ngõ nhìn ra
ánh sáng. Gió không thể đi về, vì mọi lối đều bị bít bởi xi măng. Anh giống
như những con mối. Anh cuộn tròn trong ổn định túc mãn của anh, trong
những tập tục cũ mòn, trong những thói lề ngột ngạt của cuộc sống địa
phương, anh dựng bức thành u tối che lấp lối đi về của gió rộng trùng khơi,
của sương hồng tinh tú. Anh không muốn bận lòng vì những vấn đề trọng
đại, anh đ~ khó nhọc nhiều mới quên lãng thân phận con người anh. Anh
không phải là một người cư trú trên một tinh cầu xê dịch, anh không tự nêu
ra với mình những câu hỏi o|i oăm: anh l{ người trưởng giả trung lưu phố
Toulouse. Không ai nắm lấy hai vai anh m{ đẩy mạnh, khi còn kịp lúc. Đến
bây giờ, thì đ~ muộn. Thể chất đ~ khô, nguồn tim đ~ cạn, xương khớp cứng
rắn rồi; kể tự bây giờ, không ai còn có thể đ|nh thức dậy trong người anh,
ấy hồn nhạc sĩ, ấy mộng thi nhân, ấy nh{ thiên văn học của thuở ban đầu,
chắc chắn đ~ có lần từng cư trú trong con người của anh.
Tôi không phàn nàn gì về những cơn mưa nữa. Nghề nghiệp ảo diệu
này mở rộng cho tôi một thế giới kh|c thường, và chỉ lát nữa thôi, tôi sẽ đọ
mặt với những con rồng đen, v{ những đầu non với những làn chớp xanh về
vây quyện. Vâng, một thế giới m{ lúc đêm tối về, tôi được tho|t ly v{ đọc
thấy phương hướng mình trong ánh vàng tinh tú.
Chúng tôi vào nghề theo lối đó, v{ khởi sự viễn du. Những cuộc hành
trình, thường thường chẳng xảy ra chuyện gì cho lắm. Chúng tôi tiến sâu
dần, sâu mãi vào những tầng thâm viễn của lĩnh vực mình, cũng như những
kẻ lặn nước lành nghề lao mình lặn sâu xuống biển. Ng{y nay thì lĩnh vực đó
được khai phá kỹ c{ng. Người phi công, người thợ m|y, người chuyên môn
vô tuyến, không còn là những kẻ mạo hiểm phiêu lưu; họ khép mình ở trong
phòng thí nghiệm. Họ tuân theo những trò xõa lộng của kim quay, họ không
còn thuận theo tiết điệu linh hoạt phiêu bồng mở phơi trong nhịp hồn
phong cảnh. Ở bên ngo{i, núi non chìm trong tăm tối, nhưng chúng không
còn là núi non nữa. Chúng trở thành những sức mạnh vô hình, cần phải được tính to|n độ gần xa. Người chuyên vô tuyến, dưới bóng đèn, ngồi im
ngoan ngoãn ghi những con số; người thợ máy dò hỏi bản đồ, người phi
công sửa chữa lại tay l|i cho đúng theo đường nếu những rặng núi xê xích,
nếu những đỉnh núi n{o anh đ~ định vượt qua bên phía sườn tả, bỗng chợt
thấy hiện ra sừng sững trước mặt anh, trong lặng lẽ bí mật như một cuộc
động binh quân sự. Còn những người chuyên vô tuyến canh phòng dưới đất,
họ cũng ngoan ngo~n ghi chép trong cuốn sổ riêng, cũng trong phút gi}y ấy,
chính những điều mà bạn đồng nghiệp trên phi cơ đọc ra: “Nửa đêm qu|
bốn mươi phút. Đường đi theo độ 230. Trên tàu yên ổn cả.”
C|c đội phi h{nh ng{y nay đều bay như vậy đó. Họ không có cảm giác
l{ mình đang chuyển dịch. Như giữa biển ban đêm họ không dựa v{o đ}u để
định hướng. Nhưng c|c m|y móc đ~ đưa v{o tr{n ngập gian phòng sáng
trưng n{y một rung động đều đều làm biến thể bản chất của nó đi. Nhưng
giờ phút quay. Nhưng cả một pháp thuật vô hình cứ liên tiếp diễn ra trên
các mặt kính, trong từng ngọn đèn vô tuyến, và trong các kim. Từng phút,
từng giây, những cử chỉ ẩn mật, những tiếng nói chìm tắt, sự chú ý cẩn trọng
kia, còn dọn đường đi cho huyền nhiệm tới. Và lúc giờ đ~ đến, người phi
công hẳn nhiên là có thể d|n đầu vào mặt kính m{ đưa mắt nhìn ra. Từ hư
vô, ho{ng kim đ~ nảy hột; nó chói vàng rạng rỡ trong những ánh lửa nồng:
trạm nghỉ tới rồi đ}y.
Ấy thế tuy nhiên chúng tôi ai cũng từng có biết những chuyến đi, m{
bỗng dưng, dưới ánh sáng một quan điểm riêng biệt, lúc chỉ còn cách trạm
nghỉ không xa, chúng tôi chợt thấy chơ vơ… còn đ|ng ngậm ngùi hơn thấy
mình lạc lo{i đất xa xôi Ấn Độ. Như cả cuộc đời mất đi. Mong gì ng{y trở lại.
Trường hợp đó, Mermoz đ~ gặp vào lần thứ nhất anh bay qua Nam
Đại T}y Dương bằng thủy phi cơ. Chiều hôm đó, anh tiến vào vùng Pot-au-
Noir. Anh nhìn thấy trước mặt những cơn gió biển từng trận nổi lên tung
bão tố, từng vòi cứ quấn siết chặt lại từng phút từng gi}y, như nhìn thấy
một bức th{nh đương dựng lên, rồi bóng đêm phủ xuống che dấu mất. Một
giờ sau, anh len lỏi bay qua những đ|m m}y, v{ bước vào trong một cõi bờ
huyền hoặc.
Những vòi nước biển dựng đứng lên, cơn b~o dồn dập cuốn lấy, quấn
siết, đứng sừng sững như những cột trụ đen đủi khổng lồ của một điện đ{i.
Chúng to ra ở hai đầu, chịu đựng sức nặng của vòm bão giông âm u thấp tịt đè xuống. Nhưng, xuyên qua những đường nứt nẻ của vòm đen giông gió,
|nh s|ng đổ xuống từng loạt long lanh, và vừng trăng tròn trịa bỗng sáng
ngời lên giữa những cột trụ, vằng vặc soi trên mặt biển gi| băng. Mermoz
tiếp tục bay qua những đền đ{i hoang phế này, xuyên ngang, duỗi dọc,
chếch chếch hướng từ đường |nh s|ng n{y đến đường ánh sáng kia, vòng
quanh những cột trụ khổng lồ, nghe hải triều cuồng nộ dấy lên ì ầm không
dứt, anh bay suốt bốn giờ, dọc theo những lạch trăng lai l|ng, tìm hướng
thoát ra khỏi điện đ{i. Cảnh tượng ấy đồ sộ hùng vĩ đến nỗi Mermoz khi
thoát ra khỏi vùng Pot-au-Noir, mới chợt nhận thấy rằng, lúc còn lăn lóc
“cuộc chơi” mình quên cả sợ.
Tôi cũng nhớ lại một trong những giờ vượt biên thùy cõi thực: những
tin tức vô tuyến ở những trạm hàng không ven sa mạc Sahara, tối hôm ấy
hoàn toàn sai bét cả, và gây nhầm lẫn một cách thật trầm trọng cho tôi và
anh chuyên viên vô tuyến Néri. Cho đến lúc chợt nhìn thấy m{u nước biển
lấp loáng ở dưới kia, phía sau một hố sa mù, tôi vội bẻ lái quay về bờ đột
ngột, mà chẳng rõ mình đ~ đ}m đầu lạc nẻo ra biển khơi tự bao lâu.
Chúng tôi không còn dám chắc mình có thể vào kịp được bờ, rất có thể
dầu xăng sẽ thiếu. Mà vào cập đất liền, cũng còn phải tìm lại trạm hàng
không. Thật là bối rối. Mặt trăng lại tới giờ sắp lặn mất. Tin tức không có,
không nghe được gì, chúng tôi chịu điếc, bây giờ sắp phải chịu đui. Vừng
trăng tắt lịm hẳn, như một đốm lửa tàn chìm trong sa mù giống như một dãi
tuyết. Vòm trời, trên cao, tới lượt bị m}y đen v}y phủ, và từ đó chúng tôi
đ{nh phải bay giữa những đ|m m}y sa mù, trên dưới mông mông, trong
một cõi bờ mù mịt, không một ánh sáng, không một sắc hình…
Những trạm h{ng không, đ|p lại tiếng gọi của chúng tôi, chả chỉ dẫn
cho chúng tôi được chút gì cả: “Không thể tường kê phương hướng…” bởi vì
tiếng gọi của chúng tôi họ nghe từ khắp nơi tới, và chẳng biết thật chính tự
chỗ nào.
Bất thình lình, lúc chúng tôi tuyệt vô hi vọng, bỗng thấy ló ra một
chấm sáng ở chân trời, về phía tả. Một niềm vui tràn ngập, Néri nghiêng
mình xuống bên tôi, và tôi nghe anh hát. Nhất định đó l{ trạm nghỉ, nhất
định đó l{ |nh ngọn đèn pha, bởi vì b~i Sahara đêm tới thì tối mò mò, suốt
xứ nằm chết lịm, l{m gì có |nh s|ng. Nhưng |nh s|ng chỉ lấp lánh một tí, đ~ tắt ngay.
Hỡi ôi! Chúng tôi đ~ nhằm một vì sao mà bay tới. Một vì sao sắp lặn,
nên thấy hiện ở chân trời, hiện ra chỉ trong vài phút, giữa mây mờ, sương
bạc.
Rồi từ đó, chúng tôi cứ thấy lần lượt xuất hiện những đốm ánh sáng
khác, lại cứ xoay hướng nhằm theo, khắc khoải trong mơ hồ hy vọng. Thấy
đốm lửa s|ng hơi l}u, liền thử xem có thật chăng đó l{ lối sống. Néri gọi
trạm Cisneros: “Thấy lửa rồi; các bạn hãy tắt ngọn lửa pha đi v{ thắp lại ba
lần.”
Trạm Cisneros chớp ngọn lửa pha của họ ba lần, nhưng đốm ánh sáng
chúng tôi đuổi theo thì vẫn cứ lửng lơ, không nh|y; lại một vì sao, làm sao
lung lạc được.
Xăng đ~ cạn, nhưng mỗi lúc thấy chiếc mồi vàng, chúng tôi lại đuổi
theo m{ đớp; mỗi lần thấy đích thị là trạm nghỉ ch}n, l{ con đường sống, rồi
lại đ{nh đích thị bỏ rơi v{ đuổi theo một vì sao khác.
Từ đó chúng tôi cảm thấy lạc lõng chìm ngập trong khoảng rộng liên
h{nh tinh, chơi vơi giữa h{ng trăm tinh cầu xa hút, biền biệt đuổi theo riêng
một tinh cầu thiết thực, tinh cầu của riêng đời sống chúng tôi, chứa đựng
những phong cảnh đầm ấm quen thân, những căn nh{ bậu bạn, những
luyến ái dịu dàng.
Của riêng một tinh cầu chứa đựng… Tôi sẽ nói cùng các anh về cái
hình ảnh đ~ hiện ra trước mắt tôi, và có lẽ các anh sẽ xem là ngây dại.
Nhưng nằm giữa lòng hiểm họa, con người ta vẫn còn mãi những đòi hỏi,
những yêu sách của con người, và tôi thấy đói, v{ tôi thấy khát. Nếu tìm ra
được Cisneros chúng tôi sẽ hạ cánh xuống lấy thêm xăng, v{ tiếp tục lên
đường bay tới Casablanca, hạ cánh giữa cảnh bình minh mát mẻ. Tuy còn
sớm, nhiều qu|n rượu cũng đ~ mở cửa rồi… Néri v{ tôi sẽ ngồi vào bàn,
bình yên vui vẻ nhắc lại đêm qua m{ cười thỏa thuê, trước những chiếc
bánh nóng hổi và tách cà phê sữa thơm. Néri v{ tôi sẽ đón nhận tặng vật
bình minh kia của cuộc sống. Bà già nhà quê chỉ gặp đấng Chí Cao của mình
qua một hình ảnh vẽ, một chiếc mề đay, một tràng chuỗi hạt: chúng tôi cũng
vậy, muốn được chúng tôi hiểu ra, thì thiên hạ hãy nói lên bằng ngôn ngữ đơn giản. Đối với tôi, niềm vui sống dồn tụ hết vào trong miếng ăn đầu tiên
nọ, thơm tho nóng hổi, trong tách sữa pha cà phê bột mình do đó con người
ta mới cảm thong được với những vườn cỏ yên lành, với những đồn điền xa
lạ, với những ngày mùa nô nức, với mặt đất ưu tư… Giữa bao nhiêu tinh cầu,
chỉ có một tinh cầu cung cấp cho chúng tôi cái bát thức ăn thơm tho buổi
sáng.
Nhưng éo le thay những nghìn trùng nước thẳm đương chồng chất
giữa con tàu chúng tôi và miền đất th}n yêu đó. Tất cả của cải trần gian nằm
gọn trong hột bụi lạc loài giữa hằng hà sa số ngôi sao. V{ nh{ thiên văn học
Néri muốn tìm ra hột bụi đó, vẫn phải đ{nh van khấn mãi những vì sao.
Thình lình nắm tay anh chạm mạnh vào vai tôi. Trên tờ giấy anh trao,
tôi đọc: “Mọi sự tốt đẹp, tôi vừa nhận được một điện tín huy ho{ng…” Tim
đập mạnh, tôi chờ anh chép xong năm s|u chữ sắp cứu thoát chúng tôi. Rồi
tôi đón nhận tặng vật vô giá của nhà trời.
Từ Casablanca đ|nh tới, l{ nơi chúng tôi từ biệt đêm hôm qua. Vì tống
đạt chậm trễ, tới bây giờ bỗng đột ngột nó v{o tay chúng tôi, đi xa hai nghìn
cây số, giữa mây và mù, lạc lõng trên biển khơi. Điện tín đó do viên đại diện
chính phủ tại phi trường Casablanca đ|nh tới. Tôi đọc: “Thưa ông Saint-
Exupéry, tôi buộc lòng phải yêu cầu Ba Lê phạt ông, ông đ~ bay qu| s|t c|c
nhà chứa, lúc khởi hành tại Casablanca.” Quả thật tôi có bay quá sát các nhà
chứa. Quả thật nữa ấy l{ ông đại diện kia ph{n n{n cũng chỉ do trách nhiệm
nghề nghiệp. Nếu đứng tại phòng giấy một phi trường, ắt l{ tôi đã xấu hổ
nghe lời quở tr|ch đó. Nhưng nó lại tìm tới chúng tôi ở chính một nơi nó
không có quyền tìm tới.
Nó lên điệu sai bét, cả giọng cả lời, giữa những ngôi sao quá lẻ tẻ, giữa
sương mù giăng mắc, giữa những hương vị hãi hùng của biển khơi. Chúng
tôi nắm trong tay mình vận mệnh mình, vận mệnh chuyến thư v{ vận mệnh
con tàu; cầm tay l|i m{ tìm phương hướng sống, kể cũng đ~ khổ nhọc lắm
thay, thế mà kẻ kia còn đuổi theo trút hận! Nhưng chúng tôi không hề phát
cáu, trái lại, Néri và tôi lại còn khoái chí vui cười hể hả khôn xiết. Ở đ}y
chúng tôi là chúa tể, lời đe dọa kia vụt giúp chúng tôi kh|m ph| ra điều ấy.
Anh cai này há không biết rằng chúng tôi đ~ l{ đại úy hay sao? Anh ta phá
rối giấc mơ của chúng tôi, giữa lúc chúng tôi còn bận bách bộ từ sao Bắc đẩu
tới Nhân mã cung, giữa lúc cái việc duy nhất ngang tầm chúng tôi và xui chúng tôi bận bịu, là sự phản bội kia của vừng nguyệt…
Bổn phận cấp bách, bổn phận duy nhất của quả h{nh tinh nơi con
người kia phát lộ, ấy là làm thế nào cung cấp cho chúng tôi những con số
chính xác giúp chúng tôi tính toán với các vì sao. Thế mà những con số kia
lại sai bét cả. Ngoài việc ấy ra, tạm thời tr|i đất chỉ nên câm miệng. Và Néri
viết: “Đ~ lẽ họ tìm cách dẫn ta về hơn l{ l{m c|i trò khỉ ấy”. “Họ” đối với
Néri, tóm thâu mọi dân tộc địa cầu, với c|c thượng hạ nghị viện, với c|c đội
hải lục qu}n v{ ho{ng đế của họ. V{ đọc lại bức điện tín của một tên cuồng
muốn gây sự với chúng tôi, chúng tôi bẻ lái con tàu về phía sao Mercure.
Một ngẫu nhiên hết sức kỳ lạ bỗng cứu thoát chúng tôi: tới lúc không
còn chút hy vọng tìm ra trạm Casneros, buộc lòng phải bay đ}m ngang v{o
bờ biển, tôi đ{nh quyết định giữ m~i hướng đó m{ bay cho tới khi cạn hết
xăng. Như vậy họa chăng may ra có khỏi rơi chìm trong đ|y biển. Tai hại
thay, những ngọn đèn pha phỉnh phờ đ~ lôi tôi tới đ}u, có trời mà biết! Tai
hại thay, sa mù dằng dặc buộc chúng tôi dấn liền trong đêm tối căm căm,
chắc gì sẽ cho phép chúng tôi hạ c|nh vuông tròn nơi đất liền mà không tai
nạn! Nhưng đến nước này còn nói chi nữa chuyện chọn lựa hơn thua.
Cảnh huống đ~ qu| rõ rệt, tôi chỉ biết nhún vai lúc Néri chuyền cho tôi
xem một điện tín, một điện tín nếu đến sớm một giờ, ắt đ~ cứu thoát chúng
tôi: “Cisneros b}y giờ mới chịu cho biết vị trí chúng ta. Cisneros chỉ: khoảng
chừng hai trăm mười sáu khả nghi…” Cisneros không còn chìm trong tăm
tối heo hút. Cisneros đ~ hiện ra rõ r{ng, đích thực, ở phía tả của chúng tôi.
V}ng, nhưng c|ch bao xa? Hai đứa chúng tôi trao đổi nhau vài tiếng. Chậm
mất rồi. Cả hai cùng một ý: còn lo lắng tìm tới Cisneros, là còn làm trầm
trọng thêm mối nguy cơ không v{o kịp đất liền. V{ Néri đ|p: “Chỉ còn một
giờ xăng bay, phải theo hướng chin mươi bốn.”
Trong khi đó, c|c trạm hàng không lần lượt thức giấc. Trong đối thoại
giữa chúng tôi, giờ xen thêm những “giọng nói” của Agadir, của Casablanca,
của Dakar. Đ{i vô tuyến của các thành phố đ~ b|o tin cấp cứu cho các phi
trường. Những gi|m đốc c|c phi trường đ~ b|o tin cho anh em biết. Thế là
lần lượt họ xúm quanh chúng tôi như quanh giường người bệnh. Sốt sắng
vô ích rồi, dù sao cũng l{ sốt sắng. Ân cần khuyên bảo cũng ho{i thôi, nhưng
sao mà thân ái thế!
Bất thình lình Toulouse xen tới. Toulouse, đầu đường; Toulouse, khởi
điểm; Toulouse, cách bốn nghìn cây số heo hút ở cuối trời. Toulouse vụt
chen vào trong câu chuyện, không kèn không trống, hỏi ngay: “M|y của các
anh có phải là chiếc F… (tôi quên số hiệu) – Đúng thế. – Vậy c|c anh còn đủ
hai giờ xăng nữa. Bình chứa xăng n{y không phải là thứ thông thường. Bay
về Cisneros đi.”
Thế đó, những cần thiết do nghề nghiệp nêu ra, đ~ biến dạng cho cõi
đời chuyển hình, cho cuộc sống mỗi ng{y c{ng phong phú thêm. V{ đ|o
cùng, cũng chẳng cần chi tới những đêm bay đặc biệt như thế này mới mở
ra trước nhãn giới phi công đường trường một ý nghĩa t}n kỳ ở giữa lòng
những cảnh tượng cũ. C|i phong cảnh thông thường đều đặn, không thay
không đổi, vốn từng gây nhàm chán cho khách bộ h{nh, đối với đội phi công
cũng đ~ biến hình khác hẳn. Cái khối mây bàng bạc chắn ngang chân trời,
đối với phi công không còn là cảnh trí: nó sắp sửa liên can tới bắp thịt, khớp
xương người lái máy, nó sắp nêu lên cho phi công nhiều vấn đề cần giải đ|p.
Phi công phải lưu ý tới tự ban đầu, phi công phải ước độ, cân nhắc; một
ngôn ngữ riêng biệt đương kết buộc đôi bên. N{y đ}y mõm núi, tuy đó còn
xa: nó sắp mang khuôn mặt nào thế? Dưới trời trăng s|ng, nó l{ c|i mốc
định phương hướng thuận tiện. Nhưng nếu phi công phải bay trong đêm
tăm, giữa sa mù vây bọc, hướng sai đường mà khó chữa lại phương, m{
hoang mang không rõ được vị trí mình, thì mõm núi kia lại biến thành thuốc
nổ, suốt đêm d{i hăm dọa, như hệt một quả mìn nằm ng}m trong nước biển
trôi dạt bình bồng, biến biển khơi th{nh nguy cơ mọi nẻo.
Trùng khơi cũng thiên hình vạn trạng. Đối với hành khách ngồi im thu
hình trên ghế, thì bão tố thế nào, họ có thấy ra đ}u: từ trên cao chín tầng
nhìn xuống, sóng trùng trông phẳng phiu phớt phớt, lớp lớp mù sa bình yên
bất động. Thấy gì chăng nữa, là những đợt rộng m{u nước trắng phau phau
trải như những cánh quạt khổng lồ, với những đường g}n mơ hồ khía bọt,
như đông th{nh băng gi| thế thôi. Đối với đội phi công, mọi sự khác hẳn. Họ
nhận ra rằng những chốn đó l{ chỗ đất cấm ngăn, không bao giờ được hạ
cánh. Những tàn lá quạt kia không khác gì những cánh hoa chứa đầy nhựa
độc.
Cho dẫu h{nh trình sau trước vẫn bình yên, người phi công yên dặm
bay n{o đó, cũng không hề nhìn phong cảnh như ngắm cảnh tượng trước
nhãn quan. Những sắc màu trên mây, những sắc m{u dưới đất, những dấu vết gió dàn trên mặt biển, những bóng hoàng vân hoặc r|ng đỏ chiều hôm,
đ}u có phải để cho mình thưởng ngoạn, chính l{ để cho người suy tưởng, ưu
tư. Cũng như thể người nông d}n đi xem xét ruộng đồng, còn phải chú ý
đo|n xem thời tiết, coi chừng qua trăm nghìn tiên triệu, nhịp động của xuân
đi, xu}n đến, của băng gi| hăm dọa đương về, của mưa dầm đương tới, thì
phi công cũng vậy, cũng phải xem dò dấu hiệu m{ đo bước tuyết về, mù sa
sắp phủ, hoặc đêm sắp tới sẽ hạnh phúc hồng v{ng…
M|y móc ban sơ tưởng như chừng xui anh lìa xa những vấn đề thiên
nhiên lớn rộng, thật ra lại buộc người quy phục v{o đó một cách nghiêm
mật hơn. Một mình giữa tòa án mênh mông mở ra một cơn b~o dậy, người
phi công phải binh vực khối thư tín của mình trước lời kết tội của ba hung
thần sơ thủy: non ngàn, biển thẳm và bão giông.
II
BẠN ĐỒNG NGHIỆP
1
V{i người bạn anh em, có Mermoz trong đó, đ~ thiết lập con đường
Pháp từ Casablanca tới Dakar, xuyên qua Sahara chưa quy phục. Máy thời
đó không vững chắc, một lần máy hỏng, Mermoz lọt v{o tay người Maures;
họ do dự không giết anh, cầm tù anh mười lăm hôm, rồi cho chuộc tiền.
Mermoz thoát nạn, lại tiếp tục l|i m|y bay thư tín ngang qua những khu vực
cũ.
Khi con đường hàng không Mỹ mở ra, Mermoz luôn luôn tiên phong,
được giao phó việc nghiên cứu qu~ng đường từ Buenos-Aires tới Santiago,
v{ con đường vượt Sahara, anh còn phải thiết lập một đường bay ngang dãy
Andes. Người ta giao anh sử dụng một phi cơ chỉ bay tới độ cao năm ng{n
hai trăm thước. Nhưng những ngọn Codilère lại cao tới bảy ng{n thước. Và
cất cánh bay tìm những khoảng thấp khả dĩ cho phép phi cơ băng qua. Sau
những ngày dạn dày sinh tử với cát, giờ tới lượt Mermoz phải liều thân thi
gan với núi, với những mõm nhọn tung từng đợt tuyết trong gió bay, với
những bóng mờ cảnh vật trước lúc bão giông, với những cơn lốc cuốn cờ ác
liệt thổi cuồng giữa hai v|ch tường non gi|p trĩ, đụng độ một lần, là một lần
rút dao nhọn xáp lá cà thập tử nhất sinh. Mermoz hồn nhiên lao mình vào
những trận đấu ấy, chả cần biết chút gì về phía địch, chả cần ngẫm lại xem
con người còn có thể sống còn, sau cuộc siết, cơn ôm.
Mermoz chỉ biết thử dọn đường giùm kẻ khác.
Rồi một bận, vì mê mải dọn đường giùm, chàng bất chợt thấy mình
làm tên tù cho dãy Andes vây hãm.
Hạ cánh trên một vùng cao bốn nghìn thước, bốn mặt tứ vi l{ th{nh đ|
dựng, suốt hai ngày liền, anh v{ người thợ máy cố tìm lối tho|t th}n. Nhưng
vô hiệu. Mọi nẻo bí đường. Chỉ còn liều ván chót với rủi may chơi c|i nước
“nhứt chín nhì bù” với ngẫu nhĩ, thử lao phi cơ v{o khoảng trống, cứ cho nó
lăn trên mặt đất gồ ghề, lướt tới vực sâu mà lao bừa xuống. Trong cơn lông
lốc đó, phi cơ đạt tốc độ đủ để tu}n theo tay l|i điều khiển. Mermoz liền lật ngược hướng phi cơ lên đối diện với một mõm núi nhô, chạm v{o, lướt qua,
v{ bao nhiêu nước chảy ra đầy ứ các ống dẫn, phi cơ sau bảy phút bay đ~
trở lại làm nủng, nguy rồi, thì bỗng nhiên trước mắt Mermoz c|nh đồng
Chili dàn rộng dưới kia, man m|c như bờ cõi Thiên đường.
Qua ngày hôm sau, Mermoz lại xoay chiều trở lại, khởi sự lần nữa liều
lĩnh vẫy vùng.
Lúc d~y Andes đ~ ho{n to{n chịu khuất phục, khi những cồn cao, mô
thấp đ~ được lướt qua, điểm lại, kỹ thuật của chữ, của nghề, trong ngoài bảy
t|m, đ~ nắm vững tỏ tường, thì Mermoz liền đem giao lại qu~ng đường tròn
trịa trơn tru cho bạn Guillaumet, rồi lo tới việc khai phá lối đi những hoa
nguyệt n~o nùng trong c|ch điệu bay đêm.
Những trạm hàng không thuở ấy chưa tổ chức hoàn hảo c|ch đốt đèn
soi tỏ lối đi nẻo về cho lữ kh|ch đi đêm, v{ ở các phi cảng u u, lúc khách biên
đình Mermoz ghé lại, thường chỉ thấy lơ l|o v{i ngọn lửa xăng gầy guộc đón
người.
Tuy vậy, người vẫn chu toàn cho cuộc, và mở được con đường cho êm
dịu giao hoan.
Lúc bờ cõi bóng đêm đ~ ho{n to{n quy thuận, Mermoz lại giũ |o lên
đường ra biển gạ gẫm với trùng khơi. Nhờ đó m{ lần đầu tiên năm 1931,
thư tín đ~ dập dìu được chuyên chở trong bốn ngày, bay rộng cánh từ
Toulouse tới Buenos-Aires. Chuyến trở về lần nọ, Mermoz bị hết xăng giữa
Nam Đại T}y Dương, đ{nh hạ cánh trên dặm khơi dậy sóng. Một con tàu
thủy đến cứu anh, cứu bạn đồng đội, v{ thư tín vẹn toàn.
Thế đó, Mermoz đ~ lần lượt khai phá từ sa mạc, tới núi non, từ đêm
tăm tới biển lộng. Hơn một lần rơi trên c|t, trên non, trong bóng đêm v{
trên mặt biển. Và mỗi lúc thoát hiểm quay về, l{ m~i m~i để trở lại ra đi.
Sau mười hai năm nghề nghiệp ngang dọc, một lần nữa anh lại vượt
qua Nam Đại T}y Dương, rồi một tin điển vắn vủn đ|nh về, báo cho anh em
hay rằng anh bị hỏng máy ở tay phải, phía sau. Rồi thôi, chỉ còn lặng lẽ.
C|i tin nghe không có gì đ|ng ngại, nhưng sau mười phút im lặng, tất
cả c|c đ{i vô tuyến trên đường từ Paris tới Buenos-Aires cùng khởi sự
ngóng tìm, khắc khoải. Bởi vì nếu trong cuộc sống hằng ng{y, mười phút
chậm trễ chẳng có nghĩa mấy thì ở đ}y, đối với chiếc phi cơ thư tín, mười
phút trễ tràng mang một ý nghĩa trầm trọng vô song. Ở giữa lòng khoảng
thời gian lặng câm vắn vủn nọ, có khép tròn một biến cố, cho tới bây giờ
không ai rõ sự việc xảy ra sao. Dù không đ}u, dù thê thảm, biến cố kia cũng
đ~ xảy ra rồi. Đ~ đi v{o qu| v~ng. Định mệnh đ~ đưa lời phán quyết bất khả
vãn hồi: một bàn tay sắt đ~ buộc đội phi hành hạ cách xuống biển, hoặc
chẳng hề gì, hoặc chịu tan hoang. Nhưng bản án kia không tuyên bố ra cho
những kẻ chờ mong được biết.
Ai trong chúng ta chẳng từng rõ những hy vọng cứ mong manh dần,
cái lặng lẽ câm nín cứ trầm trọng từng phút từng gi}y, như một cơn bệnh
hãi hùng. Chúng ta hy vọng, nhưng giờ khắc trôi, và tới lúc thôi thế! Mọi sự
muộn cả rồi. Những bạn hữu đ~ đi, đ~ không về được nữa, đ~ đ{nh yên nghỉ
thiên thu trong lòng biển khơi một Nam Đại T}y Dương kia đ~ bao lần
ngẩng mặt nhìn ai trên trời cao vạch đường ngang lối dọc. Mermoz hẳn đ~
nằm giấu thân ở trong vòng sự nghiệp, giống như người thợ gặt kết bó xong
xuôi lượm lúa, ngả người nằm xuống ngủ giữa đồng.
Mỗi lần một bạn hữu tử nạn theo lối đó, c|i chết của anh thoạt xem ra
cũng chỉ là một chuyện thường tình, trong vòng nghề nghiệp; và thoạt tiên,
có lẽ không xui lòng ta khó chịu bằng một cái lối chết khác. Vâng, anh bạn đ~
ra đi, xa dời mất tích, anh đ~ chịu đón nhận sự biến thể cuối cùng của trạm
nghỉ nghịch lữ nh}n gian; nhưng sự hiện diện của anh từ đ}y vắng thiếu,
dẫu sao cũng chưa l{m ta n~o lòng trong s}u thẳm tâm linh bằng sự thiết
thân thiếu cơm thiếu áo. Có lẽ… v}ng…
Vì chúng ta vốn sống trong thói quen chờ mong lâu ngày những tao
ngộ. Nhưng vì những bạn hữu dặm dài, ở rải rác khắp nơi, từ Paris tới
Santiago xứ Chili, biệt lập nhau có phần như những người lính canh không
cùng nhau hỏi chuyện. Cần trận ngẫu nhĩ những cuộc viễn du, mới bất ngờ
tụ họp đ}u đó những phần tử rải rác của đại gia đình nghề nghiệp. Quanh
chiếc b{n ăn một chiều tối, tại Casablanca, tại Dakar, tại Buenos-Aires, hằng
hằng những năm tròn im lặng, người ta khơi trở dậy những câu chuyện bỏ
dở ng{y xưa, người ta thắt trở lại những mối dây ràng buộc mình vào trong
những kỷ niệm. Rồi lại ra đi. Mặt đất tròn té ra kể ra cũng l{ vừa hoang tiêu vừa phong phú. Phong phú vì những khu vườn ẩn kín, giấu thân, khó lui vào
mà viếng, mà vẫn luôn luôn nằm đợi đó chờ lúc nghề nghiệp sẽ luôn luôn
còn cơ hội dắt dẫn ta về, một chiều xuân dâng, một thu hồng tạ. Các bạn
hữu, xa ta vì đời xô đẩy, xa ta vì cuộc sống không cho phép ta nghĩ tới họ
nhiều, nhưng họ vẫn còn ở tại một nơi n{o đó chẳng biết, lặng lẽ và bị lãng
quên, nhưng xiết bao trung thành chung thủy! Và nếu trên đường đi chợt
gặp, họ còn nắm lấy vai ta lắc mạnh, vồ vập vui mừng! Vâng, vâng, quả thế,
chúng ta quen mong đợi chầy ng{y…
Nhưng dần dà chợt thấy rằng cái tiếng cười trong trẻo của kẻ kia
không bao giờ ta nghe trở lại nữa, ta chợt thấy rằng khu vườn êm dịu nọ sẽ
muôn đời l{ vườn cấm với ta. Tới lúc bấy giờ, mối đau lòng mới trỗi dậy
niềm tang tóc thật sự mới khởi đầu. Không da diết, đoạn trường, nhưng pha
mùi chát chát.
Thật vậy, không có gì thay thế nổi người bạn đường đ~ bỏ đi. Người ta
không tự tạo được cho mình những bạn già thân ái. Không có gì sánh kịp cái
kho tàng những kỉ niệm chia nhau, những ngày giờ cùng chung hoạn nạn,
những cằn nhằn gây gổ, những thành thật giải hòa, những chân tình ở trong
nhịp tim máu. Mất đi, l{m sao tạo ra trở lại. Trồng một cây sồi, cây phong,
cây bồ đề, và mong sắp được nằm mơ dưới bóng l| nay mai, đó l{ ảo mộng.
Đời vốn đi như thế. Ban đầu vào cuộc sống, chúng ta giàu, giàu nhiều,
giàu nữa; trong bao năm, chúng ta trồng cây, tỉa hột, nhưng ng{y th|ng trôi,
năm sầu lại: thời gian phá vỡ mất công trình; cây rừng bị chặt; bạn hữu
từng người rơi rụng mất. Bóng tùng quân nghìn tầm xiêu đổ, c|i con người
trơ trụi sẽ còn nghe rõ trong hoang lieu mối ngậm ngùi xuân xanh xa mất.
Đó l{ b{i học của Mermoz và những bạn kh|c đ~ dạy tôi. Sự cao quý
của một nghề có lẽ trước tiên là: kết hợp con người lại; chỉ một điều hòa
hoa quý trọng, ấy là tình bạn trong giao tế trần gian.
Nếu làm việc chỉ nhằm riêng những mục đích vật chất, chúng ta sẽ tự
xây tù ngục cho mình. Chúng ta khép mình cô đơn trong đó, với những đống
tiền, đống bạc tàn lụi như tro than, chẳng thể nào mang lại chút sinh thú nào
có nghĩa cho sự sống.
Nếu tôi tìm lại trong kỷ niệm mình những hình ảnh nào ghi tạc sâu xa,
nếu tôi dò tính lại những ngày giờ n{o đ|ng kể, thì chắc chắn rằng tôi sẽ tìm
thấy được những gì không một thứ tiền của nào tạo nổi. Người ta không thể
mua được những tình bạn Mermoz, của một bạn đường mà riêng những giờ
kham khổ sống chung đ~ gắn chặt họ v{o đời ta mãi mãi.
C|i đêm bay ng{y nọ, với những tinh tú trên trời, cái niềm thanh thản
trong vương quyền chúa tể bát ngát vài giờ, l{m sao đem bạc tiền mà mua
cho được.
Cái hình sắc tân kỳ của cõi sống hiện ra sau dặm đường trắc trở,
những cây cối kia, những hoa lá nọ, những thân hình phụ nữ với những nụ
cười tươi m|t nồng thắm yêu đời, cái cuộc đời vừa được trao lại chúng tôi
v{o lúc sương hồng mai sớm, bản hòa âm dìu dặt của hằng hằng sự vật nhỏ
nhoi đương trao chúng tôi một phần thưởng, một tặng vật vô song, bạc tiền
không mua được.
V{ không mua được c|i đêm sống giữa những người không đề huề
giao hảo tôi còn nhớ lại bữa nay.
Chúng tôi gồm ba đội phi cơ của hãng Aéropostale chịu bí lối tại bờ
Rio de Oro, lúc trời sắp tối. Anh bạn Riguelle hạ c|nh trước hết, vì gãy trục;
một bạn kh|c, Bourgat, bay đến để đón phi đội Riguelle về, nhưng m|y anh
cũng bị hỏng luôn. Tuy hỏng nhẹ, nhưng cũng đủ gắn chặt anh tại mặt đất.
Tôi đến sau cùng nhưng vừa hạ cánh, thì trời vừa tối. Chúng tôi quyết định
phải cứu phi cơ anh Bourgat, v{ muốn nên việc, phải đ{nh chờ mai sáng.
Một năm trước, hai bạn Gourp và Erable hỏng máy tại đ}y, bị bọn
người phiến loạn giết chết. Chúng tôi biết rằng ngày nay bọn phiến loạn tụ
tập được ba trăm tay súng đang đóng trại gần xa đ}y đó tại Bojador. Ba lần
hạ cánh xuống đ}y, tất từ xa chúng tôi đ~ bị họ trông thấy, và có lẽ đêm nay
l{ đêm cuối cùng chúng tôi thức cũng nên.
Chúng tôi sắp đặt cẩn thận để qua đêm. Chúng tôi mang năm, s|u
thùng chứa hàng xuống, trút bỏ hàng ra rồi xếp các thùng trống thành vòng
tròn, và trong mỗi đ|y thùng, chúng tôi thắp một ngọn nến nhỏ, giống như
thắp ở đ|y chòi lính canh. Gió thổi qua vẫn làm cho lay lắt. Giữa lòng sa mạc,
trên lớp vỏ trơ trụi của địa cầu, chúng tôi đ~ thiết lập một khu làng, giữa sự cô tịch giống thuở sơ khai vắng vẻ.
Tụ họp nghỉ qua đêm nơi địa điểm lớn rộng khu làng nọ, nơi d~i đất
cát với những ánh lửa nến leo lét, chúng tôi chờ đợi. Chúng tôi chờ đợi.
Chúng tôi chờ đợi, chờ đợi bình minh, hoặc chờ đợi người Maures đến. Tôi
không hiểu vì đ}u c|i đêm đó lại phảng phất hương vị một đêm Noel. Chúng
tôi kể cho nhau nghe những kỷ niệm, chúng tôi nô đùa, chúng tôi ca h|t.
Chúng tôi đ~ hưởng được chính c|i mùi hương ôn nhiệt thiêng liêng
nhè nhẹ phảng phất giữa lòng một buổi lễ phong phú vui tươi. Ấy thế,
nhưng thật ra chúng tôi nghèo vô hạn. N{o có gì đ}u. Gió, c|t v{ sao trên
trời. Đúng l{ thể điệu khắc khổ của kẻ tu h{nh. Nhưng trên thảm cát ánh
sáng lờ mờ kia, sáu bảy người với những bàn tay trắng, đ~ chia nhau không
biết bao nhiêu của quý vô hình.
V}ng, chúng tôi đ~ gặp trở lại nhau rồi. Trong bao l}u, người ta bước
đi s|t c|nh nhau, nhưng mỗi người im lìm mỗi cõi, có nói cũng chỉ nói
những tiếng vu vơ. Nhưng giờ đ}y, hiểm họa đến. Vai kề vai chung gánh. Ta
chợt thấy mình cùng nhau ở chung một đo{n thể. Hồn mở rộng do khám
phá những hồn kh|c bên mình. Nhìn nhau môi cười rộng r~i. Như tên tù nọ
được giải phóng đương ng}y ngất nhìn mặt biển bao la.
2
Guillaumet, tôi xin nói đôi lời về anh, nhưng sẽ không làm phiền anh
mà vụng về nhắc mãi tới lòng can trường hoặc t{i năng nghề nghiệp của
anh. Tôi sẽ nói tới những gì khác kia, khi kể lại cuộc phiêu liêu đẹp nhất của
anh.
Có một đức tính không tên. Gọi l{ tính “trang trọng”, có lẽ cũng được,
nhưng chưa đủ. Vì đức tính này còn có thể đi đôi với sự tươi cười hồn nhiên
vui hứng nữa. Chính đó cũng l{ đức tính của anh thợ l{m sườn nhà, lúc anh
ngồi trước mảnh gỗ như ngồi trước một người bạn đồng đẳng, ngang vai,
rồi anh sờ mó, nắn nót, ước độ chiều dọc chiều ngang, anh không đối xử nó
theo lối khinh bạc, anh thu hết khả năng, t{i sức của mình ra sử dụng.
Guillaumet ạ, trước đ}y tôi có đọc một câu chuyện người ta kể về anh
để ca tụng chuyện phiêu lưu mạo hiểm của anh, và tôi thấy cần phải đính chính lại cái hình ảnh lệch lạc về anh đó. Trong c}u chuyện ấy, người ta thấy
anh bướng bỉnh tung nhiều c}u nói có điệu “ba gai”, tuồng như người ta
tưởng lòng can trường là phải biết hạ mình chế giễu nhau theo lối nhạo
báng của học sinh nghịch ngợm. Người ta không hiểu anh, Guillaumet ạ.
Nhạo báng những địch thủ của anh, trước khi đương đầu với họ, đó l{ điều
anh thấy không cần thiết gì hết. Đối diện một cơn giông b~o, anh nhận xét:
“Đ}y l{ một cơn giông b~o”. Anh chấp thuận nó, anh ước độ lực lượng của
nó.
Tôi xin đưa ra đ}y những kỷ niệm của mình để làm chứng cho anh.
Suốt năm mươi giờ đồng hồ, anh biệt tích, trong một mùa đông, nh}n
một chuyến bay qua dãy núi Andes. Từ Patagonie về, tôi vội vã theo phi
công Deley đi Mendoza. Suốt năm ng{y liền, hai chúng tôi bay sục sạo khắp
vùng núi non trùng điệp, mà chẳng tìm thấy gì cả. Hai chiếc phi cơ không
thể đủ được. Chúng tôi tưởng rằng một trăm đội phi cơ, bay suốt một trăm
năm, vị tất đ~ bay hết các ngõ ngách mà sưu tầm đầy đủ trong các dãy núi
khổng lồ này, với những ngọn cao tới bảy nghìn thước. Chúng tôi mất hết hy
vọng. Bọn cướp buôn lậu tại vùng này, gan lì dữ tợn là thế, chỉ đưa cho năm
quan tiền là khiến chúng giết người như ngóe, thế m{ chúng đ~ từ nan
không chịu mạo hiểm l{m đo{n cứu trợ, dấn thân vào những triền núi
chênh vênh này. Chúng bảo: “Chúng tôi sẽ mất mạng. D~y Andes mùa đông
không thả một ai về.” Lúc Deley v{ tôi hạ cánh tại Santiago, c|c sĩ quan
người Chili cũng khuyên chúng tôi nên đình chỉ việc tìm kiếm. “B}y giờ là
mùa đông. Người bạn của các anh rớt xuống núi cho dẫu có may mắn khỏi
giập th}n, cũng không t{i n{o chống nổi với cái lạnh ban đêm. Ở trên đó, c|i
lạnh ban đêm vừa chạm v{o người, lập tức biến th}n người th{nh băng đ|.”
Và khi tôi cất cánh bay lần nữa, xuyên qua các bờ tường dựng đứng và
những cột trụ khổng lồ trong dãy Andes, thì tôi có cảm tưởng như chừng
mình không còn đi tìm kiếm anh nữa, m{ đương lặng lẽ canh giữ, chăm sóc
tấm th}n anh đương nằm đ}u đó trong một ngôi nhà thờ tuyết băng.
Sau cùng, qua ngày thứ Bảy, trong lúc tôi dùng bữa giữa hai chuyến
bay nơi một qu|n ăn tại Mendoza, bỗng có người đẩy cửa kêu. Ồ! Chỉ vài
tiếng thôi:
- Guillaumet… còn sống!
Và tất cả những người lạ mặt ngồi tại đó cũng mừng rỡ ôm nhau hôn.
Mười phút sau, tôi cất cánh, chở theo hai anh thợ máy, Lefebvre và
Abri. Bốn mươi phút sau, tôi hạ cánh dọc theo một qu~ng đường vì nhận ra,
chẳng rõ vì sao lại nhận ra, cái chiếc xe đương chở anh đi chẳng rõ đi đ}u,
nhưng hướng về phía San Raphael. Một sự tao ngộ kỳ diệu lạ lùng, chúng tôi
cùng khóc, chúng tôi ôm giập anh trong tay mình, anh còn sống đó, anh
được tái sinh, anh tự mình ban cho mình phép lạ. Chính sau đó, anh nói một
c}u, c}u đầu tiên có đầu đuôi sau những cơn mê man bất tỉnh, một câu biểu
diễn một tinh thần con người bất khuất: “C|i điều tôi đ~ l{m, tôi xin thề với
các anh, không bao giờ một con vật n{o đ~ l{m cả.”
[2]
Về sau, anh kể lại tai nạn cho chúng tôi nghe.
Một trận bão trút xuống, suốt bốn mươi t|m tiếng đồng hồ, một lớp
tuyết d{y năm thước trên triền núi Andes ngó qua địa phận Chili, lớp tuyết
lấp kín khung trời, những người Mỹ hãng Pan-Air đ~ quay về hết. Nhưng
anh thì vẫn cất cánh bay tìm một kẽ hở trên không. Xế về phía Nam, anh tìm
ra nó, cái cạm bẫy kia, và lờ lững bay trên từng cao s|u nghìn năm trăm
thước, anh cưỡi trên mây mù chỉ cao s|u nghìn thước v{ để ló ra riêng
những chóp núi thật cao, anh bay, hướng về chân trời Argentine.
Những luồng không khí thổi xuống thường gây cho phi công một cảm
giác khó chịu dị thường. Máy vẫn quay đều, nhưng phi cơ bị dìm xuống mãi.
Ta cố gượng hướng tàu trở lên để giữ vững độ cao, phi cơ mất tốc lực, yếu
đi dần dần: ta cứ bị nhận chìm xuống m~i. Ta đ{nh phải lơi tay, ngại rằng
khi n~y đ~ hướng mũi lên qu| trớn, bây giờ ta lại phải thả lỏng cho xê xích
qua tả, qua hữu, nép vào bên những đỉnh núi thuận tiện, nương v{o những
sườn non nào vừa cản gió vừa đưa đ{, nhưng ta vẫn tuần tự bị dìm xuống.
Nghe chừng như cả cõi trời cùng đề hều hạ thấp xuống một phen. Ta cảm
thấy như mình bị mắc nghẹn trong một tai nạn càn khôn. Hết đường trớ
tránh. Ta luống cuống cố gắng quay trở lui, mong tìm gặp những khu vực
nào ở phía sau mà không khí sẽ nâng mình lên vững chắc v{ tròn đầy như
một cột trụ. Nhưng còn cột trụ n{o đ}u. Mọi vật rã tan, cả đất trời cùng rủ
nhau băng hoại, v{ ta lướt qua giữa tàn phế, hướng về một l{n m}y đương
nhu thuận dâng lên, mềm mỏng lại bên mình và yểu điệu quyện lấy thân ta
vào ở giữa.
Anh bảo: “Tôi suýt chịu bó tay, đ{nh buông mình cho nó h~m, nhưng
còn chút cứng đầu chưa chịu tin thuận đ}u. Ta gặp những luồng khí trút
xuống ở phía trên những đ|m m}y xem có bề bất động, ấy chỉ vì cùng một
độ cao như nhau, chúng ôm lấy nhau tụ lại nghỉ yên triền miên bất tận. Mọi
sự sao mà kỳ dị thế ở những vùng non cao.”
Ôi những đ|m m}y! Sao m{ bướng bỉnh!
“Vừa mắc nghẽn trong đó, tôi liền thả lơi tay l|i, bấu chặt vào ghế để
khỏi bị bắn tung ra ngo{i. Phi cơ rít lên, lắc mạnh, dày vò thân tôi, những sợi
nịt da gặm vào thịt vai, v{ suýt đứt. Sương gi| đổ tràn bụi trắng, tôi mất hết
mọi khả năng điều khiển, quay tròn như chiếc nón chơi vơi, xoay tít từ cao
sáu nghìn xuống ba nghìn thước rưỡi.
Xuống tới ba nghìn thước rưỡi, tôi chợt thấy một khối đen bằng
phẳng, giúp tôi lấy lại thăng bằng cho phi cơ. Đó l{ một mặt hồ, tôi kịp nhận
ra: hồ Laguna Diamante. Tôi từng biết hồ kia nằm khoanh trong đ|y hố, đ|y
hang một thung lũng phiêu bồng, mà một phía sườn lại nép bên ngọn hỏa
sơn Maipu cao s|u nghìn chín trăm thước. Tuy thoát khỏi đ|m m}y, tôi vẫn
còn choáng váng quáng lòa vì những cơn lốc tuyết d{y đặc, và không thể rời
mặt hồ thân ái mà khỏi đ}u đầu vào một trong c|c sườn núi bọc quanh
hang. Tôi đ{nh bay vòng quanh hồ, ở độ cao ba chục thước, cho tới lúc kiệt
xăng. Sau hai giờ loanh quanh lăn lóc, tôi hạ c|nh đậu lại, và phi cơ lật úp.
Tôi thoát ra khỏi tàu thì bão tố đ|nh tôi ng~ ngữa. Tôi lồm cồm gượng dậy
trên hai chân, thì bão tố đ|nh tôi nh{o sấp.
Không còn cách gì nữa, tôi đ{nh lui cui chui v{o dưới sườn tàu, và moi
một lỗ hổng trong màu tuyết lạnh để trú thân. Tuyết ơi, hãy ôm thân ta cho
ấm nhé. Rồi tôi cuộn quanh mình những bao chứa thư tín, v{ suốt bốn mươi
tiếng đồng hồ tôi nằm đó chờ đợi, nghe mùi tuyết bốc hơi.
Sau đó, b~o im, gió lặng, tôi bắt đầu bước. Bước đi năm ng{y bốn
đêm…”
Nhưng còn chi l{ tấm thân anh nữa! Guillaumet? Anh trở về gặp lại
chúng tôi, nhưng hình h{i g{y đét như vôi khô, teo th}n như một bà lão.
Ngay chiều hôm đó, tôi đưa anh lên phi cơ chở anh về lại Mendoza, những
chăn nệm trắng tinh phủ ngập th}n anh như ôm ấp. Nhưng không l{m sao cho anh lành lại được. Anh lóng cóng trong tấm hình hài mệt mỏi, trằn qua
trở lại mãi vẫn không giúp nó ngủ yên. Tấm th}n anh không quên được đ|
và tuyết. Chúng đ~ ghi tạc dấu vết nơi th}n anh rồi. Tôi nhìn khuôn mặt anh
đen sạm, sưng vù giống như một trái ủng bị bóp bầm dập. Anh xấu quá, và
khốn khổ vô chừng, anh mất những khí cụ huy ho{ng để làm việc, anh sử
dụng chúng thế nào: hai bàn tay cứng đờ, và lúc muốn hô hấp anh ngồi dậy
bên giường, thì hai b{n ch}n cóng đờ thõng xuống như hai khối thịt thừa.
Cuộc hành trình của anh, vẫn chưa kết liễu, anh còn hổn hển hồi hộp thở, và
mỗi khi anh trở đầu trên gối để tìm nguôi lãng, thì một chuỗi dài hình ảnh
liên tiếp tới, anh không ngăn được, những hình ảnh rập rình bí mật đ}u đó,
bỗng ùa vào ngập cả đầu óc anh. Diễn ra, diễn ra mãi. Anh phải đấu đi, chọi
lại mãi hàng mấy chục lần với những quân thù cứ chết đi, sống lại.
Tôi đổ thuốc cho anh:
- Gắng uống đi, bạn!
- Điều khiến tôi ngạc nhiên nhất nhất… anh biết…
Võ sĩ thắng cuộc, nhưng bị những đòn qu| nặng, anh sống trở lại cuộc
phiêu lưu kỳ dị của mình. Anh cởi gỡ ra từng đoạn một. Và trong câu chuyện
đêm d{i bữa nọ, tôi đ~ nhìn thấy anh lầm lũi bước đi, không gậy chống,
không d}y r{ng, không lương thực, lần mò theo mãi những truông đèo, dốc
dựng, năm nghìn thước rưỡi cao, hoặc dò dẫm vòng theo những th{nh đ|
đứng sững, ch}n anh rướm m|u, đầu gối rã, tay trầy, trong cơn lạnh bốn
mươi độ đêm khuya. Dần dần máu hao, sức kiệt, hồn mòn, anh bước đi,
nhẫn nại, kiên gan như con kiến, quay giật lùi tìm lối kh|c để bọc quanh
những trở ngại gồ ghề, té xuống, đứng lên, leo trở lại, cố vượt qua những
dốc ác hại đưa tới hố sâu, không chịu ban cho mình một phút nghỉ ngơi, vì
anh biết rõ: nằm một lần xuống bên tuyết, l{ vĩnh viễn không còn dịp đứng
lên.
Mỗi lần trượt dốc, anh phải vội v~ đứng lên để khỏi biến thân thành
đ|. C|i lạnh dị thường cứ mỗi phút giây làm anh cóng lại, v{ lúc trượt chân
té, nếu chần chờ thở một chút cho cam, thì sau đó, hỡi ôi! còn muốn đứng
lên, thì thịt xương đ~ chết cứng.
Anh chống lại mọi cám dỗ. Anh bảo: nằm ở trong lòng tuyết, con người
ta mất tuốt hết linh tính tự vệ. Đi suốt hai, ba, bốn ng{y đường, con người
chỉ còn có cầu mong giấc ngủ. Tôi cũng ước mong được ngủ. Nhưng tự nghĩ:
vợ tôi, nếu tin là tôi còn sống, ắt tin l{ tôi đương đi. Bạn hữu tôi, cũng tin
rằng tôi đương đi. Mọi người cùng tin cậy nơi tôi. Tôi l{ một thằng tồi nếu
tôi dừng bước lại.”
V{ anh bước đi, v{ anh lấy mũi dao con rạch da giày, mỗi ngày rạch
thêm chút nữa, nhân vì hai bàn chân anh cóng giá phồng ra, cần rạch giày
cho nới ra, bàn chân mới nằm yên trong đó được.
Anh kể cho tôi nghe tâm sự kỳ lạ này:
“Tới ngày thứ hai, anh thấy chứ, cái công việc lớn nhất phải làm, ấy là
ngăn không cho mình suy nghĩ. Tôi đau đớn quá, và tình cảnh qu| }m u. Để
còn đủ can đảm bước đi, tôi không được nhìn vào tình cảnh nữa. Khốn thay,
khó mà kiểm soát khối óc mình, nó làm việc như c|i b|nh xe quay. Nhưng
tôi cũng có thể chọn cho nó một vài hình ảnh. Tôi xô óc mình vào một cuộc
phim, bắt nó suy ngẫm về một cuốn sách. Và phim với sách cứ vùn vụt sổ
tung ra. Chẳng mấy chốc mà hết trụi, tôi lại rơi trở vào tình trạng trước mắt.
Không còn c|ch gì kh|c được. Lại lao đầu vào những kỷ niệm kh|c…”
Tuy nhiên, có một lần, trượt chân anh té nằm quay trên tuyết, úp thân
vào dán chặt đó, anh bỏ cuộc, không muốn đứng lên. Anh như người võ sĩ,
kiệt tận linh hồn vì một cú đấm, rời rã hết thiết tha, nằm nghe từng tiếng
đếm, từng gi}y rơi trong một thế giới nào xa lạ, cho tới tiếng mười là tiếng
chung cục, hết phân bua.
“Tôi đ~ l{m những gì tôi có thể l{m được, mà lòng tôi không còn hy
vọng nữa, vì lẽ gì còn nằng nặc kéo dài cuộc khổ hình cho thêm tội, l{m chi?”
Anh chỉ cần khép hai mắt lại, là hòa giải yên vui hết với đời. Là xóa hết giữa
đời, những đ| nhọn, tuyết băng. Chớm khép xong hai làn mi huyền diệu,
diễm ảo về rồi: hết b~o giông đ|nh ng~, hết trượt chân té xuống, hết da thịt
nát nhừ, hết nghiệp chướng tiền oan trong tấm thân mang lê lết khối đời
quá nặng, th}n bước như con bò, m{ khối nặng hơn xe. Thôi rồi, cái lạnh hãi
hùng là thuốc độc, anh đ~ nhấm phải rồi, và bây giờ lòng phơi phới nghe ma
túy ngấm v{o xương. Cuộc sống của anh dồn quanh quả tim m|u đập. Một
thứ gì êm dịu quý giá vô ngần đương thu mình nép ở trung t}m cơ thể. Tâm thức anh bắt đầu lìa bỏ dần dần những miền xa xôi quá ở trong thân, trong
tấm hình hài hỗn mang là thú vật, chở tr{n đầy oan khổ ngập vai, giờ đ}y đ~
bước vào cõi vô minh hững hờ của Vân thạch.
Những hoang mang thắc mắc cũng dịu rồi. Tiếng gọi của chúng tôi,
anh không còn nghe nữa, đúng hơn, anh nghe vọng về như tiếng gọi chiêm
bao. Trong nhịp bước chiêm bao, anh h{i lòng đ|p lại, h}n hoan bước rộng
theo về, nhìn trước mặt mình rạng rỡ những lạc thú phơi xanh. Êm |i l{m
sao! Anh lướt đi trong cõi đó; miền xứ mộng, với thân mình, dìu dặt chuyển
như ru! Guillaumet, anh nhất quyết rồi, không bằng lòng nghe chúng tôi kêu
gọi nữa. Anh keo kiết, anh khước từ, không trở về họp mặt nữa với anh em.
Nhưng }n hận về từ đ|y thẳm t}m tư. Trong cơn mơ, bỗng dưng anh
thốt những lời, nêu nhiều chi tiết tỉ mỉ: “Tôi đ~ nghĩ tới vợ tôi. Tiền bảo
hiểm của tôi, chắc sẽ giúp em khỏi đói khổ. Chắc vậy, nhưng… nhưng việc
bảo hiểm…”
Trường hợp một phi công mất tích luật pháp chỉ xem anh chết thật sự,
là bốn năm sau. Chi tiết đó đập mạnh vào trí anh, xóa tan mọi hình ảnh khác.
Anh nằm duỗi dài úp sấp trên một sườn dốc tuyết. Mùa hè tới, thân anh sẽ
theo bùn cuốn trôi đi, vùi s}u dưới một u cốc nào trong dãy núi. Anh biết
thế. Nhưng anh cũng biết rằng ở phía trước anh chừng năm mươi thước, có
một mõm đ| nhô lên: “Tôi nghĩ, nếu mình gắng đứng lên, chắc sẽ bò tới
được mõm đ| ấy. Nếu mình kê x|c mình v{o mõm đ| thì mùa hè tới, người
ta sẽ tìm ra được x|c mình ngay.”
Đứng lên rồi, anh bước đi, đi trong hai đêm, hai ng{y.
Nhưng anh không nghĩ l{ mình sẽ đi được xa.
“Nhiều dấu hiệu cho tôi biết sắp tận số rồi. Đ}y là một. Anh biết, cứ hai
giờ một lượt, tôi phải dừng ch}n để xẻ da giày cho nới rộng ra, để lấy tuyết
xoa bóp hai b{n ch}n sưng vù, hoặc để cho trái tim nghỉ ngơi một chút.
Nhưng đến những ngày chót, tôi mất hẳn trí nhớ. Tôi đứng lên đi trở lại,
cũng kh| l}u rồi, bỗng chợt nhớ: mỗi một lần, mình đ~ bỏ quên lại một vật
gì. Lần thứ nhất, bỏ quên chiếc găng tay, đó không phải là chuyện chơi được
giữa cái giá lạnh n{y. Tôi đ~ th|o ra, đặt ở trước mặt mình, v{ đứng lên đi
mà quên không nhặt. Rồi tới lượt c|i đồng hồ. Rồi con dao. Rồi c|i địa bàn. Mỗi lần nghỉ chân, mỗi lần mất m|t…
“C|i gì cứu thoát, chỉ còn l{ bước ch}n đi. Thêm một bước. Luôn luôn
vẫn là một bước, một bước, bước, bước trở lại ho{i ho{i…”
“Điều tôi đ~ l{m, tôi thề với anh, không bao giờ một con vật làm thế.”
Câu nói cao cả nhất tôi được nghe trong đời mình, c}u nói ph}n định vị trí
con người, thiết lập danh dự con người, xếp đặt lại những trật tự tôn ti
chính thực, c}u nói đó, lại trở về trong ký ức tôi. Anh đ~ ngủ yên, tâm linh
đ~ bay bổng, tâm trí vùi lấp, nhưng từ mảnh hình hài rời rạc, tan rã, cháy
ran kia, tâm linh sắp về trở lại mỗi lần anh thức giấc, và lại chế ngự tấm
thân. Vậy thì, tấm thân chỉ là một dụng cụ tốt, tấm thân chỉ là một tên giúp
việc mà thôi. Và niềm kiêu hãnh của người sử dụng khí cụ tốt, anh cũng biết
diễn tả đ{ng ho{ng, Guillaumet ạ.
“Thiếu lương thực, anh biết đó, ng{y thứ ba… tim m|u tôi chẳng thể
còn đập mạnh nữa… V{ đ}y! Dọc theo một bờ dốc đứng, tôi bu bám leo
quanh, chới với giữa khoảng không nhìn xuống hố thẳm, moi từng lỗ hổng
trong đất để đặt nắm tay vào, thì bỗng nghe như tim mình tan r~. Nó ngần
ngừ như sắp ngất, nó đập thêm. Nó đập ngẩn ngơ loạn nhịp. Tôi cảm thấy
rằng nếu nó dùng dằng thêm tí nữa, một giây nữa thôi là tôi buông tay bỏ
cuộc. Tôi không nhúc nhích nữa, tôi lắng nghe nhịp thở trong mình. Chưa
bao giờ, anh biết đó, chưa bao giờ trên phi cơ tôi từng đ~ cảm thấy mình kết
chặt v{o động cơ nhiều như lần nọ tôi cảm thấy mình gắn chặt vào trái tim
mình, trong vài phút, mật thiết vô song. Tôi bảo trái tim tôi: Nào! Hãy gắng
lên chút nữa. Gắng đập nữa đi… A! Quả là một trái tim làm bằng chất tốt! Nó
do dự đôi chút, rồi đập trở lại như thường… Anh biết không, tôi tự hào vì
trái tim tôi nhiều lắm!”
Trong căn phòng tại Mendoza bữa đó, tôi chăm sóc anh, cuối cùng anh
ngủ một giấc mê man hổn hển. Tôi nghĩ thầm: nếu có người nói anh can
đảm, thì anh sẽ nhún vai. V{ người ta vẫn cứ phụ anh hoài, nếu người ta ca
ngợi anh khiêm tốn. Anh đứng xa vời biên kia, biệt lập hẳn c|i đức tính từ
tốn tầm thường nọ! Và nếu anh nhún vai, ấy chỉ vì anh mang niềm phóng
khoáng của con người thấu hiểu lẽ đời trên mặt đất thị phi. Anh biết rằng
một khi sa vào vòng biến cố, con người bỗng nhiên hết sợ h~i. Con người chỉ
kinh ho{ng trước cái lạ lùng khôn dò. Nhưng một phen chạm mặt nó rồi, nó
không còn là lạ lùng bất trắc nữa. Nhất là khi dò xét nó với sự trầm trọng sáng suốt kia. Lòng can đảm của Guillaumet, trước hết, là hiệu quả của lòng
cương trực.
Đức tính thật sự của anh lại không phải l{ đó. Sự cao cả của anh, ấy là
tự cảm thấy mình mang trách nhiệm. Trách nhiệm với mình, với bao thư tín,
trách nhiệm đối với những bạn hữu hoài mong. Anh cầm trong tay những
vui buồn của họ. Trách nhiệm đối với những gì mới mẻ đang được xây dựng
dưới kia, nơi chốn của nhân gian sinh hoạt, mà dù cách biệt, anh vẫn phải
dự phần. Trách nhiệm chút ít đối với định mệnh con người, trong vòng khả
năng của anh trên công việc.
Anh thuộc thành phần những sinh vật rộng, hài lòng chấp thuận đưa
vòm lá cành mình, che phủ giúp những ch}n m}y. L{m người, ấy là nhận
trách nhiệm. Ấy là biết tủi thẹn trước những khốn cùng, khổ lụy, không do
mình mà ra. Ấy là biết kiêu hãnh vì một chiến thắng của bạn mình thu
hoạch. Ấy l{, lúc đặt tảng đ| của riêng mình, mà cảm thấy góp phần xây
dựng một cõi chung.
Người ta cứ muốn lẫn lộn hạng người đó với những tay đấu bò, hoặc
với những kẻ lăn lóc cuộc chơi. Người ta ca tụng lòng dũng cảm dám chết
của họ. Nhưng tôi xem nhẹ lòng khinh thường sự chết. Nếu nó không bắt
nguồn từ một ý thức về trách nhiệm phải mang và mình chấp thuận, thì sự
xem thường cái chết chỉ là dấu hiệu cằn cỗi của tinh thần, hoặc ngông cuồng
của tuổi trẻ. Tôi có biết một ch{ng trai đ~ tự sát. Tôi chẳng biết cuộc tình
duyên lỡ dở n{o đ~ xui giục anh cẩn thận cho một viên đạn vào tim. Tôi
không biết anh nghe theo tiếng gọi lãng mạn văn chương n{o c|m dỗ mà lại
tỉ mỉ mang găng trắng v{o tay, nhưng tôi nhớ rằng cái cảnh tượng chán
chường kia, đ~ g}y cho tôi một cảm giác khó chịu; không có gì cao cả, chỉ là
tầm thường khốn đốn mà thôi. Thế thì, phía sau gương mặt dễ thương nọ,
bên trong khối óc người trai kia, trước đ}y chả có gì r|o. Có chăng chỉ là
hình ảnh một cô gái nhỏ nào ngốc nghếch giống như trăm vạn cô khác mà
thôi.
Trước một phận số lai rai nghèo n{n như vậy, tôi bỗng nghĩ tới một
cái chết đích đ|ng của con người. Cái chết của một kẻ l{m vườn, kẻ từng bảo
tôi: “Ông biết chứ… đôi lúc xới đất, mồ hôi ra như tắm. Tôi bị chứng đau
xương, nên ống chân khổ lắm, tôi rủa thầm công việc đ{y đọa này. Ấy thế,
mà hôm nay, tôi lại muốn xới đất, xới đất hôm nay, xới vào lòng đất… Xới đất, ha! Thật là tuyệt! Còn gì tự do bằng lúc miệt mài xới đất! Nhưng rồi, ai
sẽ xén tỉa cây cối của tôi đ}y?” Ông bỏ lại một khu vườn hoang phế. Ông bỏ
lại một địa cầu hoang phế. Ông đ~ gửi gắm hết tình yêu cho xiết bao miền
đất, và trút hết tâm hồn cho tất cả cây cối trần gian. Chính ông ta l{ người
phóng khoáng, là kẻ h{o hoa, đại nhân quân tử vậy. Chính ông ta là y hệt
Guillaumet, con người dũng cảm, lúc ông ta nhân danh Tạo Vật của mình mà
liều thân chống lại thần chết.
III
PHI CƠ
Sá gì, Guillaumet ạ, sá gì những chuyện đó: ng{y ng{y, đêm đêm, nếu
công việc anh làm là quẩn quanh xem xét bên những m|y đo sức ép, là giữ
thăng bằng trên những tuyến chuyển nghi, l{ thăm chừng tiếng chạy của
động cơ, l{ phải liệu đảm đương trên hai vai mình mười hai tấn kim khí:
những vấn đề được đặt ra với anh, đ|o cùng, vẫn là những vấn đề con người
ta, và thoắt thôi, anh bước ngang nhiên vào giữa cõi cao cả tót vời của người
dân miền núi. Không thua gì một thi sĩ, anh cũng biết thưởng thức màu
sương trắng giục bình minh. Từ đ|y th}m u những đêm bay bất trắc, anh đ~
từng mong đợi màu hoa mộng mờ ảo hiện ra như chùm bông man m|c, c|i
ánh lạ tuôn từ lòng đất tối, lên trào ngập cõi đông. C|i mạch nước giếng
ngầm diễm ảo đó, đôi lần ở ngay trước mặt, đ~ chan hòa rất chậm r~i, v{ đ~
cứu sống anh lúc anh tưởng rằng mình đương chết.
Việc sử dụng một khí cụ khoa học vẫn không thể biến anh thành một
gã chuyên môn khô cỗi. Tôi tưởng rằng những kẻ qu| kinh h~i trước những
tiến bộ của ngành khoa học chuyên môn, chắc là họ đ~ nhầm lẫn không
phân biệt rõ phương tiện và cứu cánh. Kẻ n{o đấu tranh trong hy vọng duy
nhất nhằm vào những kết quả vật chất tiện nghi, hẳn nhiên là không thu
hoạch được chút gì đ|ng gi| cho cuộc sống. Nhưng m|y móc không phải là
cứu c|nh. Phi cơ không phải là cứu cánh: nó chỉ là một dụng cụ. Một dụng cụ
cũng như c|i c{y.
Nếu ta tưởng rằng m|y móc l{m hư n|t con người, ấy có lẽ rằng chúng
ta thiếu thời gian để lui gót ra sau và nhìn rõ lại, v{ xét đo|n về những ảnh
hưởng, những tác dụng của biến dịch nhanh chóng như những biến dịch
chúng ta đ~ trải qua. Có nghĩa gì mấy đ}u, một trăm năm của lịch sử máy
móc đem so ra với hai trăm ng{n năm lịch sử của lo{i người. Quả thật chúng
ta chỉ mới chớm khởi sự ngồi v{o cư trú trong gian nh{ mới mẻ, mà quả
thật l{ chưa được xây dựng hoàn thành. Mọi sự quanh ta, đổi thay quá
chóng: giao tế giữa đời, giao dịch l{m ăn, điều kiện công việc, thói nhà,
phong tục… T}m lý của chúng ta cũng bị tơi bời điên đảo, ngay tận trong cơ
sở u trầm nhất. Những ý niệm về biệt ly, về xa vắng, về cách trở, về trùng lai,
không mang chứa những thực cũ, mặc dù từ ngữ diễn đạt vẫn là từ ngữ xưa.
Để lĩnh hội cõi sống ngày nay, chúng ta dùng một ngôn ngữ thiết lập vì cõi sống hôm qua. V{ đời sống của quá khứ dường như tương ứng với bản chất
của chúng ta hơn, chỉ riêng vì một lẽ: nó đ|p lại đúng lời, cho cái ngôn ngữ
chúng ta.
Mỗi tiến bộ một ngày, mỗi đẩy xa chúng ta một chút, xa dời mãi những
tập quán chúng ta vừa chớm bén quen hơi, v{ quả thật chúng ta làm những
kẻ thiên di trên đất trích, chưa ho{n th{nh được cái tổ quốc chung.
Tất cả chúng ta là kẻ man di, mà những đồ chơi mới đương l{m ngất
ngây choáng mắt. Những cuộc tung c|nh phi cơ không có ý nghĩa n{o kh|c.
Cái nọ bay cao hơn c|i kia một chút, cái kia chạy chóng hơn c|i nớ một
phần. Vậy chúng ta quên mất c|i do lai xui chúng ta lao đầu mà xô cho máy
chạy. Tạm thời là thế, cái cuộc chạy tưng bừng, nó che lấp c|i đối tượng là
cứu cánh, hoặc do lai. Mãi mãi than ôi vẫn rồi ra rứa. Đối với người thực dân
đi x}y trời đế quốc, c|i ý nghĩa cuộc đời là chinh phục cho mau. Người quân
nh}n khinh thường kẻ thực d}n. Nhưng c|i mục đích cuộc chinh phục kia,
há là chẳng đắp xây của gã thực d}n được thành tựu? Và thế đó, trong niềm
phấn phát hứng thú trước những tiến triển của mình, chúng ta xô con người
vào phục dịch công cuộc thiết lập đường rầy, cất cao nh{ m|y, khơi hầm đ{o
mỏ, xẻ giếng dầu hôi. Chúng ta có quên đi chút ít một điều: những xây dựng
kia, cốt là phụng sự con người. Đức lý của chúng ta, trong thời gian chinh
phục là một đức lý quân nh}n. Nhưng b}y giờ, chúng ta phải đóng vai trò
đúng điệu thực dân. Chúng ta phải l{m sao cho c|i căn nh{ mới mẻ, chưa ra
hình dạng rõ ràng, phải làm sao cho nó thành sống động. Chân lý, với kẻ
này, là thiết lập; chân lý, với kẻ kia, l{ cư trú.
Ngôi nhà của chúng ta hẳn là lần hồi sẽ thân thiết với con người hơn.
Cả m|y móc cũng vậy, máy móc càng tinh xảo, máy móc càng nép mặt ở
phía sau c|i vai trò mình đóng; m|y móc c{ng ho{n bị, máy móc càng xóa
mình thin thít ở bên kia cái công dụng mình đưa ra. Dường như mọi cố gắng
kỹ nghệ của con người, mọi bài toán chi ly, những bao đêm d{i thao thức chỉ
nhằm tới một điều l{ đạt tới chỗ đơn sơ, như tuồng cần phải qua kinh
nghiệm hằng hằng của nghìn nghìn thế hệ, mới có thể khơi dẫn dần dần
đường cong cây cột, nét nhịp mạn tàu, thân liễu yếu phi cơ tròn xinh như
thể… như thể một lần là cho tới tột cõi nguyên trinh mà trả về cho ban sơ
c|i đường cong đồi vú, c|i đ{i c|c đôi vai. Tưởng chừng cái việc làm của kĩ
sư, của thợ vẽ, của các viên cán sự trong phòng nghiên cứu, chỉ như hình l{
m{i giũa v{ xóa bôi, cho nhẹ nhàng nảy ra cái then cài, cái chốt cọ, cho thăng bằng uyển chuyển cái cánh mộng phi cơ, cho đến chỗ l{m sao cho người ta
không ngờ ra được nữa, cho người ta ngó nhìn mà không thấy cái chắp víu
đôi bên, l{ mép thân, là miền cánh, làm sao cho thiên hạ phiêu bồng trước
hình thể mở phơi, lai l|ng l{m sao như giờ đ}y mới thật là thoát tục, láng
như ngời, như ngẫu nhĩ chung đôi tuyết bạch trơn tru như mịn m{ng đầu
gió, duy nhất hiện hình l{ đặc tính của thi ca. Tuồng như c|i tuyệt vời hảo
hợp chỉ đạt tới một lần là không phải lúc chẳng cần thêm, mà chính ra là cái
khi không còn chi để rứt bớt ra một phần n{o được nữa. Ở tột cùng tiến
triển, hồn m|y móc đ~ mờ xóa phiêu du.
Tuyệt hảo của ph|t minh cũng lăm le về chỗ quên mình là minh phát.
V{, cũng như trong khí cụ, mọi cái gì máy móc hiện thể bên ngo{i đ~ dần dà
xóa bóng, v{ có đến với ta cũng tự nhiên như ngẫu sinh là một hòn sỏi biển
trơn tròn, m{ ngẫu sinh lại sinh từ sóng rộng, thì cũng vậy, cái tuyệt vời
đ|ng nên t|n tụng, là cái máy ta dùng, chính trong lần được dịch sử, đ~ dần
dà tự biến dạng để người quên.
Xưa kia chúng ta tiếp xúc với phi cơ như chạm vào hồn phức tạp.
Nhưng ng{y nay quen nết, ta quên mất mình đang gửi nhịp với một động cơ
sầu tỏa đương quay. Thế là tới đ}y, nó đ~ đ|p ứng với chức vụ của mình, là
quay vù, quay tít, như tim đập trong lồng, v{ cũng vậy, nào ai biết bên phổi
mình đang có một quả tim quay. Ai lưu t}m lưu ý tới. Khí cụ ta dùng thân
thuộc, đ~ mất hút lưu t}m. Ở bên kia khí cụ, và xuyên qua khí cụ, là ấy cõi sơ
khai thiên nhiên sơ thủy ta tìm về bắt gặp lại, đó trùng lai – cõi thiên nhiên
của ch{ng l{m vườn, của chú hàng hải, của bác thi nhân.
Ấy rằng với nước, ấy rằng với hơi, ấy rằng với không khí, là ấy của
người phi công cất cánh tiếp xúc đề huề. Lúc động cơ tung nhịp, lúc con tàu
đ~ rạch sóng biển khơi, triều nước dâng, vỗ vào mạn tàu rột rột như rập
rình chiêng dậy, quân nhạc ng}n theo, thì con người có thể dõi theo việc làm
kia bằng c|ch đo cật gan mình động đậy. Nó chấn động thế n{o, thì ta cũng
cảm rõ được từng phút, từng giây, chiếc thủy phi cơ c{ng tăng tốc độ, càng
thu nhập thêm uy quyền trên l{n sóng ph}n v}n. Người phi công cảm thấy,
trong cái khối mười lăm tấn kim khí kia, đang soạn sửa một hương nồng
thuần thục, sắp dậy trào đưa to{n khối bay lên. Người phi công đưa tay nắm
chặt thêm các tay lái, và dần dà thu nhập hết quyền hành nọ, như đón về
một tặng vật ai trao. Nắm được tặng vật rồi, thì mọi bộ phận tay lái tự biến
thành những sứ giả của quyền uy. Lúc quyền uy đ~ thục, người phi công chỉ cần làm một cử động nhẹ như chơi, nhẹ hơn vịn tay vào cành hái quả, là quá
đủ để tách rời khỏi sóng nước cái thân con tàu yểu điệu, v{ đưa nó lên bầu
trời dàn mộng giữa thương khung.
IV
TÀU BAY VÀ TRÁI ĐẤT
1
Đ~ đ{nh t{u bay l{ m|y móc nhưng cũng l{ một khí cụ phân tích tuyệt
hảo. Khí cụ đó giúp ta kh|m ph| khuôn mặt thật của địa cầu. Trải bao thế
kỷ, đường sá quả thật đ~ đ|nh lừa chúng ta. Chúng ta nằm trong tình trạng
vị Nữ Vương xưa kia từng muốn viếng con d}n để xem trăm họ có hân hoan
an cư lạc nghiệp dưới sự trị vì của mình không. Nhưng bọn triều thần muốn
lừa dối Nữ Vương, bèn sắp đặt vài khung cảnh tốt đẹp dọc đường trên lối
Nữ Vương đi, v{ thuê bọn ca sĩ chờ sẵn để múa khúc. Trừ hai vệ đường
mỏng manh như sợi chỉ nhiếp dẫn thị quan, Nữ Vương chẳng còn nhìn thấy
gì khác nữa, chẳng hay biết thêm chút gì khác nữa về vương quốc của mình,
và không ngờ rằng nơi vùng đồng không mông quạnh xa xa, nhân dân lầm
than đói rét đang nguyền rủa bà.
Còn chúng ta? Chúng ta đi trên những dặm đường quanh co ngang
dọc. Đường đi vốn ưa tr|nh những vùng đất khô cỗi gập ghềnh, cát sỏi khô
khan. Đường thuận theo nhu cầu con người, đường nối liền những mạch
nguồn này với nguồn nước kh|c. Đường đưa dẫn bước chân nông phu từ
vựa lúa ra bờ ruộng xanh, đường đón súc vật mỗi chiều về chuồng yên nghỉ,
v{ đưa súc vật mỗi s|ng ra đồng cỏ non. Đường giao nối làng này với xóm
nọ, và trai gái hai miền g| nghĩa với nhau. Thảng hoặc có con đường nào
liều băng qua sa mạc, thì có phải rằng nó khôn khéo chạy ngoòng ngoèo để
gặp cho được những vùng có bóng dừa r}m m|t bên nước xanh?
Chúng ta bị đường sá phỉnh phờ, cũng như bị độ lượng của từ tâm lừa
dối. Những cuộc viễn du trải bao phen đi ngang qua những dải đất phì
nhiêu, những vườn hoa quả mật, những bãi cỏ xanh, và từ đó về sau, trong
bao ngày tháng, chúng ta hồn nhiên tô điểm cho lộng lẫy, cái ngục tù vây
h~m th}n ta. Tr|i đất n{y, chúng ta tưởng l{ êm đềm, dịu ngọt lắm.
Nhưng mắt ta bỗng sáng tỏ mất rồi. Một tiến bộ xót xa. Với phi cơ, ta
đi con đường thẳng. Vừa cất c|nh, ta đ~ rời xa những con đường đề huề
thung dung tìm giếng nước, tìm trại chăn nuôi, hoặc tung tăng từ đô thị này
đến đô thị khác. Từ nay tho|t vòng cương tỏa êm ấm, không cần men tới những bờ giếng nước gần gũi như xưa, chúng ta nhắm thẳng tới những mục
đích ở cuối trời. Bắt đầu từ đó, từ độ cao giữa thương khung lướt gió đi
thẳng tắp, chúng ta chợt nhận ra căn cớ cốt thiết ở hạ tầng, những đ|,
những cát, những muối, nơi đó đời sống đôi khi ngại ngùng liều nảy nở lác
đ|c đó đ}y, như một tí rêu bám vào những khe hở giữa gạch vụn điêu t{n.
Thế l{ chúng ta đ~ biến thành những nhà lý học hóa học, sinh vật học
đi khảo sát những nền văn minh đang trang ho{ng những góc mềm u cốc và
đôi lúc bất ngờ gặp chỗ phong khí tốt, bỗng mở phơi lộng lẫy dị thường. Thế
là chúng ta từ đó đứng trên tầm vũ trụ thương khung, m{ nghiên cứu con
người qua tấm kính tròn như qua những dụng cụ khảo sát. Thế là từ đó
chúng ta bắt đầu đọc trở lại pho lịch sử trần gian.
2
Nhằm phía eo bể Magellan, hơi xế một chút về phía Nam Rio Gallegos,
người phi công bay ngang qua một vùng phún thạch cũ. Những phún thạch
rã rời đó đè nặng trên c|nh đồng nơi đ}y, một lớp d{y hai mươi thước. Rồi
bay ngang một vùng phún thạch thứ hai như thế, rồi một vùng phún thạch
thứ ba, và từ đấy trở đi, mỗi mỏm đ| nhô, mỗi cồn cao gò thấp hai trăm
thước, cũng mang riêng một miệng lửa bên sườn. Không có gì giống những
hỏa sơn ngạo nghễ như ngọn Vésuve: chỉ là những miệng núi lửa mở ngay
giữa đồng bằng.
Nhưng ng{y nay, yên tĩnh đ~ trở về. Một yên tĩnh như xui ta ngạc
nhiên, giữa một khung cảnh lỗi nhịp. Xưa kia đ}y chính l{ nơi của hàng
nghìn ngọn núi rầm rộ đua nhau hút lửa từ đ|y thẳm để tung lên ì ầm. Mà
ngày nay chỉ còn một vùng vắng lặng, với nhiều đỉnh núi đen đủi, gi| băng.
Xa hơn nữa, có nhiều núi lửa xưa hơn đ~ bắt đầu phủ cỏ vàng óng.
Thỉnh thoảng lại thấy mọc một v{i c}y trong sũng núi, trông như một cành
hoa nở trong một chiếc chậu xưa. Dưới m{u |nh s|ng man m|c như t{
dương, dải đất bằng nhuốm vẻ xinh tươi, một lớp cỏ thấp phủ đều, trông
như một mảnh vườn có b{n tay chăm sóc. Mặt đất phẳng phiu, phải nhìn kỹ
mới thấy miệng lửa khổng lồ có nhô lên chút ít. Một con thỏ vụt chạy, một
con chim vỗ cánh, sự sống đ~ chiếm cứ một giải tinh cầu mới, vì đất ngọt đ~
bám vào.
Lúc sắp rời Punta Arenas, các miệng lửa cuối cùng hầu đ~ được lấp
cạn. Một dải cỏ phủ khắp nơi, uyển chuyển theo nhịp cong vòng của triền
núi lửa: từ nay phong cảnh chỉ còn giữ riêng một nét hòa ái, dịu dàng. Mỗi
khe hở, mỗi hang thô, được khâu vá trở lại bằng đường tơ trinh bạch thơm
lừng. Mặt đất mượt như nhung, những triền sương xuôi dốc, đó ai còn nhớ
ra nữa cái lai lịch hãi hùng. Cỏ tơ non mọc ở mép đồi, đ~ xóa nhòa những
âm u vết tích.
V{ đ}y, th{nh phố ở tận tít trời Nam tận cùng thế giới, nhân vì ngẫu
nhĩ gặp được chút linh khí của một chút bùn mềm, đ~ được thành lập phong
nhiêu giữa những phún thạch nguyên sơ v{ dương băng biển Nam heo hút.
Sát ngay cạnh những chất đ| đen sì, phồn hoa kia sao mà xui lòng xao
xuyến: huyền diệu của con người, dị thường của tao ngộ. Ta không biết vì
đ}u, ta không rõ bởi c|ch n{o người du khách nọ đến viếng những khu
vườn này, những khu vườn chỉ cho phép cư trú một thời gian quá ngắn, một
chu kỳ địa chất, bằng cách nào viễn khách về đ}y một ngày giữa thiên thu
nghe hồng }n chan rưới.
Tôi hạ cánh giữa tịch mịch chiều vàng. Punta Arenas! Hãy nhìn ta tựa
lưng v{o bờ giếng mà ngó gái giữa thanh xu}n. C|ch nhau hai bước, tôi càng
thấy rõ cái lẽ huyền nhiệm kiếp người… Trong một thế giới mà sự sống giao
tiếp dễ dàng với sự sống, mà những cành hoa giữa lòng gió hồn nhiên hôn
phối với những cành hoa, một thế giới m{ con thiên nga n{o cũng quen biết
mọi con thiên nga, trong thế giới đó, chỉ riêng con người là xây dựng căn lầu
mộng cô đơn.
Phần tinh anh còn cách biệt nhau nghìn trùng. Một giấc mộng “đầu
hoa ngang ngửa thắm” của g|i xu}n, c{ng chia xa nường biệt lập, tôi biết
làm sao mà tìm cái lối vào trong nẻo đó, ở trong kia? Làm sao hạnh ngộ?
Làm sao nghe ra, làm sao biết rõ những cơn man m|c trong nhịp bước gái
tơ đi, lững thững chiều hôm về căn nh{ cha mẹ, mắt lim dim khép mở hai
h{ng, hai môi m| núng đồng tiền mở nụ, một mình mỉm cười với gió đẩy tà
xiêm, một mình em hay, một mình em biết, một mình rộn lên những trận
viễn du khai phá, những mộng tưởng ph|t minh, nhưng u hương rập rình
quân nhạc dối nhau xiêu đình đổ qu|n… N{ng đ~ tự thiết lập một điện đ{i bí
ẩn trong một vương quốc rẽ riêng, bằng những gì của riêng ai đem lại, bằng
những gì g~ tình nh}n đăm chiêu tơ tưởng? Bằng điệu nói của chàng? Bằng
những lặng lẽ của anh? Từ đó về sau, đối với em, chỉ riêng chàng là hoàng tử chí tôn, ngo{i ch{ng ra, người người trong thiên hạ thảy thảy lưu manh man
dại côn đồ? Em khép thân ngà trong một cõi, kín đ|o hơn giấu vào một viễn
cách hành tinh, em che lấp đời riêng trong những lối đi về kiều diễm, trong
những thói nh{ băng tuyết, trong những âm vang dìu dặt của ký ức não
nùng phỉ phong. Sinh ra từ giữa lòng núi lửa, từ giữa lòng thảo hoa, từ giữa
chất muối trùng khơi thổi mặn, mới đó hôm qua, nay em đ~ th{nh Tiên Nữ.
Punta Arenas! Tôi tựa lưng v{o bờ giếng. Những người đ{n b{ gi{ nua
tới đ}y lấy nước. Trong tấn bi kịch đời họ, ngày mai tôi sẽ biết riêng chỉ một
cử động tôi đòi ấy thôi. Một bé con ngửa cổ v{o tường, khóc lặng lẽ. Ngày
mai trong kỷ niệm của tôi, sẽ chỉ còn ghi riêng hình ảnh một đứa bé lạc loài,
sầu khổ không nguôi. Tôi là kẻ lạ tới đ}y. Tôi không biết, không biết gì hết
cả. Thế giới họ, tôi không thể bước vào. Làm sao tôi dám nói.
Những yêu thương, những ganh ghét, những niềm vui của con người
cả một tấn tuồng rộng lớn đó diễn ra trong khung cảnh bé bỏng xiết bao. Từ
đ}u con người khơi dẫn được về cho mình nguồn khát vọng vô biên. Từ đ}u
con người vốn bị phó mặc cho rủi may, bị vất ra sống trên một miền đất mà
phún thạch hỏa sơn còn h}m hấp nóng, mà những trận bão cát sắp tới, mà
những cơn mưa tuyết sắp về, còn hăm dọa mãi! Nền văn minh của họ chỉ là
một lớp vàng mạ mỏng manh: Hỏa Sơn sẽ xóa, sẽ bôi. Một biển mới sẽ dâng
triều. Một cơn lốc cát.
Phố thị n{y tưởng như x}y trên một dải đất đai đích thực, tưởng
chừng lòng đất còn phong phiêu trong những chiều s}u độ thẳm như miền
đất Beauce. Người ta quên mất rằng, ở nơi n{y hay chốn khác, cuộc sống
vẫn là xa xỉ phẩm, và ở dưới bước chân của con người, không bao giờ có
một mảnh đất sâu dày nùng hậu, bất cứ nơi đ}u. Những điều đó được minh
chứng rõ rệt do một cái hồ tôi gặp được ở cách thành Punta Arenas vài ba
dặm đường. Nằm vây bọc giữa cây cối cằn cỗi và nhà cửa lè tè, trông thiểu
n~o như một cái ao con trong sân nông trại, vì lẽ gì nó lại tuân theo nhịp
động của thủy triều biển khơi, cũng hằng hằng dâng lên rút xuống. Giữa bao
nhiêu thực tại yên tĩnh quanh mình, những lau vàng trúc vỏ, những trẻ con
nô đùa, c|i hồ kia đêm ng{y kiên nhẫn kéo d{i hơi thở chậm chạp theo tiết
nhịp bốn bên, nhưng vẫn âm thầm tuân theo những định luật kh|c. Dưới
mặt nước bằng phẳng, dưới lớp băng gi| im lìm, dưới mái chèo của chiếc
ghe hư n|t duy nhất nơi đ}y – uy lực của mặt trăng đương }m thầm tác
động. Những xo|y nước lũ của hải triều đương ngấm ngầm thao túng khối nước đen ngòm n{y, tận trong đ|y thẳm thâm u, những tương ứng tiếp
thông dị thường đương tiếp tục cuộc phối hóa, từ vùng loanh quanh đó cho
tới tận eo biển Magellan, dưới làn cỏ hoa mỏng mảnh. Cái hồ kia rộng không
qu| trăm thước, nằm ở ngưỡng cửa lối đi v{o th{nh phố thiên hạ sống rất
bình an vững ch~i trong cõi đất con người. Vâng, cái hố kia đ~ phập phồng
đập theo nhịp múa tim đại hải.
3
Chúng ta cư trú trên một tinh cầu lưu ly chuyển dịch. Lâu lâu, nhờ
chiếc phi cơ vạch nẻo, tinh cầu bỗng phơi mở ngọn nguồn mình: một cái hồ
âm thầm liên lạc với mặt trăng đ~ biểu lộ những tương quan ẩn kín. Và tôi
còn biết những dấu hiệu khác.
Dọc bờ biển vây dọc dãy Sahara, từ Capjuby tới Cisneros, thỉnh thoảng
ta lại bay qua một vùng cao nguyên với những sầm lĩnh đột nham hình nón
cắt, mà bề rộng xê xích giữa khoảng v{i ba trăm thước tới v{i ba mươi c}y
số. Duy có điều đặc biệt là: bề cao của chúng lại suýt soát khoảng ba trăm
thước, không xê dịch chi nhiều. Lạ nữa là: không những chúng cao như
nhau, mà lại còn giống nhau về màu sắc, về chất đất và hình thù bờ dốc, mép
ghềnh. Cũng như thể những cột trụ một điện đ{i n{o xưa, nhô chơ vơ trên
mặt c|t còn như nhắc gợi cho ta nhớ rằng, xưa kia, tòa nh{ huy ho{ng thế
nào, mà giờ đ}y t{n phế, chỉ còn chút vết tích thế kia… thì, cũng vậy, những
đột nham, sầm lĩnh n{y cũng chứng minh với ta rằng xưa kia chúng hẳn
phải nằm chung trong một toàn thể của một vùng cao nguyên lớn rộng.
Thuở con đường Casablanca-Dakar mới mở, trong những năm đầu phi
cơ còn mong manh yếu ớt, thì chúng tôi thường, hoặc vì máy hỏng, hoặc
nh}n đi tìm kiếm, cứu trợ những phi cơ bay lạc, mà phải hạ cánh xuống
những vùng phiến loạn, thổ d}n không ôn hòa. Nhưng c|t, bản chất vẫn dối
tr|; ngó như l{ bền vững, đ}u ngờ có lúc phải sa lầy. Còn những giãi ruộng
muối xưa, tưởng đ}u rắn chắc như nhựa trải đường, tưởng đ}u cũng vang
động dòn d~ dưới gót ch}n đi, ngờ đ}u nó cũng lại thường lún mất dưới
vòng b|nh phi cơ. Lớp muối vỡ tan, mở rộng một gi~i bùn đen hôi h|m. Thế
nên chi, chúng tôi thà cam chịu hạ cánh trên những cao nguyên kia, mỗi khi
trường hợp cho phép; ấy chỉ vì chúng không bao giờ che dấu những cạm
bẫy bên trong.
Sự bảo đảm ấy, bởi đ}u m{ có? Ấy là nhờ một thứ cát trắng, rắn chắc,
nặng hạt do những vỏ hào, vỏ hến tí hon tụ hội, dồn ghép lại, làm thành
những đống đồ sộ đun ra. Trên mặt cao nguyên, những đống lài lài còn
nguyên vẹn mặt m{y, nhưng nếu ta lần theo triền dốc m{ đi xuống, sẽ thấy
có chỗ vỡ ra từng mảng, có chỗ ghép chặt lại nhau. Xuống tới chân dãy cao
nguyên, nơi c|c thứ vỏ ấy dồn tụ l}u năm nhất, thì còn thuần một chất đ|
vôi không pha trộn phiêu bồng.
Thuở hai anh bạn Reine và Serre bị những thổ dân bất hảo thộp được
cầm tù, tôi có dịp chở một sứ giả người Maure tới hạ cánh xuống một trong
những vùng n{y. Trước khi từ gi~ người đó, tôi cùng anh ấy lân la tìm xem
thử có con đường nào sẽ giúp anh ngày mai lần mò xuống được. Nhưng
khắp bốn mặt đều là những bức tường thẳng tắp đổ xuống hố thẳm, không
một lối nào khả dĩ cho phép tho|t th}n.
Tuy nhiên trước khi cất cánh bay tìm chốn khác, tôi còn nấn ná dò hỏi
nơi đ}y. Tôi cảm thấy trong mình một niềm vui – thơ ng}y có lẽ - một niềm
thích thú được dịp ngẫu nhĩ ghi dấu chân mình tại một mảnh đất mà có lẽ từ
thiên cổ tới nay, người cũng như vật, chưa bao giờ xâm nhập tới. Không một
người Maure người mọi nào có thể vượt tới gần cái chỗ doanh trại hoang
liêu này mà mở cuộc tấn công. Không một người Âu người Ấn n{o đ~ từng
đến thám hiểm khu vực n{y. Tôi bước đi trên một thứ cát tuyệt vời hoang
vắng, tuyệt diệu hoang trinh. Tôi là kẻ đầu tiên l{m con người thứ nhứt đ~
ngồi xuống đưa b{n tay m{ hốt thứ bụi vàng vô gi| đó, v{ đong lên đổ
xuống, và lúc lắc trong lòng bàn tay của mình, v{ đê mê nhìn phấn vàng
thong dong chảy giọt. Vâng, tôi là kẻ đầu tiên tới phá vỡ cõi tịch mịch này.
Trên khuôn mặt khối dương băng n{y, kể từ thiên thu kể lại, chưa hề có
phát sinh một lá cỏ, tôi xin làm hạt giống của gió xa mang về, bằng chứng
đầu tiên của cuộc sống ái ân lần thứ nhất.
Một ngôi sao mọc, tôi liếc mắt lên. Tôi nghĩ rằng cái mặt phẳng trắng
phau này, từ muôn vạn kỷ, chỉ riêng gửi tấm trinh thể của mình cho tinh tú
soi bóng mà thôi. Tấm thảm, tấm gương trinh bạch trải ra dưới vòm trời
trong suốt. Tim tôi chợt nhói mạnh một c|i, như b{ng ho{ng trước một phát
minh huyền ảo, lúc chợt thấy… c|ch mình chừng v{i mươi thước, nằm lửng
lơ trên tấm thảm pha lê, rõ ràng một viên sỏi đen bất động.
Tôi nằm đè th}n trên lớp vỏ hến d{y ba trăm thước. Toàn khối khổng
lồ ấy tuyệt đối chống lại sự hiện hữu vô tình vô lý của viên sỏi kia. Trong
lòng s}u dưới đất hẳn nhiên là phải có những hòn đ| lửa đương ngủ yên,
giữa lòng địa cầu nghìn năm thai nghén, nhưng c|i phép nhiệm màu ảo diệu
nào lại có thể xô một viên sỏi từ đ|y thẳm nhô lên tới tận mặt trắng phau
phau này? Tim phập phồng như đứt chỉ xổ tung, tôi đưa tay nhặt của quý:
một viên sỏi đen, rắn chắc, to bằng ngón tay, nặng như kim khí, tạc hình
tượng một giọt lệ long lanh. Nhưng đ}u l{ linh hồn khóe mắt?
Một tấm thảm trải dưới một gốc táo, chỉ đón những trái táo. Một tấm
thảm trải dưới vòm trời sao, chỉ hứng được những hạt sương sao rụng.
Chưa bao giờ một tinh thạch chỉ dẫn rõ được cội nguồn mình một cách
tuyệt đối hiển nhiên như thế.
Và hồn nhiên mắt mở nhìn trời, tôi nghĩ rằng từ ngọn táo thanh thiên
kia, tất còn nhiều quả rụng. Tôi sẽ tìm ra chúng ngay tại chỗ chúng đ~ rơi, vì
tự vạn kỷ nhớ nhung lần mò đi tới, chưa có gì có thể di động những trái lạ
ghi tạc nhịp gót thiên thu.
Chúng không giống một vật thể nào khác ở đ}y. V{ tức khắc, tôi vội vã
khởi sự sưu tầm để yên định giả thuyết.
Giả thuyết đúng thật. Tôi lần hồi góp nhặt nhiều viên ngọc cuội, theo
nhịp trung bình mỗi mẫu một viên. Viên n{o cũng mang hình đ| lửa nguội.
Viên n{o cũng lóng l|nh rắn chắc như huyền kim. Và thế đó, từ trên cao
nguyên bát ngát là một vũ – lượng – kế tinh cầu, bằng một súc đồ kinh dị,
bàng hoàng nghe tiếng gọi của sử lịch mang mang, tôi đ~ chứng giám trận
mưa lửa diên trì trên thời gian đổ giọt.
4
Nhưng huyền diệu nhất là giữa cảnh này, giữa tấm thảm nam châm
kia và bầu trời sao nọ, nằm trên tấm lưng tròn của tinh cầu phiêu dạt, sao
lại có một tâm thức con người để đón nhận ẩn ngữ trận mưa kia, để cho
trận mưa kia có thể soi bóng v{o, như soi v{o gương thơ ng}y vậy. Ngồi
trên một nền khoáng chất, một cơn mơ l{ một nhiệm màu. Và tôi nhớ lại
một cơn mơ.
Một lần đó, rơi c|nh trên một vùng cát dày, tôi chờ trời s|ng. Dưới
bóng trăng, những ngọn đồi vàng nằm phơi sườn cong lưng lấp loáng, và
sườn tối bên kia men lần lên tới đường vạch của ánh sáng chia bờ, phân biệt
đôi bên. Khung cảnh hoang liêu nửa mờ nửa tỏ, vừa yên l{nh như trong giờ
nghỉ việc, vừa c}m nín như một cạm bẫy khôn lường, tôi nằm tròn ở giữa
lòng cảnh vật, ngủ thiu thiu.
Lúc sực tỉnh, tôi chỉ nhìn thấy vũng trời đêm, tôi đang nằm duỗi lưng
trên chóp đỉnh một ngọn đồi, hai tay vòng trên ngực, mặt đối mặt với cái hồ
xa nọ đầy sao. Chưa kịp hiểu ra những vực s}u đó l{ gì, tôi cho|ng v|ng
tưởng mình sắp rơi tòm v{o trong đó, không một chiếc rễ c}y để bám,
không một c{nh l| để bu, không một m|i nh{ để bấu.
Nhưng tôi không rơi. Từ đầu tới chân, tôi nhận ra l{ mình đang dính
liền da với đất. Tôi khoan khoái yên tâm phó thác sức nặng thân mình cho
đất giữ. Và cảm thấy sức hút của tình đất tuyệt vời tối thượng như tình yêu.
Tôi cảm thấy đất đỡ lấy lưng tôi, đất n}ng tôi lên, đất cầm tôi ở lại, đất
đưa dẫn tôi vào khoảng rộng đêm mờ. Tôi nhận thấy quả thật mình được
gắn liền v{o tr|i đất do một sức mạnh thu hút giống như một sức mạnh gắn
liền ta vào chiếc xe, ở những đoạn đường quanh, xe lái quẹo. Tôi khoan
khoái trong nhịp kề vai góp vú, đất ôi! người chung tình đúc |i, người vững
bền đem ổn định tình yêu, yên lành là thế đó. Ta cảm thấy dưới thân mình
cái boong tàu cong phồng của con thuyền đưa ta v{o viễn du trong cõi.
Tôi cảm thấy rõ r{ng mình đương được chở đi xa; cho đến nỗi, nếu
bỗng nhiên nghe từ lòng đất dậy, những ì ầm của con tàu xê dịch, hì hục cọ
siết tiến đi, những rên rỉ của con thuyền buồm cũ n|t kiệt sức gắng gổ vào
bờ, hoặc những tiếng kêu chát chát của những chiếc Sà-Lúp gặp trở ngại
nên trở con, vâng, nếu bỗng nhiên nghe trỗi dậy những }m thanh đó thì
lòng tôi hẳn là vẫn điềm nhiên không kinh ngạc chút n{o. Trong lòng đất
vẫn còn nguyên im lặng. Nhưng c|i sức hút kề vai kia đ~ biểu lộ thâm tình,
dặt dìu, bền bỉ, trung th{nh sau trước, từ vạn đại tới trăm năm. Tôi cư trú
thanh bình trong quê hương nọ, cũng như thể những tên tù tào dịch, kết vào
với khối chì, đ~ nằm yên đ|y biển khơi, không nhúc nhích.
Tôi lại ngẫm tới thân phận mình, lạc lõng giữa Sa mạc, bị hăm dọa
từng cơn, chịu bơ vơ giữa c|t v{ng mù tăm v{ ng{n sao vằng vặc, xa dời trên ngàn dặm những từ cực của ân tình câm nín, bởi vô hạn vắng im. Tôi
biết rằng muốn quay về trùng ngộ tôi còn phải chịu hằng hằng ngày tháng
lang thang, nếu không chiếc phi cơ n{o tìm tới, hoặc là nếu mai đ}y bọn
người Maure không cắt đầu tôi mà chấm dứt. Còn chi nữa, nơi đ}y. Tôi chỉ
còn l{ tôi c|i con người phù du lưu lạc giữa cát hững hờ v{ trăng sao hờ
hững, giữa cát không bờ và sao không bến. Chỉ riêng còn ý thức được niềm
êm dịu thở mà thôi.
Ấy thế tuy nhiên, tôi bắt gặp mình tr{n đầy cơn mộng.
Những cơn mộng về không tiếng động, êm như nước suối xuôi miền,
và thoạt tiên, tôi chưa hiểu cái niềm l}ng l}ng đương x}m nhập.
Không tiếng, không lời, không hình ảnh, chỉ duy nhất là mối thâm cảm
một hiện diện, một tình bằng hữu rất gần gũi đ}u đ}y, v{ được linh cảm
đo|n ra nửa phần đ}u đó. Rồi tôi chợt hiểu. Tôi nhắm mắt, buông mình xuôi
theo những thiên hoa loạn trụy nhiếp dẫn của kỷ niệm đầu khe.
Một nơi n{o đó, có một khu vườn xum xuê tùng bách, bối và bồ đề, và
một ngôi nh{ cũ tôi yêu. Ngôi nh{ ở gần hay ở xa, điều đó không cần yếu.
Ngôi nhà không thể che ấm thân tôi, không còn cho tôi trọ nữa, điều đó cũng
không can hệ gì. Vì đ}y l{ ở trong cơn mộng: chỉ cần ngôi nhà kia là có thật
trong đời, thế l{ đủ để đi về tràn ngập suốt đêm nay. Tôi không còn một tấm
thân rớt giữa hoang vu, tôi đ~ định xong phương hướng, tôi l{ đứa con thơ
dại của ngôi nhà, lòng mang những kỷ niệm mùi hương, không khí m|t h{nh
lang gió về hây hẩy, lòng ấm áp cho ngôi nhà. Cả đến những tiếng ếch nhái
trong hồ, cũng lại về trong cơn mơ góp điệu. Tôi cần có trăm nghìn trụ mốc
như thế để tìm lại th}n mình, để khám phá những vắng mặt xa xưa n{o đó
đ~ l{m nên mùi hương sa mạc ng{y nay, để tìm ra ý nghĩa cho sự vắng lặng
này làm nên bởi muôn nghìn vắng lặng, v{ trong cõi đó, ễnh ương, ếch nhái
cũng ngừng kêu.
Không, tôi không còn nằm giữa cát và sao. Tôi chỉ xin thu nhận của
ngoại vật một lời nhắn lạnh. Cả hương vị của Vô Cùng tôi tưởng nó mang lại
cho mình, giờ đ}y tôi mới rõ nguyên lai. Tôi thấy trở lại những chiếc tủ lớn
trịnh trọng giữa căn nh{; chúng hé ra cho thấy những chồng nệm chăn
trắng tinh như tuyết. Người U già tấp tểnh nhảy như một con chuột non, từ
tủ này qua tủ khác, hai tay không ngớt soát tìm, tung ra, xếp lại, đếm từng tấm chăn trắng v{ kêu: “Trời ơi, chết mất”, mỗi khi có chỗ mòn rách làm tổn
thương cho sự trường tồn của căn nh{. Rồi liền tay, U vụt chạy tới |nh đèn,
nhấp nhem hai con mắt mòn buồn, hối hả phục vụ một c|i gì trường tại hơn
U, một đấng thiêng liêng hay một con tàu lớn.
U gi{ ơi, tôi phải nói về U đó. Thưa U, xưa ấy, mỗi khi ở xa về, sau
những cuộc du lịch đầu tiên của tuổi trẻ, thì bao giờ tôi cũng nhìn thấy U tay
kim tay chỉ, cả th}n người ngập trong lớp chăn trắng, và mỗi năm khuôn
mặt mỗi nhăn nhíu thêm, v{ bao giờ cũng tự tay U chăm sóc những tấm
chăn cho chúng tôi ngủ. Sao cho chăn ngủ không nh{u, sao cho khăn trải
bàn tiệc không thủng, những buổi hội pha lê rạng rỡ kia…
Tôi vào phòng U may vá, tôi ngồi trước mặt U, tôi kể U nghe những
nguy hiểm suýt giết người tôi, để làm U khiếp đảm, để cho U biết chút ít về
thế giới chúng ta, để lung lạc U coi thử… Tôi không thay đổi chút nào, U bảo.
Còn bé, tôi cũng đ~ biết nghịch cho r|ch |o như thiên lôi – Trời ơi! Chết
mất! – nghịch cho trầy chân lở gối, rồi mò về cho U băng bó, y hệt tối nay.
Không, U ạ, tôi không phải ngo{i vườn chạy về với U đ}u, tôi từ tận cùng trái
đất về đ}y, mang trong mình mùi cô đơn chát chát, mang trong thân thể
những cơn lốc cuồng phong, mang trong mạch máu những màu trắng lộng
lẫy những miền nhiệt đới cuối trời xa. Cố nhiên U bảo rằng bọn trẻ chỉ biết
nhảy đùa, chỉ biết bẻ chân cho gãy rồi tưởng mình khỏe lắm hử. Không,
không U ạ! Tôi đ~ thấy xa hơn thửa vườn nhà. Nếu U biết bóng c}y vườn
nhà là nhỏ! Nếu U biết bóng cây chìm mất giữa những cát, những đ|, những
rú thẳm rừng sâu, những ao tù lầy lội của thế gian mình. U biết chăng những
vùng man rợ có con người chợt gặp ta, là lập tức tì súng lên vai. U có biết là
có những vùng sa mạc, ngủ trong đó l{ nằm trong giá lạnh, không nhà,
không giường, không chăn nệm, thưa U…
- Trời, dã man, U bảo.
Tôi không phá nổi niềm tin vững chắc của U, cũng như khó m{ ph| vỡ
đức tin của một người đ{n bà giúp việc nhà thờ. Và tôi ái ngại cho căn số
tầm thường của U đ~ l{m U th{nh người mù lòa, nghễnh ng~ng…
Nhưng đêm nay, nằm trong b~i Sahara, trơ trụi giữa biển cát và trời
sao, tôi cảm thấy U không phải là không có lý.
Những gì đ~ xảy đến trong tôi, tôi không rõ. Sức hút của đất kết chặt
tôi v{o đất, trong lúc bao nhiêu vì sao đều có sức nam châm. Một sức hút
khác lại kéo dẫn tôi về lại với tôi. Sức nặng của tôi đang xô tôi về bao nhiêu
chuyện. Những chuyện trong cơn mơ còn thực hơn những đụn cát, thực
hơn vầng trăng, thực hơn mọi vật hiện diện bây giờ. Ôi! Huyền diệu của một
ngôi nhà, không ở chỗ nó che đụt cho ta, sưởi ấm cho ta, không phải vì ta là
chủ nhân các bức tường của nó. Huyền diệu của một ngôi nhà chính ở chỗ
nó chậm rãi lần hồi kết tụ lại trong ta những mạch nguồn thương mến. Ở
chỗ nó cấu th{nh, trong đ|y thẳm tâm linh, cái khối đất th}m u, để từ đấy
tuôn ra những cơn mơ dạt d{o như suối nước.
Sahara, Sahara của ta ơi, cả một dãi hoang vắng của Người bỗng huyễn
hoặc động hồn bởi một người đ{n b{ se chỉ.
V
MÀU XANH SA MẠC
Tôi đ~ nói rất nhiều về Sa mạc cho anh nghe, nên trước khi tiếp tục nói
thêm về nó nữa, tôi muốn tả một màu xanh ốc đảo, một khóm ô-a-xi… Khóm
tôi nhớ lại đ}y, không nằm sâu trong sa mạc Sahara. Một phép màu nhiệm
nữa của phi cơ l{ đưa thẳng ta vào ở giữa lòng của huyền bí. Phía sau vành
tròn cửa kính con tàu, anh làm nhà sinh vật học nghiên cứu về đ|m người
chen chúc trần gian, anh nhìn bằng con mắt vô tư, lòng không mảy may
rung động, những phố thị kia nằm giữa đồng bằng, nơi trung t}m những
đường ngang lối dọc xòe ra chia về chân trời bốn ngã. Và giống như những
đường mạch máu nuôi thân, mang tụ mật hoa đất đồng về nuôi phố thị.
Nhưng một mũi kim quay chợt rung động trên m|y đo sức ép, và cụm cây
xanh ấy, dưới kia, đ~ biến thành một vũ trụ. Anh làm tên tù, hãm thân trong
một bãi cỏ giữa một khu vườn đang ôm mộng ngủ yên.
Cách trở không ước lượng độ xa xôi. Xa xôi không hẳn là cách biệt.
Bức tường ngăn một khu vườn xứ nhà vẫn có thể khép bọc nhiều bí mật
hơn trường thành vạn lý Trung Hoa, và linh hồn một cô gái nhỏ vẫn có thể
được che giữ bằng sự im lặng, còn kín đ|o hơn cả giữa giãi cát dày dằng dặc
che giấu những Oasis trong Sahara.
Tôi kể lại đ}y c|i lần ghé lại chốn kia một buổi. Chốn ấy ở gần
Concordia, xứ Argentine, nhưng cũng có thể là một nơi n{o bất cứ: bí mật
tr{n lan l{ như vậy, ai biết chắc chắn là hẳn riêng chỗ nào.
Tôi hạ cánh trên một khoảng đồng, không hề biết là mình sắp được
sống một chuyện thần tiên. Chiếc xe Ford cũ kỹ chở tôi không có gì đặc biệt,
v{ cũng không đặc biệt gì cặp vợ chồng hiền hòa yên tĩnh đón tôi.
- Chúng tôi mời ông nghỉ lại nhà tối nay…
Nhưng qua một khúc quanh, một chòm cây xuất hiện dưới trăng v{ng,
và sau chòm cây là ngôi nhà ấy. Một ngôi nhà kỳ lạ. Thấp, nặng, to, gần như
một cung th{nh. Cung điện của huyền hoặc hoang đường, ta vừa bước qua
ngõ rộng, liền được đưa v{o một cõi trú yên tĩnh, chắc chắn, được bảo đảm bền vững như trong một nhà tu.
Rồi hiện ra hai thiếu nữ. Gái trang nghiêm nhìn tôi sòng sọc, như hai vị
quan tòa giữ cửa một cấm cung: cô nhỏ tuổi bĩu môi trề ra một cái, cầm
chiếc đũa gỗ lục gõ nhè nhẹ lên mặt đất, rồi lúc giới thiệu xong, hai cô chìa
tay cho tôi bắt, không nói nửa lời, với một kẻ th|ch đố lạ lùng, và biến mất.
Tôi vừa vui vừa thích thú. Sự việc sao đơn sơ, lặng lẽ v{ lén chùng như
cái tiếng đầu tiên của một niềm bí ẩn.
- Hừ! Hừ! Chúng nó man rợ lắm. Người cha thản nhiên nói.
Chúng tôi vào nhà.
Ở Paraguay, tôi từng đ~ yêu một thứ cỏ ngạo đời cắc cớ, cứ lò đầu
trong kẹt đ| lót đường ở thủ đô, một loại cỏ của rừng thẳm nào vô hình mà
hiện diện, cứ mò vào thành phố coi chừng thử con người còn ở đấy hay thôi,
coi chừng thử xem đ~ tới giờ cần nên xô những lớp đ| sỏi kia cho nh{o chơi
tí chút. Tôi yêu thích cái dáng dấp tàn phế rụng rơi kia, nó biểu hiện một
giàu sang quá lớn. Nhưng tại nơi đ}y, tôi đ~ b{ng ho{ng th|n phục.
Bởi vì tất cả tại đ}y cùng thi đua nhau m{ t{n phế, và tàn phế một cách
đ|ng yêu, đ|ng yêu say đắm, tàn phế theo điệu một cây cổ thụ đầy rêu trên
mình, và vỏ da nứt rạn vì thời gian, tàn phế theo lối chiếc ghế gỗ dài nằm im
để cho người hai thế hệ uyên ương tới ngồi tình tự. Tại đ}y, ghế, bàn, tủ cái,
tủ con, đều mòn rã, những cánh cửa rạc rời, những ghế dựa long chân. Tuy
nhiên, đồ đạc hư, không được chữa, mà chùi rửa thì lại được chùi rửa với
tất cả nhiệt tình. Tất cả đều sạch sẽ, bóng nho|ng, s|ng trưng.
Phòng khách vì thế có một bộ mặt nồng nã dị thường, như khuôn mặt
một b{ l~o nhăn nheo. V|ch rạn, tường hư, trần nứt, tôi đăm chiêu yêu dấu,
và si mê nhiều nhứt là cái sàn nhà loang lổ, sập chỗ này, xiêu chỗ nọ, như
chiếc thang tàu thủy lay lắt phiêu bồng, nhưng nhất thiết luôn luôn được lau
chùi bóng lộn. Ôi ngôi nhà kỳ ảo, không gợi gì là cẩu thả lai rai, chỉ xui lòng
không cùng kính thán. Mỗi năm qua, c{ng gia tăng mùi hương cho dáng
điệu, thêm một chút nồng cho khuôn mặt phức tạp đa duyên, thêm một chút
đượm lừng cho đựng tụ mối nhiệt thành trong bầu không khí giao loan,
cũng như thêm một chút hiểm nguy cho cuộc hành trình phải đi trên con đường từ phòng khách tới phòng ăn.
- Coi chừng!
Một lỗ hổng. Người ta nhắc cho tôi nhớ rằng với một cái lỗ hổng như
thế, tôi để lọt chân vào, là có thể gãy giò cẳng như chơi. C|i lỗ kia, đ}u có tại
người o|i oăm m{ có. Không ai chịu trách nhiệm cả. Đó l{ sự vụ thời gian.
Công trình của ng{y th|ng. Người ta ngang nhiên không xin lỗi nhau, đó l{
c|ch điệu huy hoàng của vương chúa. Người ta không bảo tôi: “Chúng tôi
cũng có thể trám cái lỗ kia lại, chúng tôi có tiền, tuy nhiên…” Người ta cũng
chả bảo tôi – tuy nhiên là chuyện thật – “Chúng tôi thuê c|i đó tại nhà chủ ở
thành phố, thời hạn ba mươi năm. Th{nh phố phải liệu tu bổ lấy. Bên nào
cũng nằng nặc…” Người ta coi thường, không giải thích, và tôi phải thán
phục c|i phong độ đĩnh đạc kia. Nhiều lắm l{ người ta nhắc tôi:
- Hừ! Hừ! Hư hỏng chút ít đó…
Nhưng với cái giọng thật nhẹ nhàng, nên tôi ngờ là các bạn tôi đ}y chả
lấy đó l{m điều chi cho r|o. Tôi đ}u d|m tưởng ra một đo{n thợ nề, thợ
mộc, thợ trần nh{, lũ lượt tới giữa một bầu quá khứ thơ ng}y dịu ngọt như
thế; m{ đem bầy ra một mớ những đồ nghề sắc tục hỗn mang, và trong tám
ngày liền, loay hoay làm lại cho ta một ngôi nhà khác, xa lạ hoàn toàn, ta
chưa hề biết, tư tưởng tới viếng thăm? Một ngôi nhà không quá khứ mông
lung, không niềm riêng man mác, không ẩn mật gốc tròn, không kín bưng
hầm méo, không xó hóc hang xiêu – một thứ sa lông nơi tòa nhị sảnh?
Trong ngôi nhà có lắm ngõ ng|ch o|i oăm n{y, hai cô g|i có biến mất
cũng l{ chuyện tự nhiên. Cái vựa chứa lúa trong nhà này thật sự nó ra làm
sao, khi m{ căn phòng kh|ch cũng đ~ chứa một kho tàng của vựa thóc! Khi
người ta đo|n chắc rằng bất cứ một ngăn tủ nhỏ nào mở hé ra cũng sẽ thấy
đổ ào xuống nào những xấp thư v{ng xạm, những giấy tờ, những thư chứng,
khế ước của cụ cố ng{y xưa, v{ vô số những chiếc chìa khóa, nhiều gấp mấy
lần số ổ khóa trong nhà, và cố nhiên không chìa n{o ăn nhập ổ nào cả!
Những chìa khóa tuyệt vời vô dụng, ngẫm mà xem thì lý trí chỉ xin chịu lơ
l|o đầu h{ng, chúng xui ta mơ m{ng nghĩ tới những kho hầm dưới đất;
những đống tiền vàng.
- Xin hạ cố sang phòng ăn.
Chúng tôi ngồi vào bàn. Phảng phất khắp nơi một mùi thư viện cũ từ
phòng này sang phòng khác, vẫn man m|c hương trầm, thơm tho hơn tất cả
những mùi hương trong thiên hạ. Và tôi thích nhất cái cảnh tượng dời các
ngọn đèn. Những c}y đèn thật sự, to và nặng, người ta phải mang dời từ
phòng n{y sang phòng kh|c, như c|i thời xa thăm thẳm trong tuổi thơ tôi,
dời đèn đi thì bao nhiêu hình bóng huyền ảo chập chờn di động nhảy múa
trên những bức tường. Rồi, một khi những ngọn đèn nằm yên đ}u v{o đó,
thì những dãi ánh sáng tỏa từng vùng cũng nằm im, bất động, và những
khoảng tối lớn rộng xung quanh cũng không xê dịch nữa, chỉ còn nghe tiếng
gỗ kêu răng rắc ở trong đó m{ thôi.
Hai cô con gái lại hiện ra, cũng huyền bí, cũng im lìm như lúc biến mất
trước đ}y. Họ trang trọng ngồi bàn. Chắc là vừa rồi họ đ~ mang thức ăn cho
chó, cho chim chóc họ nuôi, họ đ~ mở cửa sổ cho đêm xanh trăng tỏ đi v{o,
v{ đ~ hít v{o trong hai lồng ngực mênh mông những mùi hương }n tình của
hoa cỏ trong cơn gió đêm lẽo đẽo bay về. Giờ đ}y, hai cô mở tấm khăn ăn,
kín đ|o nhìn tôi, thận trọng dò xét, tự hỏi không biết có nên sắp đặt tôi vào
nằm trong số những thú vật thân thuộc họ nuôi. Bởi vì hai cô cũng đ~ có
một con kỳ đ{, một con cầy hôi, một con chồn, một con khỉ và một bầy ong.
Mọi thứ đó sống chung lộn lạo, ăn ý hợp tình nhau lắm, họp thành một thiên
đường mới mẻ ở trên đất trần gian. Hai cô trị vì trên mọi thú vật ở thế gian,
vuốt ve chúng với những bàn tay nhỏ ngón thon thon, cho chúng ăn, cho
chúng uống, kể cho chúng nghe những câu chuyện mà từ con cầy hôi tới bầy
ong đông đảo, thảy đều chăm chú lắng tai.
V{ tôi d|m nghĩ rằng hai cô gái linh hoạt đến thế, ắt phải đem tất cả óc
xét đo|n tế nhị của mình ra để mà nhận định về c|i g~ đ{n ông ngồi đối
diện, nhận định nhanh, kín đ|o v{ đúng vô cùng. Hồi tôi còn nhỏ, các chị tôi
cũng thường “cho điểm” những người khách lần đầu tiên tới dự tiệc trong
nhà. Và mỗi khi câu chuyện tàn bỗng nhiên nghe giữa lặng lẽ vang lên một
tiếng:
- Mười một!
Mà ngoài các chị tôi và tôi, không ai hiểu được ý nghĩa cợt đùa thích
thú trong đó.
Tôi đ~ từng biết trò chơi đó nên b}y giờ thấy ngài ngại chút ít. Và càng
ngượng ngùng bối rối hơn, vì cảm thấy hai vị quan tòa qu| am tường ngành
ngọn. Những vị ph|n quan đ~ quen ph}n biệt những con vật giảo hoạt với
những con vật thơ ng}y, biết xem bước chân chồn đi m{ nhận ra khi nó
lành, khi nó dữ, lúc nào nó cho phép lại bên gùn ghè, lúc nào nó phát cáu cự
tuyệt. Hỡi ôi! Những vị quan tòa t{i ba như thế, gieo làn khía cạnh mà thấu
suốt những đợt động triều, tận đ|y thẳm tâm linh.
Tôi yêu mến những cặp mắt tinh ranh và những tâm hồn ngay thẳng
đó, nhưng thật cũng rất mong họ thay đổi c|ch chơi. Tôi đớn hèn, tôi sợ cái
điểm “mười một”, nên vồn vã chuyền muối cho hai cô, rót rượu cho hai cô,
những lúc ngẩng lên nhìn vẫn thấy trở lại trong đôi mắt hai cô vẫn nguyên
vẻ trang trọng dịu dàng của những vị quan tòa không ai lung lạc được.
Nịnh họ có lẽ cũng vô ích: họ không hề biết khoe khoang phù phiếm.
Không khoe khoang phù phiếm, nhưng rất có lộng lẫy tự kiêu, và không cần
nhớ tới tôi, họ cũng tự gán cho mình nhiều thứ tốt tươi m{ chắc tôi không
d|m nói. Tôi cũng không mong đem nghề nghiệp mình m{ lòe ai được, vì
chắc gì l|i phi cơ đ~ t|o gan bằng việc leo lên chót vót ngọn dương ngô đồng
m{ thăm chơi một cái tổ chim, coi chừng xem cái tổ chim non mới nở đ~
mọc cánh tốt tươi chưa, v{ ch{o qua c|c bạn tí hon cho tốt tươi một tiếng.
Hai nàng tiên lặng lẽ vẫn dò chừng cẩn thận bữa ăn của tôi, tôi bắt gặp
m~i c|i nhìn kín đ|o của họ, cho đến nỗi tôi nao lòng không còn biết nói chi.
Bỗng dưng m{ im lặng, v{ trong cơn im lặng đó, bỗng dưng nghe như có c|i
gì thổ, “xít, xít” dưới s{n nh{, sè sè lướt dưới b{n ăn rồi nín bặt. Tôi ngạc
nhiên, ngước mắt tò mò. Cô em nhỏ tuổi, bây giờ như chừng đ~ h{i lòng
trong sự nhận xét của mình nhưng còn muốn thử thêm cú chót cho thật
chắc vàng thau, cô gặm sâu vào mẩu bánh mỳ với h{m răng non man rợ, cô
mới vắn tắt cắt nghĩa cho tôi nghe bằng một dáng dấp thơ ng}y băng tuyết,
cô muốn làm cho cái gã mọi rợ trước mắt mình phải sửng sốt một trận mà
chơi, nếu thật tình g~ ta đúng l{ thằng mọi rợ:
- Mấy con rắn lục đó.
Và ngậm môi, nín lặng, h{i lòng, như tuồng lời giải thích chất hằng phỉ
phong kia hẳn là phải đủ đầy lắm lắm đối với kẻ nào không quá tối dạ lần
khần. Cô chị liếc nhìn tôi một cái thật nhanh để xem thử c|i cơn đầu tôi
phản ứng ra sao, và cả hai cùng một lần cúi gầm xuống dĩa ăn một khuôn
mặt kiều diễm dịu d{ng thơ ng}y nhất ở trong cõi trăm năm.
- À! Té ra là rắn lục…
Hồn hồn ngạc ngạc, những lời đó rúc từ môi miệng của tôi ra. Ha!
Những thứ của lạ đa đoan kia đ~ bò lòn v{o trong ống chân tôi, nghe có
tiếng nhột nhột cho c|i tr|i ch}n, v{ đó l{ té ra mấy con rắn lục…
May làm sao là tôi mỉm cười. Và không có chiều gượng gạo. Hẳn hay
cô n{ng đ~ cảm thấy chứ ru! Tôi mỉm cười vì tôi sung sướng, tôi mỉm cười
vì mỗi phút cứ mỗi cảm thấy c|i căn nh{ c{ng khả ái thêm ra; tôi mỉm cười
cùng vì sao với ước mong biết thêm những cơn phiêu bồng hồn rắn lục. Thì
cô chị nhoẻn nụ cười dìu dặt giúp tôi:
- Chúng làm tổ trong cái hang ở dưới gầm b{n đấy.
Cô em nói lời theo.
- Khoảng mười giờ tối chúng mò về. Ban ng{y, chúng săn mồi.
Tới lượt tôi bây giờ lén nhìn trộm hai cô một cái. Họ tế nhị thông
minh, họ âm thầm cười nụ ở phía sau hai khuôn mặt điềm tĩnh phiêu bồng.
Thật khôn xiết uy quyền nữ chúa…
Ngày nay tôi mộng lại. Những c|i gì đó đ~ xa xôi. Mất cả rồi? Hai nàng
tiên ấy bây giờ ra sao? Đ~ lấy chồng? Thế ra l{ thay đổi? Từ cõi miền thiếu
nữ bước sang bờ thiếu phụ, tình trạng đó có trầm trọng? Có lâm ly? Hai
n{ng l{m gì trong căn nh{ mới? Những mối gi}y ban đầu chấm dứt? Những
tơ cỏ rối bời và những con rắn lục đ~ đi đ}u? C|c n{ng đ~ từng hòa thân
trong cái gì của càn khôn lớn rộng. Nhưng một ngày về, đ~ đ|nh thức hồn
thiếu phụ trong tấm linh hồn tuyết bạch g|i thơ ng}y. Người ta mơ tao
phùng để ban cho ai một điểm mười chín. Mười chín điểm! Con số đó trĩu
nặng ở đ|y lòng. Thì bỗng dưng một g~ đần, lai rai xuất hiện. Bỗng làm viễn
khách tới trình diện nhị cô nương. Lần đầu tiên, con mắt lịch duyệt tinh ranh của cô nương bỗng nhầm lẫn. Cô đem m{u lộng lẫy m{ trang điểm gã
lai rai. Chàng bê bối đọc thơ cho cô nghe, cô vội tưởng chàng ta chính danh
thi sĩ. Bé c|i nhầm là rứa đó, hỡi người ta. Người ta tưởng gã lai rai không
phải người ngốc nghếch. Người ta tưởng g~ lĩnh hội thông suốt những diễm
kiều trong lỗ hổng nh{ người ta. Người ta tưởng g~ cũng yêu cầy hôi, chồn
h|m. Người ta tưởng hắn hài lòng vì rắn lục tin yêu, lay lắt bò leo trong ống
chân, gặm b{n bên dưới. Người ta đem tr|i tim mình ban cho g~, một trái
tim tròn trịa chất chứa mộng vườn hoang. Mà gã ta chỉ thích c|i khu vườn
vun vén. C}u khư thất khiếu lên đường, g~ lai rai đ~ mang nường tiên đi…
VI
TRONG SA MẠC
1
Những êm dịu thế kia chúng tôi không được phép hưởng thụ. Hằng
tuần, hằng tháng, hằng năm, l{m th}n phi công trên độ đường Sahara,
chúng tôi hãm thân mình trong cát, di chuyển từ lũy n{y sang lũy kia, không
về. Sa mạc này tuyệt nhiên không có những bóng xanh tương tự: vườn cây,
thiếu nữ là chuyện hoang đường. Cố nhiên, phương trời xa, nơi chúng tôi sẽ
quay về ngày sau, lúc xong phận sự, có hàng ngàn thiếu nữ chờ đón chúng
tôi. Cố nhiên, nơi xa ấy, ngày ngày nô giỡn với chồn hôi hoặc đọc sách,
những thiếu nữ đó đương kiên nhẫn sửa sang linh hồn cho dịu ngọt. Lẽ cố
nhiên, họ lộng lẫy thêm ra…
Nhưng tôi biết cảnh cô đơn. Ba năm lăn lộn trong sa mạc, té ra tôi đ~
quen mùi. Ở đ}y, ta không lo sợ tuổi xuân tàn tạ trong sa thành khô khan. Ở
đ}y ta lại thấy rằng, ở xa ta, chính trần gian đương gi{ cỗi. Cây cối đ~ đ}m
hoa kết tr|i, đất đai đ~ nảy nở lúa vàng, phụ nữ đ~ tới kỳ kiềm diễm. Nhưng
mùa chuyển nhanh, phải gắng về vội v~… Nhưng mùa chuyển gấp, mà ta còn
bận bịu nơi xa… V{ những của quý trần gian cứ lọt qua kẽ tay như c|t mịn
cồn gò.
Thời gian trôi, trôi m~i, nhưng con người thường không lưu t}m nhận
thấy. Họ sống trong yên bình tạm bợ. Nhưng bỗng nhiên chúng tôi nhận
thấy điều đó một lần hạ cánh xuống trạm nghỉ, gặp trận gió Tây liên miên
thổi tới. Chúng tôi giống như người đi t{u lửa tốc hành, tai nghe ầm ầm
tiếng bánh sắt nghiến trong đêm tăm, mắt nhìn những |nh đèn lo|ng
thoáng vung vải bên kia miếng kính cửa tàu nối đuôi nhau chạy giật lùi, mà
hình dung những c|nh đồng lai láng, những thôn xóm êm đềm, những cõi
miền huyền ảo, mà mình chẳng cầm giữ được chút gì, vì còn bận chuyến đi.
Chúng tôi cũng vậy, lòng còn bận rộn, tai còn ù vì tiếng động cơ lúc đang
bay, chúng tôi vẫn còn cảm thấy mình đang xê dịch trên dặm đường, mặc dù
hiện đang đứng yên bình nơi trạm nghỉ. Chúng tôi cảm thấy mình cũng
đương bị cuốn hút về một cõi tương lai vô định, xuyên qua ý gió, bởi nhịp
động của máu tim.
Mỗi bất hòa ở vùng phiến loạn càng xui sa mạc heo hút thêm. Những
đêm d{i tại Cap Juby, cứ mười lăm phút lại nghe tiếng hú của bọn lính gác
gọi nhau vọng từ điếm canh n{y sang điếm canh khác, khẩu hiệu cầm canh
gióng giả từng hồi như chuông đồng hồ điểm. Ph|o đ{i T}y Ban Nha ở Cap
Juby nằm sâu trong vùng phiến loạn, họ cần phải làm thế để phòng ngừa
những hăm dọa vô hình, những hiểm nguy không phô khuôn mặt. Và chúng
tôi, những du khách trên chuyến t{u mù tăm ấy, chúng tôi lắng nghe tiếng
hú từ xa lại, lớn dần, lớn mãi, và vây bọc chúng tôi như đường vòng bay của
hải điểu.
Tuy thế mặc dù, chúng tôi đ~ yêu sa mạc.
Nếu bạn sợ sa mạc chỉ là trống không và vắng lặng, ấy bởi vì nó không
chịu hiến thân cho cuộc trăng gió một ngày. Một thôn l{ng đơn sơ ở xứ
mình cũng đ~ ngại ngùng nép mặt. Nếu ta không vì nó mà từ bỏ những thứ
khác bên ngoài, nếu ta không chịu vào trong thói nhà phỉ phong truyền
thống nó, không chịu theo tập tục của nó, không chịu chia xẻ những cạnh
tranh, những kháng cự dữ dàng theo thói của nó, chúng ta sẽ hoàn toàn
chẳng biết chút gì về c|i cõi quê hương m{ thôn l{ng đó lập riêng cho một
v{i người. Phải thế chăng? C|ch ta v{i bước, một kẻ sống ẩn thân trong tu
viện, sống theo những quy tắc, lề lối xa lạ với ta, kẻ đó quả thật cách biệt ta
hơn mười vạn hoang vắng quan san, trong một cõi xa xôi không phi cơ n{o
bay tới được. Ta tìm viếng thăm chi trong hang của họ. Nó trống rỗng. Vũ
trụ con người ta l{ vũ trụ nội tại. Sa mạc cũng vậy, sa mạc không phải chỉ là
cát, chỉ là dân Touareg hoặc người Maure, cho dẫu Maure có súng, cho dẫu
Touareg có ca-nông.
Nhưng chính bữa nay, chúng tôi vừa trải qua một trận khát. Và cái
giếng chúng tôi đ~ từng biết từ lâu, chính bữa nay, riêng bữa nay thôi,
chúng tôi mới thật khám phá thấy nó rạng tỏa mênh mông. Một người đ{n
b{ vô hình cũng có thể g}y man m|c đầm ấm cho khắp một căn nh{. Một cái
giếng cũng vang xa r{o rạt, như tình yêu vậy.
C|t ban sơ vốn là hoang vắng. Rồi một ngày lo sợ một trận giặc cướp
tới gần, chúng ta đọc trên cát những nếp gấp của tấm áo bao la mà hiểm họa
đ~ tự phủ lên thân mình. Giặc cướp đ~ biến dạng cát.
Chúng tôi chấp thuận luật tắc của cuộc chơi. Cuộc chơi rèn luyện
chúng tôi theo hình ảnh nó. Sa mạc, chính tại lòng ta l{ nơi nó biểu hiện. Ghé
bờ sa mạc là gì? Không phải là vào viếng thăm ốc đảo. Ghé bờ sa mạc là:
sùng mộ nguồn nước giếng như một tôn giáo thiêng liêng.
2
Ngay chuyến bay đầu tiên, tôi đ~ bén mùi sa mạc. Chúng tôi ba người,
hai bạn Riguelle, Guillaumet v{ tôi, rơi s|t cạnh đồn binh Nouatchott. Cái
đồn nhỏ này ở Mauritaine, thủa đó cô lập như một đảo nhỏ đơn sơ đơn
chiếc lạc hồn trong dặm biển. Một người đội già sống biệt lập nơi đ}y với
mười lăm b|c da đen Sénégalais. Họ tiếp chúng tôi như tiếp sứ giả nhà Trời.
- A! Được nói chuyện với các anh, thật đ|ng nên c|i đời một cách! Cảm
kích lắm. Cảm động lắm.
Viên đội cảm động thật, ông ta khóc:
- Ròng rã sáu tháng nay, các anh là những người thứ nhất tới đ}y. S|u
tháng một lần, người ta tải lương thực tới cho tôi. Khi thì trung úy, khi thì
đại úy. Lần sau cùng, chính l{ đại úy…
Chúng tôi thì còn đang b{ng ho{ng. Dakar còn c|ch hai giờ đường, bữa
ăn trưa chờ chúng tôi tại đó, một cái trục long đi, v{ con người ta cũng đổi
luôn định mệnh. Chúng tôi trở thành những thiên thần hiện xuống bên viên
đội gi{ đang khóc như mưa giông.
- Này! Các anh uống đi chứ! Mời rượu các anh, lòng tôi vui quá. Các
anh nghĩ xem! Lần đại úy tới, tôi chẳng có một giọt rượu n{o để mời ngài
xơi cả đó.
Tôi ghi chuyện này vào trong một cuốn s|ch nhưng l{ chuyện thực,
chớ không phải chuyện tiểu thuyết. Viên đội già bảo chúng tôi:
- Lần đó tôi không n}ng ly chạm cốc được… Tôi xấu hổ quá nên phải
xin đổi đi nơi kh|c.
Chạm cốc! Chạm mạnh một cốc với một người kia từ trên lưng con lạc
đ{ phóng xuống, nhễ nhại mồ hôi. Suốt sáu tháng tròn, sống là cốt đón chờ
c|i phút đó. Từ một th|ng nay, người ta lau chùi võ khí, quét dọn sạch sẽ lũy
hào. Và từ mấy hôm nay, bén mùi đ|nh hơi, biết là ngày vui sắp lại, người ta
leo lên tầng cao để trông chừng về cái phía chân trời, liên miên nhìn không
biết mỏi, ngóng chờ xuất hiện c|i đ|m bụi tung lên và cuộn tròn trong đó
đội qu}n di động từ Atar phi về…
Nhưng rượu hết rồi. Hết rượu rồi thì người ta không thể đón mừng
ngày hội. Người ta không chạm cốc. Người ta thấy mình mất hết thanh danh.
Đời m{ đến thế thời thôi. Giờ mong đợi cũng l{ giờ bỏ đi…
- Tôi nóng lòng chờ đại úy trở lại: Tôi nóng lòng chờ…
- Ông ta hiện đang ở đ}u, thầy đội?
Viên đội đưa tay chỉ vào trong cát rộng:
- Làm sao mà biết. Đại úy thì ở khắp nơi.
Đêm hôm ấy cũng l{ đêm thật, c|i đêm chúng tôi nằm khoèo trên chóp
lũy m{ b{n chuyện ngàn sao. Không còn trông vời đ|m bụi nữa. Ngàn sao ở
đó, đầy đủ sa số hằng h{, như lúc l|i phi cơ, nhưng b}y giờ đứng im mà vằng
vặc.
Ngồi trên phi cơ những đêm trời đẹp qu|, người ta lơ đ~ng bỏ rơi tay
lái, và chiếc phi cơ nghiêng dần về phía tả. Tưởng nó vẫn ngay ngắn như
thường lệ bay đi, bỗng nhiên người ta chợt ngó thấy một khu làng khang
tịnh, khinh khiêu ở dưới c|nh phi cơ phía tay phải. Nhưng trong sa mạc
không có khu làng. Ắt phải là khu vực của đo{n t{u đ|nh c| dặm khơi. Dặm
khơi n{o? V}y bọc Sahara, không có khu vực đo{n t{u dặm khơi ch{i c|. Vậy
thì? Vậy thì người ta đ{nh mỉm cười chuyện nhầm lẫn lộn xộn. Và dịu dàng,
xin sửa lại đường bay. V{ khu l{ng ban sơ lại trở về đúng nguyên vị trí.
Hồng nhan được trả lại gốc phần. Ta giao lại cho nền trời, chòm sao ta vừa
để cho rụng xuống.
Khu l{ng ư? V}ng. Khu l{ng thanh tịnh ạ. Khu làng thanh tú, xóm tịnh
ng{n sao. Nhưng trên chóp đồn nhỏ, trông lên chỉ còn như một sa mạc giá băng như tê cóng, như những đợt sóng cát im lìm. Những chòm sao gắn chặt
ở vòm trời. Viên đội già bảo:
- Này nhé! Tôi thạo phương hướng lắm. Nhắm thẳng theo vì sao này,
là thẳng tiến tới Tunis.
- Thầy quê ở Tunis chắc?
- Không. Cô em họ tôi ở đấy.
Im lặng kéo dài rất l}u. Nhưng viên đội không dám giấu chúng tôi một
điều gì cả:
- Rồi thế n{o cũng có ng{y tôi đi Tunis.
V}ng, đi Tunis bằng một con đường khác, chứ không phải nhắm thẳng
lên vì sao kia. Trừ phi, trong một cuộc h{nh trình n{o đó, một nguồn giếng
cạn không bất ngờ xô ông vào cõi mộng bấn loạn của tình điên. Tới lúc đó,
thì cả ngôi sao, và cô em họ, và phố Tunis sẽ hòa chung một trận. Tới khi đó
là khởi đầu cuộc viễn du lai láng thần v{ tiên, m{ người phàm vốn tưởng là
đau xót.
- Đ~ có lần tôi xin Đại úy cho phép về Tunis thăm người em gái họ.
Nhưng đại úy trả lời rằng…
- Trả lời rằng sao?
- Trả lời rằng: “Trong thế gian này chứa đầy xiết bao là cô em họ g|i”.
Rồi vì muốn chỉ vẽ lối gần, đại úy cho tôi đi Dakar.
- Cô ấy đẹp chứ, cô em họ thầy?
- Cô em họ ở Tunis? Quyết nhiên l{ đẹp. Cô ta tóc v{ng lơ.
- Cô ở Dakar? Hẳn là chịu sút?
Thầy đội ơi, tôi chỉ muốn ôm hôn thầy vì câu trả lời nửa sầu nửa hận:
- Cô ấy vốn người da đen… chiêm bao bờ cỏ…
Sa mạc của thầy rồi? Phải thế ru? Hay chính một Thần Linh thiên thu
về gọi? Hay cũng là nguồn dịu ngọt trong suối tóc hồng v{ng, v{ đìu hiu th}n
thể của cô em họ xa vời, dặm nghìn nước thẳm ở cách thầy năm nghìn c}y
số sa mạc bên kia?
Còn sa mạc chúng tôi? Là những gì nảy nở ở trong tôi. Những gì chúng
tôi hiểu biết về chính chúng tôi. Trong đêm ấy bọn chúng tôi cũng tha thiết
yêu thầm một người em gái họ và một vị quan ba.
3
Ở sát bờ những vùng phiến loạn, Port-Étienne không phải là một
thành phố. Một c|i lũy, một căn nh{ chứa phi cơ, v{ một cái trạm bằng ván
gỗ l{m nơi tạm trú cho bọn phi công chúng tôi. Sa mạc ở xung quanh trùng
trùng điệp điệp, vì vậy cho nên sa mạc dù Port-Étienne không dồi dào quân
khí, nó vẫn là một địa điểm rất khó tranh cường mà thủ thắng. Muốn tấn
công nó, phải vượt qua một dãi cát và lửa bát ngát, cho nên bọn loạn quân
tiến vào tới nơi thì đ~ kiệt lực, sau khi đ~ cạn sạch hết bao nhiêu lương thực
v{ nước súc trữ. Tuy nhiên từ c|c vùng phương Bắc lại, thường vẫn có một
đội loạn quân tiến về phía Port-Étienne. Mỗi lần vị đại úy toàn quyền tới
thăm chúng tôi v{ uống một tuần trà, ông mở địa đồ ra và vạch cho chúng
tôi nhìn xem con đường tiến tới của bọn loạn qu}n, như kể cho chúng tôi
nghe chuyện một công chúa n{o xưa trong cổ tích. Nhưng đ|m loạn quân
không bao giờ tới đích, họ bị c|t ăn mòn hút cạn như hút nước một dòng
sông, và chúng tôi gọi họ là loạn quân ma. Mớ đạn nhà cầm quyền cho
chúng tôi mỗi đêm, vẫn nằm yên ổn ở dưới ch}n giường, trong thùng chứa.
Và chúng tôi chẳng có địch thủ n{o để đấu chọi, ngoài sự chiến đấu với vắng
vẻ, chúng tôi chẳng có gì che chở ngoài sự che chở bảo đảm nhất, là nỗi cùng
khốn của mình. Và Lucas, chỉ huy sân bay, chỉ biết có ng{y đêm liên miên
vặn máy hát, và ở xa vắng qu| đối với cuộc đời, máy hát phát những âm
thanh nghe chừng như ngôn ngữ lạ, và gây một mối sầu vô cớ, sao lại giống
lạ lùng mối u sầu những khi kh|t nước dưới trời xanh.
Tối hôm đó, chúng tôi dùng bữa trong lũy, vị đại úy toàn quyền mời
chúng tôi thưởng ngoạn thửa vườn ông. Ông đ~ nhận được từ Pháp gửi
sang, ba thùng đất đ~ vượt bốn nghìn cây số để tới đ}y. Trên đ|m đất ấy bây giờ đ~ mọc ba chiếc l| xanh, chúng tôi đưa ngón tay m}n mê như m}n mê
những hòn ngọc. Nói tới đó, vị đại úy bảo: “Thửa vườn của tôi đó”. V{ mỗi
khi gió cát thổi qua, thổi cháy hết vạn vật, thì người ta mang thửa vườn đi
giấu kỹ ở dưới hầm.
Chúng tôi ở c|ch ph|o đ{i một cây số, lúc ăn xong, chúng tôi quay trở
về, đi dưới bóng trăng. Dưới bóng trăng, c|t điểm màu hồng. Chúng tôi cảm
thấy mình x|c xơ, nhưng c|t điểm màu hồng. Nhưng một tiếng gọi của lính
canh bỗng xô bi thống vào giữa cõi miền. Đó l{ to{n b~i Sahara đang rùng
mình nhìn thấy bóng chúng tôi, và lên tiếng hỏi, vì một đ|m loạn qu}n cũng
đương tiến về.
Trong tiếng kêu của người lính canh, tất cả mọi âm thanh của sa mạc
vang dội về một lúc. Sa mạc không còn là một ngôi nhà vắng: một đoàn
người Maure truyền từ khí cho đêm trường.
Chúng tôi có thể tưởng mình được yên lành. Thế nhưng! Bệnh tật, tai
nạn, loạn qu}n, bao nhiêu hăm dọa đương lò dò bước tới! Con người là cái
đích trên mặt đất để cho những cung tên ẩn kín bắn tới. V{ người lính canh
da đen vừa nhắc lại điều đó, như một tiên tri.
Chúng tôi đ|p: “Chúng tôi l{ người Ph|p!” v{ bước qua trước các vị
thiên thần đen. V{ hô hấp dễ chịu hơn. Mối hăm dọa kia đem lại cho chúng
tôi một niềm cao nhã. Ô còn xa lắm lắm, chẳng cấp bách gì, còn bị ngăn chặn
hòa hoãn bởi c|t b~i mênh mông: nhưng thế giới không còn như trước. Sa
mạc đ~ trở thành lộng lẫy xiết bao. Một đội loạn quân cất bước đi đ}u đó,
dẫu không bao giờ tới được tại đ}y, đ~ đem về cho sa mạc một thần tính
thiêng liêng.
Bây giờ đ~ mười một giờ đêm. Lucas từ máy vô tuyến đến cho tôi hay
l{ phi cơ Dakar sẽ tới lúc nửa đêm. Trên t{u vô sự. Mười hai giờ mười, thư
từ trên t{u đó sẽ chuyển sang xong xuôi tại tàu tôi, và tôi sẽ cất cánh về
phương Bắc. Trước tấm gương sứt mẻ, tôi chăm chú cạo râu. Thỉnh thoảng
giữ nguyên khăn cho{ng cổ, tôi bước lại bên cửa nhìn ra mặt cát bên ngoài.
Trời tốt, nhưng gió đ~ ngừng thổi. Tôi trở lại bên tấm gương. Tôi suy nghĩ
mông lung. Một thứ gió thổi, thổi cho hàng tháng, nếu bỗng dưng m{ ngừng,
ắt phải làm rộn cả thinh không. Bây giờ, tôi đeo v{o người: các thứ đèn cấp
cứu đeo v{o nịt lưng, m|y đo độ cao, bút chì. Tôi đi tìm Néri, anh bạn vô tuyến tối nay trên t{u. Anh cũng đương cạo râu. Tôi hỏi: “Không sao?”. Lúc
này, vâng, mọi sự không sao. Công việc soạn sửa này là công việc ít khó
nhọc nhất của chuyến bay. Nhưng tôi nghe một tiếng sè sè, một con chuồn
chuồn sa mạnh vào chiếc đèn bấm ở nịt lưng. Không hiểu sao, nó làm tôi
nao dạ.
Tôi ra ngoài nhìn: cảnh vật trong suốt. Một mô đất bọc sân bay nổi bật
trên nền trời, như giữa ban ngày vậy. Trên sa mạc, bầu không khí vắng vẻ
yên tịnh bao trùm. Nhưng khi đó, hai con chuồn chuồn và một con bướm lục
chạm đầu v{o đèn bấm của tôi. Một lần nữa, tôi cảm thấy nao lòng, một nỗi
gì khó hiểu, có lẽ là niềm vui, có lẽ là lo sợ, từ đ|y thẳm trỗi dậy, còn rất mơ
hồ, nhưng khe khẽ báo hiệu. Kẻ nào từ xa xăm đang nói gì với tôi. Phải là
linh tính chăng? Tôi lại bước ra: gió đ~ ngừng hẳn. Trời vẫn mát dịu. Nhưng
tôi đ~ đón nhận lời khuyến c|o. Tôi đo|n chừng, tôi tưởng đo|n ra điều tôi
chờ đợi: đúng chăng? Cả bầu trời, cả mặt c|t cũng không cho tôi dấu hiệu gì,
nhưng hai con chuồn chuồn đ~ lên lời, và một con bướm lục.
Tôi trèo lên đụn cát, và ngồi hướng mắt về phía Đông. Nếu tôi đo|n
không lầm, thì “c|i đó” chẳng còn chậm mấy đ}u. Hai con chuồn chuồn kia
tới đ}y tìm gì? Từ những cụm cây xanh giữa sa mạc, vượt h{ng trăm c}y số,
tới đ}y tìm gì?
Những mảnh nhỏ dạt dào bờ biển, báo cho biết rằng bão tố đương nổi
cơn cuồng nộ, ngo{i khơi. Thì mấy con côn trùng n{y cũng nói cho tôi biết
rằng một trận b~o c|t đương lên đường; một trận bão cát dậy từ phương
Đông, đ~ xô đuổi ra khỏi những b~i kè bao nhiêu đời bướm lục. Bọt bèo của
giông b~o đ~ bay tới chạm vào tôi. Và trầm trọng vô cùng vì đó l{ một bằng
chứng, và trầm trọng vô cùng vì đó l{ hăm dọa lớn lao, và trầm trọng vô
cùng vì nó chứa trong mình một cơn b~o tố, gió Đông đang dậy đ}y rồi. Cơn
gió xa xôi, tôi ở đ}y đón chút hơi thở nhẹ. Sóng động nghìn trùng, tôi ở đ}y
l{ điểm tận đợt sóng tr{o qua. Hai mươi thước phía sau tôi, không một sợi
tơ n{o run rẩy. Hơi nồng trận gió quyện lấy tôi một lần, một lần thôi, thoáng
qua như chừng đ~ tắt. Nhưng tôi biết rằng những phút giây sắp tới, Sahara
sẽ dậy cơn lần nữa, và thở đợt thứ hai. Không tới ba phút nữa thì con diều
gió trên nóc nhà chứa sẽ động mình phe phẩy. V{ mười phút nữa, cát bãi sẽ
tung trời. Chốc nữa tôi sẽ cất cánh trong biển lửa này, lửa sa mạc sắp trở về
thiêu nướng.
Nhưng đó không phải l{ điều kích động tôi. Điều xui tôi hứng thú tràn
trào trong niềm vui man dại, ấy là đ~ thấu hiểu một ngôn ngữ bí mật qua
một vài tiếng ngập ngừng, ấy l{ đ~ đ|nh hơi theo đuổi được một dấu vết,
không kh|c chi con người thái cổ chỉ nghe qua những tiếng động âm thầm,
cũng đo|n được cả tương lai đương b|o hiệu, ấy l{ tôi đ~ đọc được cơn
thịnh nộ của trời đất trong đôi c|nh đập của một con chuồn chuồn.
4
Ở đó, chúng tôi đ~ từng liên lạc với những người Maure nghịch loạn.
Từ những miền sâu cấm địa, họ mò ra những miền chúng tôi đ~ vượt qua
bằng phi cơ; họ lần mò men tới tận lũy Juby hoặc Cisneros để mua bánh mì,
đường hoặc chè uống, rồi quay trở về chìm trong bí mật của mình. Những
lúc gặp họ, chúng tôi có thử gắng cảm hóa một v{i người.
Nếu là thủ lĩnh có ảnh hưởng quan hệ, đôi lúc chúng tôi chở họ lên phi
cơ để chỉ cho họ xem cảnh tượng thế giới. Cũng l{ để đ|nh chìm lòng kiêu
ngạo của họ. Bởi vì chúng tôi biết sở dĩ họ giết hại tù nhân, ấy không phải vì
căm hờn, mà do lòng khinh bỉ. Gặp chúng tôi ở quanh quẩn đồn lũy, họ cũng
chả thèm chửi rủa. Họ chỉ quay mặt đi, v{ khạc nhổ. Lòng kiêu hãnh đó
chính do ảo tưởng mình mạnh m{ ra. Bao nhiêu người trong bọn họ, từng tổ
chức được những đội qu}n ba trăm tay súng, đ~ nhiều lần bảo chúng tôi:
“Nước Pháp các anh tốt phúc lắm vì ở xa chúng tôi hơn một trăm ng{y
đường”.
Chúng tôi chở họ đi ngoạn cảnh, và thế là lần hồi đ~ có ba người sang
viếng nước Pháp xa xôi. Họ thuộc dòng giống những kẻ một lần theo tôi
sang Sénégal, đ~ khóc ầm như mưa lúc được nhìn cây cối lần đầu tiên trong
đời.
Lúc gặp lại họ trong những căn lều vải, họ ca tụng mãi những rạp ca vũ
với những đ{n b{ khỏa thân nhảy múa giữa hoa tươi. Đó l{ những người
chưa bao giờ từng nhìn thấy một gốc cây, một cái lá cỏ, một mạch nước
giếng, một đóa hồng. Họ chỉ biết, qua kinh thánh Coran, là có những khu
vườn và khe suối chảy, đó l{ tên họ gọi cảnh Thiên Đường. Thiên Đường ấy
và những nàng Tiên diễm lệ trong đó, sẽ mở cửa đón mời người ta, người ta
sẽ nhận phần thưởng đó bằng cái chết xót xa trên cát quạnh, do ph|t đạn
của người ngoại đạo, sau ba mươi năm gian khổ khốn cùng. Nhưng Thượng Đế phỉnh phờ bọn họ, vì Thượng Đế cho người Ph|p hưởng mọi hoan lạc kia
mà chẳng đòi hỏi gì hết; không cần phải trả bằng đói kh|t, không cần phải
trả chủ bằng cái chết điêu linh. Thế nên bây giờ họ mơ tưởng, họ mơ tưởng
mãi, những tù trưởng gi{… Thế nên chi bây giờ nhìn ra bốn xung quanh căn
lều cho tới m~n đời mình, dãi Sahara chỉ hứa hẹn những lạc thú quá mong
manh, họ ngậm ngùi thả cái linh hồn buông ra câu tâm sự.
- N{y n{y… Thượng Đế của người Ph|p… Thượng Đế của người Pháp
rộng rãi với người Ph|p hơn l{ Thượng Đế của người Maure đối với người
Maure!
Vài tuần trước đấy, họ đ~ được đưa đi viếng vùng Savoie. Người dẫn
đường đưa họ tới trước một th|c nước mạnh, đổ xuống xoáy tít ì ầm.
Người ta bảo họ:
- Các ông uống thử đi.
Và thấy l{ nước ngọt. Nước! Tại quê hương họ, muốn tìm tới một cái
giếng gần nhất, phải tốn bao nhiêu ng{y đường. Và nếu tìm ra, còn phải mất
bao nhiêu thì giờ đ{o cho xong lớp cát lấp ngang miệng giếng, mới bắt gặp
mớ bùn lầy pha lẫn nước tiểu của lạc đ{! Nước! Ở Cap Juby, ở Cisneros, ở
Port-Étienne, bọn trẻ con người Maure không xin tiền bạc, chúng chìa một
hộp thiếc ra để xin chút nước:
- Cho xin chút nước, cho xin…
- Nếu mày ngoan.
Nước quý hơn v{ng, mỗi giọt tí hon cũng đủ làm nảy lên tia lóe xanh
lục của ngọn cỏ giữa bãi cát khô khan. Mỗi khi có trận mưa đ}u đó, người ta
đổ xô nhau tìm tới. Sa mạc rộn ràng. Từng bộ lạc kéo nhau đi tìm ngọn cỏ sẽ
mọc nơi n{o, c|ch chừng ba trăm c}y số xa kia… Thứ nước đó, hiếm hoi là
thế, hẹp lượng vô cùng, từ mười năm nay chưa rơi một giọt xuống Port-
Étienne, thứ nước đó bỗng ì ầm tuôn trào tại xứ xa kia, nghe như chừng bao
nhiêu kho nước quý của trần gian bỗng tuôn ra từ một c|i thùng nước vỡ.
- Ta đi xem nơi kh|c! Người dẫn đường bảo.
Nhưng họ không nhúc nhích.
- Cho chúng tôi nán lại chút nữa…
Họ yên lặng, đăm chiêu, không lời, không tiếng, trước cảnh bí mật
trang nghiêm đang phơi b{y cuồn cuộn. Cái thứ của lạ này, từ trong lòng núi
ồ ạt đổ ra, đó l{ sự sống, đó l{ m|u huyết con người. Chảy một giây thôi,
cũng đủ cứu sống h{ng bao nhiêu đo{n người đi trong sa mạc, kh|t nước
như điên cuồng, liên miên đi m~i, lao mình v{o giữa vô tận của những hồ
nước muối và những chập chờn ảo tưởng mà thôi. Tại nơi đ}y, Thượng Đế
hiển hiện: không lẽ gì ta đ{nh quay lưng đi cho được. Thượng Đế mở rộng
các bờ đập của ngài và tỏ rõ quyền uy cho thiên hạ thấy: ba người Maure đờ
đẫn đứng im lìm.
- Các ông còn muốn xem chi nữa? Đi thôi…
- Phải chờ đ~.
- Chờ gì?
- Chờ xong.
Họ muốn chờ c|i lúc Thượng Đế mỏi, không còn hoang phí nữa.
Thượng Đế vốn người hà tiện, Ngài mau ân hận lắm.
- Nhưng th|c nước này chảy tự nghìn năm!...
Thế nên tối nay họ không muốn bàn bạc nhiều về th|c nước. Vì có
những phép lạ, mình nên tránh nói tới l{ hơn. Cũng nên tr|nh suy nghĩ tới
quá nhiều, nếu suy nghĩ nhiều thì chẳng còn biết hiểu ra cái gì làm sao nữa
nữa. Suy nghĩ nhiều, e phải ho{i nghi Thượng Đế mất thôi…
- Thượng Đế của người Pháp, anh thấy đó…
Nhưng tôi hiểu họ vô cùng, những bạn man di kia. Họ ngồi đấy, bàng
hoàng trong niềm tin dao động, họ bối rối ngổn ngang, và từ đây nao núng sắp chịu quy phục rồi. Họ ước mơ được qu}n lương bộ Pháp tiếp tế lúa
mạch cho, v{ được qu}n đội Pháp ở Sahara bảo đảm an ninh cho. Và một
phen chịu quy thuận rồi, thế nào họ cũng sẽ được hưởng nhiều quyền lợi
vật chất.
Nhưng cả ba người đều thuộc dòng dõi El Mammoun, tù trưởng bọn
Trarza. (Tôi e mình nhầm lẫn tên ông).
Tôi có biết ông này thủa ông còn thần phục chúng ta. Ông được đặc
biệt trọng đ~i vì những công trạng lập nên, ông trở nên gi{u có vì được các
vị thống đốc n}ng đỡ, các bộ lạc kính nể ông, những của cải thế gian dường
như ông không thiếu một thứ nào cả. Nhưng một đêm kia, không ai ngờ
được, không một dấu hiệu gì b|o trước, bỗng nhiên ông t{n s|t c|c sĩ quan
cùng đi với ông vào sa mạc, cướp hết lạc đ{, súng ống, rồi chạy về tái hội với
những bộ lạc chưa quy h{ng.
Người ta gọi những sự nổi loạn thình lình như vậy là phản trắc –
những cuộc đ{o vong vừa oanh liệt vừa tuyệt vọng của một người tù trưởng
từ nay chịu lưu đ{y trong sa mạc; người ta gọi là phản trắc, chút vinh quang
ngắn ngủi kia, nó sắp chìm tắt mất rồi như một đốm lửa tàn, lúc chạm phải
đội qu}n di động từ Atar về. V{ người ta ngạc nhiên trước những h{nh động
điên rồ nọ.
Tuy nhiên câu chuyện của El Mammoun cũng l{ c}u chuyện của nhiều
người Ả rập khác. Mỗi ngày mỗi già thêm. Và khi trở về gi{, người ta suy
gẫm. Rồi một đêm u buồn, chợt thấy mình đ~ phản bội chúa Hồi giáo, chợt
thấy mình đ~ l{m chuyện đê hèn, đ~ l{m hoen ố bàn tay mình trong bàn tay
người Thiên chúa gi|o, lúc đưa tay kí kết bản đính ước một cuộc đổi trao,
trong đó mình chịu thiệt thòi toàn diện.
Và gẫm ra cho kỹ, lúa mì v{ hòa bình đối với ông n{o có nghĩa lý gì…
Chiến sĩ sa cơ biến thành mục phu lây lất, chợt não nùng hồi tưởng lại và
nhớ ra xưa kia đ~ từng sống trong một dải Sahara bát ngát, mà mỗi một nếp
cát mỗi chứa chan những hăm dọa ẩn dấu trong mình, mỗi một đồn quân
đóng trại trong đêm s}u mỗi rình rập quân nhạc, lẩn khuất những chòi canh
với lính gác tuần phòng, nơi chốn của những tin đi, tin lại, tin về cấp báo
những điều động của địch qu}n, nơi chốn của những quả tim nhảy phập
phồng chung nhịp, quanh những ngọn lửa hồng đỏ rạng ban đêm. Đó l{ c|i hương vị trùng khơi biển rộng, l{m sao ai quên được, nếu một lần đ~ có
nếm qua.
Chợt ngó lại bây giờ tấm th}n lơ l|o lạc lo{i, bước quẩn quanh trong
một vùng yên định không còn một chút uy phong. Chính bây giờ, chỉ bây giờ
thôi, dải Sahara mới thật sự là sa mạc.
Nhưng sĩ quan m{ ông sẽ giết, có lẽ ông vẫn tôn sùng. Nhưng tình
thương Allah trên hết.
- Chúc ông ngon giấc El Mammoun.
- Thượng Đế phù hộ cho ngài.
Những sĩ quan cuộn tròn trong chăn nệm, duỗi d{i th}n trên c|t như
một chiếc bè, ngửa mặt lên trời sao. Ngàn sao chầm chậm quay tròn, một
vòm trời đương điểm giờ trên đó… Đ}y vừng nguyệt chênh vênh trên bãi
c|t, được dìu về hư không do Ch}n Như dẫn dắt. Những người Thiên Chúa
giáo sắp ngủ say rồi. Vài phút nữa thôi, trên vòm kia chỉ còn lại ngàn sao lấp
l|nh. Thì lúc đó, muốn cho các bộ lạc suy đồi được thiết lập trở lại trong
vòng lộng lẫy ban sơ; thì lúc đó, muốn cho những cuộc chạy thi gan rượt
đuổi cùng một lúc dấy lên cho tưng bừng cát bãi, thôi chỉ cần một chút xíu
đưa tay, thôi chỉ cần cái tiếng kêu yếu ớt của những người Thiên chúa giáo
bị bóp nghẹt hơi thở, bị nhận chìm hồn phách trong giấc ngủ của họ mê
man… Chỉ vài giây nữa thôi, và từ sự vụ bất khả vãn hồi kia, một vũ trụ tân
kỳ sẽ xuất hiện.
Và từ đó, những sỹ quan lộng lẫy ngủ ngon kia bị sát hại
5
Hôm nay tại Juby, hai anh em Kemal và Mouyane mời tôi một tuần trà
trong căn lều của họ. Mouyane lặng lẽ nhìn tôi; tấm mạng xanh kéo trùm kín
miệng, Mouyane giữ một th|i độ dè dặt man di. Chỉ Kemal ân cần tiếp
chuyện, chén tác chén thù:
- Lều vải, lạc đ{, cả vợ tôi và các nữ tỳ của tôi, đều là của ông cả đấy.
Mouyane mắt vẫn đăm đăm nhìn tôi, nghiêng mình về phía anh hắn,
ghé môi thì thầm vài tiếng, rồi nín lặng.
- Anh ấy nói gì thế?
- Hắn bảo: “Bonafous đ~ cướp mất một nghìn con lạc đ{ của bọn
R’Gueibat”.
Đại úy Bonafous, sĩ quan lạc đ{ binh trong đội qu}n đóng tại Atar, tôi
không quen biết ông ấy. Nhưng được biết tiếng tăm lỗi lạc của ông chấn
động trong đ|m người Maure. Người Maure nói về ông với một niềm phẫn
nộ, nhưng lại xem ông như một loại thần linh. Sự hiện diện của ông làm cho
cát sa mạc trở th{nh “có hạng”. Hôm nay ông lại vừa xuất hiện lần nữa,
chẳng ai rõ bằng cách nào, mà lại đ|nh tập hậu bọn loạn qu}n đang tiến về
phía Nam, v{ cướp mất h{ng trăm con lạc đ{ của họ, buộc họ phải quay lưng
chống trả, hầu có giải cứu những kho tàng từng được phòng giữ rất nghiêm,
tưởng không lọt v{o tay ai được. Và bây giờ, khi đ~ giải cứu Atar bằng cách
đột ngột xuất hiện của thiên thần thượng đẳng, khi đ~ đóng yên qu}n trên
một gò đ| vôi cao rộng, ông ngang nhiên đứng lầm lì trên đó, như khiêu
khích thiên hạ bốn bề có giỏi thì tới ăn thua chơi, v{ h{o quang ông chiếu
tỏa tới độ nào mà các bộ lạc đua nhau kéo tới rùng rùng chịu chơi trước
ngọn đoản kiếm của ông.
Mouyane nhìn tôi khắc nghiệt hơn v{ nói nữa.
- Anh ấy nói gì?
Hắn bảo: “Chúng tôi s|ng mai sẽ đi đ|nh Bonafous. Ba trăm c}y
súng”…
Tôi đ~ đo|n chừng ắt phải có chuyện chi đ}y. Từ ba hôm nay, những
lạc đ{ được dắt tới giếng, những bàn tán gần xa, dằng dai chuyện vãn,
những phấn khích nhiệt tình… Như sửa soạn sắp đặt lèo lái cho một chiếc
thuyền vô hình n{o đương rục rịch ra khơi. V{ gió biển đ~ lên, đ~ rì r{o bốn
ngả, cơn gió nồng sắp dìu dập thổi căng buồm xô thuyền rẽ sóng ra đi. Chính
bởi có Bonnafous mà mỗi bước tiến về Nam là mỗi bước lừng vang oanh
liệt. Và tôi không còn biết biện biệt thế n{o l{ yêu đương hay thù hận chất chứa trong những cuộc lên đường chinh phạt nhau kia.
Có một kẻ thù lộng lẫy dường ấy ở giữa trần gian để mà sát hại – còn
gì tráng lệ cho bằng. Nơi n{o y xuất hiện đột ngột, l{ nơi đó c|c bộ lạc gần
gũi vội vã tháo lều xếp gió, tập trung lạc đ{ phăng phăng chạy trốn, để tránh
cuộc đối diện không l{nh, nhưng những bộ lạc ở xa thì lại choáng váng ngất
ng}y như ngất ng}y trong cơn tình |i vậy. Người ta giũ |o lên đường, lìa bỏ
đời sống yên vui trong lều vải, từ khước lạc thú ôm ấp vợ, nồng da mịn lá, từ
bỏ giấc ngủ tê mê, vì người ta chợt thấy: không có gì ở trần gian đ|ng gi|
cho bằng cái việc: sau hai tháng trời liên miên đi m~i, đi kiệt sức về Nam,
chịu đói, chịu khát, chịu dừng ch}n thu hình lăn lóc chờ mong giữa gió cát
lên cơn, rồi bất thình lình một sớm tinh sương được chạm trán với đội quân
di động Atar, và tại đó, nếu Trời Phật giúp cho, sẽ lấy đầu tên Đại úy
Bonnafous một mẻ.
- Bonnafous mạnh tợn. Kemal thú thật với tôi.
Bây giờ tôi biết niềm riêng bí ẩn của họ rồi. Những g~ đ{n ông ao ước
đ{n b{, một kiều diễm phụ nữ, thôi thì liên miên mơ tưởng tới gót ngọc hờ
hững dạ du, rồi thuê hoa dệt bướm, canh trường thao thức trằn qua trở lại,
đau đớn xót xa, máu tim cháy bỏng từng cơn, nhịp theo gót ch}n đi hờ
hững, và hỡi ôi! gót về hờ hững dội m~i v{o cơn mộng mà tiếp tục đi m~i gót
dạ du… Thì theo lối đó, bước chân xa xôi của Bonnafous cũng đang d{y vò
tâm linh nọ. Đi bọc hậu những toán kiêu binh tới tấn công mình, cái vị chỉ
huy theo Thiên chúa gi|o kia, ăn mặc theo lối người Maure cầm đầu hai
trăm tên cướp người Maure, đ~ v{o s}u trong nội địa của loạn quân, nơi m{
tên thuộc hạ hạng tồi nhất của ông cũng rất có thể động cơn dấy loạn, trút
bỏ nghiệp tôi đòi, m{ không tội lỗi gì cả, vì đ~ tho|t mọi ràng buộc của luật
tắc người Ph|p, nơi m{ bọn bộ hạ rất có thể lén cắm v{o lưng ông một nhát
dao, hy sinh ông để tế Thần Linh của mình trước bàn thờ bằng đ| v{ng ở
chính nơi đó, chỉ riêng uy phong của ông là kiềm chế họ, và ngay cả nhược
điểm của ông của xui họ kinh ho{ng. V{ đêm nay, đi giữa giấc ngủ bọn họ
với những ngáy khò, ông vẫn hừng hờ bước qua bước lại, và tiếng chân ông
vang dội vào tới tận giữa lòng sa mạc hoang liêu.
Mouyane ngẫm nghĩ, trầm ngâm ở cuối căn lều, im lìm như một pho
tượng bằng đ| lục hoa cương. Chỉ hai con mắt là long lanh sòng sọc, v{ mũi
dao bạc không còn là một thứ đồ chơi. Anh đ~ thay đổi xiết bao, kể từ ngày gia nhập kiêu binh! Chưa bao giờ anh cảm thấy sự cao cả của mình như bữa
hôm nay, anh nhìn tôi như muốn ép giập tôi dưới làn nhãn quan chứa đầy
khinh bỉ; bởi vì anh sắp tìm tới Bonnafous để đọ tài, bình minh hôm sau anh
sẽ lên đường, thôi thúc bởi mối căm hờn mang đủ đầu những dấu hiệu yêu
thương.
Một lần nữa, anh ghé v{o tai người anh thì thầm, v{ đưa mắt ngó tôi.
- Anh ấy nói gì?
- Nó bảo nó sẽ bắn ông một phát, nếu gặp ông ở xa đồn lũy.
- Vì sao vậy?
- Nó bảo: “Ông có phi cơ, ông có vô tuyến, ông có Bonnafous, nhưng
ông không có ch}n lý”.
Mouyane im lìm trong mớ khăn xanh trùm phủ, không nhúc nhích
giữa những nếp gấp bất động như những lằn xếp trên xiêm |o tượng đ|,
Mouyane đ~ ph|n xét tội trạng tôi:
- Hắn bảo: “Ông ăn rau hau háu giống như dê c|i ăn rau, ông ăn thịt
heo ngốn ngấu như heo n|i ăn thịt heo. Đ{n b{ xứ ông không biết xấu hổ,
sẵn s{ng phơi c|i mặt mo ra”, hắn có gặp cái loại đ{n b{ đó. Hắn bảo: “Ông
không cầu nguyện bao giờ”. Hắn bảo: “Phi cơ của ông, vô tuyến của ông,
Bonnafous của ông, có giúp ông nên cái tích sự gì, nếu ông không có cái
ch}n lý?”
Và tôi phải chinh phục anh chàng Maure này, anh không bảo vệ tự do
anh, vì trong sa mạc bao giờ người ta cũng tự do, anh không bảo vệ những
của cải, những kho tàng hữu hình nào cả, bởi vì sa mạc nó trống không, anh
chỉ bảo vệ một sơn h{ bí ẩn. Trong cõi tịch liêu sóng c|t, Bonnafous đang
điều động đội qu}n mình như một tên hải tặc lịch duyệt, và nhờ g~ đó m{
chốn dừng ch}n đóng trại tại Cap Juby này bỗng dưng không còn l{ cõi cư
trú cho bọn chăn nuôi nh{n rỗi. Giông bão Bonnafous xô về, đè nặng một
bên hông, vì Bonnafous m{ người ta phải thu hẹp lều vải mỗi đêm hôm.
Vắng lặng cõi trời Nam, ôi n~o lòng l{m sao l{ cơn vắng lặng: vắng lặng
Bonnafous, do linh hồn Bonnafous thao túng! Và liệp hộ Mouyane, thiệp liệp giang hồ, đương im lìm lắng nghe Bonnafous dấn gót chân dội vào lòng gió.
Ngày sau Bonnafous sẽ trở về đất Pháp, thì quân thù của ông sẽ chẳng
lấy thế làm mừng. Họ sẽ khóc. Ông bỏ đi đ}u, ông đi rồi, thì sa mạc mất đi
một từ-cực hấp dẫn, cuộc tồn sinh kẻ ở lại sẽ mất đi một sắc uy phong. Họ
sẽ bảo tôi:
- Chớ bảo mần răng m{ Bonnafous lại bỏ m{ đi như rứa?
- Tôi đ}u có biết đ}u n{o…
Ông đ~ đem cuộc tử sinh của mình ra liều giữa trận tiền tử sinh của
họ, đằng đẵng bao năm. Đem luật tắc sinh tồn của họ làm luật tắc sinh tồn
cho mình. Ông đ~ nằm ngủ nơi đ}y, gối đầu mình trên đ| khô đất họ. Trong
cuộc triền miên đuổi bắt nhau dìu dặt, ông cũng như họ, đ~ từng biết đến
những đêm trường Kinh Thánh gồm toàn cát với gió với sao. Thế mà bỗng
dưng ông dứt |o ra đi, như bảo chúng tôi biết rằng từ bấy tới nay ông không
chơi một cuộc chơi cốt yếu. Ông ngất ngưởng rời b{n, vươn vai bỏ cuộc. Và
những người Maure ở lại u buồn, cô đơn trong cuộc chơi dang dở, mất lòng
tin ở một lẽ sống không còn đòi hỏi con người phải dấn thân tới kiệt tận
m|u xương mình. Nhưng họ vẫn muốn còn hoài vọng:
- Lão Bonnafous của ông, lão sẽ còn trở lại.
- Tôi đ}u có biết.
Lão sẽ còn trở lại, người Maure tin như thế. Những trò chơi của Âu
Châu làm sao mà làm vừa lòng l~o được. Những trò chơi của Âu Châu,
những cuộc đ|nh b{i l}y lất, những quan giai lần lần, những đ{n b{ vỏ hến…
không, không… những thứ đó không thể cầm chân lão ta mãi. Lão sẽ còn trở
lại đ}y, cuộc sống hiên ngang vùng vẫy mất đi sẽ còn ám ảnh l~o, nơi đ}y,
mà mỗi bước ch}n đi l{ mỗi khua động linh hồn, giục buồng tim nhảy, mỗi
bước ch}n đi trên c|t l{ mỗi bước chân về xứ sở yêu đương. L~o ta tưởng
nơi đ}y chỉ sống điệu lai rai phiêu bạt trăng gió vật vờ, l~o ta tưởng về lại xứ
kia mới là cõi bờ cốt yếu, nhưng l~o sẽ ngao ngán nhận thấy rằng những của
quý chân chính, riêng chốn này là chỗ đ~ cung cấp hết cho lão ta, riêng sa
mạc n{y l{ nơi l~o ta đ~ sở hữu những kho tàng vô giá: cát bãi oai hùng, trời
đêm hoang vắng, quê hương của gió, tổ quốc của ngàn sao. Và nếu Bonnafous sẽ trở lại một ngày nào, thì tin tức kia, ngay đêm đầu tiên, sẽ tràn
đi khắp nơi suốt vùng phiến loạn. Người Maure khắp nơi sẽ kháo với nhau
rằng lão ta hiện đường nằm ngủ ngon giữa hai trăm tên cướp thuộc hạ, ở
một nơi n{o đ}u đó trong b~i Sahara. L~o ta đương ngủ… Tức thời thiên hạ
sẽ khởi sự lặng thinh dắt lạc đ{ lại giếng. Thiên hạ sẽ soạn sửa lương thực.
Thiên hạ sẽ xem xét cẩn thận họng súng. Thôi thúc bởi cuồng nộ căm hờn
kia, hoặc thiết tha ân tình nọ.
6
- Hãy lén chở tôi lên một chiếc phi cơ đi Marrakech…
Hằng đêm tại Juby tên nô lệ người Maure kia vẫn nhắc nhở tôi lời
khẩn cầu nọ. Sau đó, khi đ~ cố hết sức mình để được sống, lão ngồi xuống
xếp bằng tròn và pha trà cho tôi. Thế là kể từ đó, l~o thanh thản được trong
một ng{y, vì theo l~o nghĩ: mình đ~ phó th|c mình cho vị thầy thuốc duy
nhất có thể chữa l{nh mình, mình đ~ khẩn cầu vị thần linh duy nhất có thể
giải cứu mình. Từ đó nghiêng th}n trên ấm nước, lão nghiền ngẫm lại
những hình ảnh đơn giản của đời mình, những đồng đất đen miền
Marrakech, những ngôi nhà hồng tươi, những của cải giản đơn m{ l~o đ~ bị
người ta tước đoạt mất.
Tôi im lặng, lão không lấy thế làm phiền, lão không oán hận tôi sao lại
trễ tr{ng không ban ngay đời sống cho g~; l~o nghĩ rằng tôi không phải một
người giống lão, mà ấy là một sức mạnh để thúc giục lên đường, để lịch sử
tiến tới, một c|i gì đó giống như một trận gió lành, sẽ thổi dậy một ngày,
hiền hòa đưa đẩy định mệnh của l~o đi xuôi thuận.
Nhưng tôi, một phi công trơn trụi, tạm thời vài tháng làm chỉ huy sân
bay tại Cap Juby, tất cả tài sản chỉ thu gọn trong một căn lều lơ l|o tựa lưng
v{o th{nh lũy T}y Ban Nha, với một cái thau, một bình nước mặn, một cái
giường quá hẹp bề dài, quá ngắn bề ngang, thì tôi lại không có chút ảo
tưởng nào về quyền hành của mình mấy tí:
- L~o Bark ơi, việc ấy, rồi sẽ bàn tới sau.
Một người nô lệ cùng mang tên Bark; vậy l~o cũng tên l{ Bark. Nhưng
mặc dù bị bắt đ~ bốn năm rồi, lão vẫn chưa đ{nh chấp thuận: lão nhớ rằng xưa kia mình đ~ từng là chúa.
- Hồi ở Marrakech lão làm chi?
Ở Marrakech, chắc vợ con lão bây giờ còn sống, l~o đ~ từng làm cái
nghề thật huy hoàng:
- Tôi chăm súc vật từng bầy, và tên tôi là Mohammed.
Các quan tổng trấn tại đó vẫn thường cho lính vời lão tới:
- Ta có một bầy bò muốn bán, Mohammed ạ, lão vào trong núi lùa
chúng ra đ}y.
Hoặc:
- Ta có một nghìn con cừu ở ngo{i c|nh đồng kia đó, l~o còn mạnh giò
thì đưa chúng lên đồi cao gặm cỏ.
Hoặc:
- Ta có một trăm con dê c|i. L~o h~y đi tìm hộ con dê đực hoa cà về mà
thả vào chuồng nọ cho ta.
Hoặc:
- Bầy cừu của ta hôm nay u buồn qu| đỗi. Như tuồng chúng nhung nhớ
non thẳm rừng sâu. Lão liệu lùa chúng lên dãy Nga My một chuyến. Luôn
tiện l~o cũng gặp dịp đổi gió một phen.
Bà Bark, tay cầm một nh|nh ô liêu như qu}n quyền vương trượng, uy
nghiêm lên đường, thung dung điều khiển đ{n súc vật, như một đấng anh
tài có toàn quyền tiện nghi bát tiểu, việc ngo{i đổng nhung… một mình đảm
đương trọng trách việc cai quản cả trăm họ cừu xinh, sao cho chỉnh tề hàng
ngũ, gò bớt bước ch}n con n{o đi nhanh quá trớn làm nhọc bạn đồng hành
phái yếu đương mang nặng và sắp đẻ đau, hoặc thôi thúc bước chân những
con nào biếng nh|c… L~o bước đi giữa trăm ng{n nhịp động của trăm ng{n
quả tim súc vật tòng phục tin yêu. Một mình l~o định đoạt hành trình: một mình lão biết sẽ hướng về “đất hứa” nơi n{o; một mình, l~o đo|n ra bước đi
trên dặm đường lúc đăm chiêu đọc hồng vàng tinh tú, thông trải ngọn
ngành một khoa học tế vi, đ}u có truyền thụ ra cho con cừu thiền quyên nào
được; một mình, lão quyết định lúc dừng chân, giờ nghỉ ngơi, khu giải khát,
thể theo niềm duyệt lịch của mình. V{ đêm về, một mình đứng nguy nga
giữa đ{n cừu yên ngủ, lão âu yếm nhìn, động lòng nh}n |i trước bao nỗi khờ
khạo yếu đuối thơ ng}y, l~o im lìm, lông len ngập tới đầu gối, lão biến thành
vị thầy thuốc thời đại bách khoa, tiên tri hiển th|nh, vương chúa uy quyền,
đương nguyện cầu cho trăm họ cừu ngủ ngon.
Một hôm, gặp bọn người Ả Rập tới bảo:
- Theo chúng ta đi tìm súc vật phương Nam.
Người ta dắt l~o đi thật lâu, và sau ba ngày, mò vào sâu trong một con
đường núi hẻm ở sát cánh vùng phiến loạn, người ta đơn sơ đưa b{n tay ra
nắm lấy vai l~o, đổi tên l~o ra Bark, v{ b|n đứng l~o đi.
Tôi cũng quen biết nhiều người nô lệ khác. Hằng ngày tôi tới uống trà
trong những căn lều. Chân trần, nằm duỗi dọc thân ra, trên một tấm thảm
bằng len thượng hạng, đó l{ món xa xỉ của người du mục lưu ly, nằm trên đó
vài giờ cũng gọi là thiết lập cõi nh{ cư lưu một buổi, nằm trên đó tôi lặng
nghe ngày trời chuyển dịch. Trong sa mạc, ta nhận ra cái dặt dìu trôi chảy
của thời gian. Dưới cơn thiêu nướng của mặt trời, người ta cũng nghe mình
đương bước tới chiều hôm, bước tới cõi gió xanh sẽ thổi, sẽ tắm gội hình hài
và gột rửa mồ hôi. Dưới cơn thiêu nướng của mặt trời, thú vật v{ người ta,
cùng rủ nhau một nhịp tiến về cái hồ giải khát lớn rộng đó của hóa công,
tiến về đó chắc chắn vững bền như tiến về cõi chết. V{ như vậy, sự nhàn rỗi
không bao giờ là nhàn rỗi uổng công. Nhàn rỗi là tỉ mỉ êm đềm bước đi bên
ng{y đẹp, và bất cứ ngày nào lại chả đẹp, như những con đường kiều diễm
đưa tới bối rối trùng dương.
Tôi quen biết họ, những người nô lệ ấy. Họ bước v{o căn lều lúc thấy
chủ mang từ trong hòm của cải ra nào lò, nào ấm, nào ly cốc… từ trong cái
hòm nặng nề chứa đầy những đồ vật lai rai một cách! Những ổ khóa vắng
chìa, những chậu hoa, m{ hoa n{o đ}u thấy bóng, những tấm gương ba xu,
những binh khí cũ kỹ, những thứ gì gì lạc lõng tới đ}y lửng lơ nhìn c|t, kể
thật cũng như dường những thứ của phá gia, chút oan gia bọt bèo thuyền đắm trôi dạt cập bờ.
Người nô lệ lặng yên cho củi khô c{nh héo v{o lò, đổ nước vào ấm,
phồng má thổi vào lửa nhún nhen, chịu chơi một c|ch! Đem sức voi hùm di
sơn dịch hải, để làm cái công việc của một g|i choai choai. Đem g}n cốt đại
b{ng lướt gió mà vin cành thùy liễu gợn tiểu khê. Chàng vẫn giữ cơn yên vui
tịch mịch. Ch{ng ta đ}m ra bị cuốn hút trong làn du khoái cuộc chơi: pha
tr{, chăm sóc lạc đ{, ăn cơm v{o trong miệng. Dưới cơn thiêu nướng của
mặt trời, cứ đều đặn bước đi về chiều tối; v{ dưới cơn băng gi| của ngàn sao
trơn trụi, cứ mơ m{ng ho{i vọng cái trận nướng của mặt trời thiêu. Hỡi
những xứ miền phương Bắc! C|c ngươi sướng vô ngần lắm đó, c|c ngươi
biết chăng ru. Trời của c|c người là trời vần xoay tiết điệu, với nhịp mùa
tuần tự kết liên mà tác thành cho ngày hè một hoang đường chiêm bao
tuyết bạch, mà tác tựu cho đêm t{n đông lạnh một rạng rỡ mộng trời xanh!
Mà tẻ sao là nhiệt đới! Nằm trong lò hấp ngột chẳng thay qua, đổi lại chi
nhiều. M{ sướng thay là vẫn dải Sahara này với ng{y đêm không ngớt, với
đêm ng{y cứ liên tục đơn sơ m{ đ|nh nhịp dập dìu cho hồn ai trở cơn lên
xuống, tự hoài vọng nọ tới ước mong kia.
Đôi phen người nô lệ da đen, ngồi khoanh ch}n tròn khoeo trước cửa,
phơi linh hồn phiểu diểu trong làn gió hây hẩy. Ho{ng hôn êm |i như ru.
Lặng nghe dễ khiến thân tù tội mê. Nặng sao vòng h~m tư bề. Làn xanh kỷ
niệm không về bãi hoang. Chỉ nghe hiu hắt đôi h{ng. Phút gi}y giờ cũ pha
c{n đòn đau. Kêu xin, n{i nỉ nơi n{o. B{n tay ai đẩy tôi vào chốn nay. Từ đó
tới nay? Kể từ những cú đấm túi bụi vào mình, quật mình nhào lăn v{o
trong đêm }m u hiện tại, kể từ giờ phút đó tới nay, anh chàng chìm thân
trong giấc ngủ dị thường, mê sảng mơn man như mù mắt, đ}u còn nhìn ra
hình bóng những sông dài chậm chảy xứ Sénégal, đ}u còn nhìn thấy màu
trắng xóa những phố thị Maroc phương Nam, mê sảng triền miên như tai ù,
tai điếc, đ}u còn nghe nữa những giọng nói quen thân. Anh bạn da đen, anh
không đau khổ khốn đốn, anh chỉ như tật nguyền. Một ngày lọt vào vòng tồn
sinh động hoạt của người du mục, kết chặt chẽ thân mình vào trong những
cuộc xê dịch lưu ly, suốt đời cột da xương mình v{o b{n ch}n vạch ngang, vẽ
dọc, xoay tròn của bọn người kia hoạch định trên mặt cát. Anh còn giữ được
chi nữa những liên lạc từ nay với quá khứ, với gia đình, với một cô vợ và
mấy đứa con, đối với anh giờ đây mọi thứ kia đ~ chết không khác chi những
người đ~ chết.
Có những kẻ l}u ng{y đ~ sống tình yêu lớn rộng, rồi chợt mất đi, bỗng
đôi lúc ch|n chường niềm cô đơn cao nh~. Họ lai rai ghé lại bên đời, kiếm
một tình yêu tầm thường, đem cọ vào làm hạnh phúc. Họ cảm thấy khoan
kho|i trong đầu h{ng, qu}n vương xin tho|i vị nhường ngôi, làm thân ty
tiện, man mác làm sao là cái phận phiêu bồng bèo bọt, cơn gió v{ng đưa đẩy
cái mặn m{ c|t lũy v{o trong vòng tĩnh mịch cỏ nội hoa hèn. Nô lệ hãnh kiêu
bằng giàu sang của chủ. Hồn thục nữ bốc hơi nồng bên lượng cả bao dong,
dẫu bao là bất thình lình thuận buồm thong dong về một Châu Thai buôn
bán.
- Này, này, uống đi, cho m{y đấy. Thỉnh thoảng chủ bảo tớ như thế.
Đó l{ c|i giờ chủ ân cần với tớ, nhân vì sự nhọc mệt đ~ qua cơn, nh}n
vì trận nóng nướng thiêu đ~ tan dịu, nhân vì tớ thầy cùng sát cánh bên nhau
bước vào cõi trời chiều mát gió. Và chủ ban cho tớ một ngụm trà trong tách
đẹp tay nâng. Và kẻ tội đồ đón lấy ly tr{ lưu ly từng giọt, lệ lưng tròng vì
thâm tạ tri ân trĩu nặng, sẽ quỳ xuống m{ hôn v{o đầu gối hai chân của chủ.
Kẻ nô lệ chẳng bao giờ bị đọa đầy trong xiềng xích. Cần chi thế chứ! Hắn
trung thành một cách! Hắn ngoan ngoãn cái cõi lòng hớn hở khước bỏ trong
thân phận mình một ông vua da đen mất ngôi là thế: hắn hài lòng vô hạn với
cái phận bây giờ là một tên nô lệ lờ lững vui sướng xiết bao.
Tuy nhiên một ng{y kia người ta sẽ phóng thích hắn. Ấy là lúc hắn đ~
quá già, sức mấy mà xứng áo xứng cơm, thôi thì thôi cũng chiều lòng, cho
mày vô hạn một vòng bước ra. Một chân trời bát ngát tự do! Suốt ba năm
ròng, hắn lần mò từ lều này qua lều nọ, luống cuống van xin được gửi thân
tôi đòi, mỗi ngày mỗi yếu thêm đi, cho đến cuối ngày thứ ba sức kiệt, lực
cùng, nhưng luôn luôn vẫn là ngoan ngoãn, hắn nằm duỗi dài trên mặt cát,
hai mắt mở to. Tôi có thấy những người như thế tại Juby, nằm chết trần
truồng. Người Maure đi bên cạnh trong giờ họ hấp hối, hấp hối kéo dài.
Người Maure chạm vào họ nhưng không t{n nhẫn chi, và bọn trẻ con người
Maure nô giỡn bên cạnh tấm thân tàn u ám, và mỗi bình minh chạy tới thăm
chơi, coi chừng có còn cựa quậy, nhưng không cười cợt kẻ tớ gi{. Đó l{
chuyện tự nhiên, lẽ thường. Không chi lạ. Cũng như bảo: “Anh đ~ l{m việc
giỏi, anh đ|ng được ngủ rồi, thôi thì hãy ngủ đi”. L~o vẫn nằm dài, cảm thấy
đói, c|i đói g}y cơn cho|ng v|ng, nhưng không cảm thấy nỗi bất công tàn ác
n{o đ{y đọa mình. Lão hòa thân dần dần vào với đất. Mặt trời thiêu đốt, cõi
đất đón v{o lòng. Ba mươi năm vất vả, rồi cái quyền được ngủ yên, cái quyền về với đất.
Người nô lệ đầu tiên gặp tôi, tôi không nghe than vãn gì: ấy bởi rằng
không có ai để tr|ch. Tôi đo|n nghe trong hồn gã chút niềm gì như chấp
thuận phiêu diêu, mơ hồ man m|c, đó nỗi lòng như của một sơn nh}n lạc
rừng, kiệt lực, nằm duỗi thân trên tuyết, cho phiêu bồng tuyết phủ, cho
mộng tưởng về vây. Cái xui tôi bứt rứt, không phải là sự đau khổ của y. Tôi
không tin điều đó. Nhưng trong c|i chết một con người, một vũ trụ xa lạ
chết theo, và tôi tự hỏi những hình ảnh n{o đ~ chìm theo th}n họ. Những
đồn điền, những cây lá nào của xứ Sénégal, những thành phố trắng vôi, bạc
vách nào của miền Nam Maroc đ~ lần hồi tắt ngấm trong lãng quên. Tôi
không biết, không thể nào biết được, trong khối hình h{i đen đủi nọ, có lẽ
nào chỉ tắt lịm là những khốn cùng khổ nhọc thôi sao; những tầm thường lo
lắng trà pha, súc vật lùa tới giếng… tôi không biết… chỉ một linh hồn nô lệ
ngủ thôi, hay ấy một con người, chợt hồi sinh trong triều dâng kỷ niệm, đ~
huy ho{ng vĩnh biệt cõi đời, trong viễn tượng nguy nga. Mảnh xương sọ
cứng, tôi thấy giống c|i rương cũ chứa những kho tàng. Kho tàng gì? Tôi
không rõ những gấm vóc nào sặc sỡ, những hình ảnh n{o tưng bừng yến
tiệc, những dấu tích nào quá cổ hủ giữa khung cảnh nơi n{y, qu| vô ích, qu|
hão huyền giữa sa mạc này, vẫn còn nguyên trong đó, tho|t khỏi vòng chìm
đắm điêu linh. Tôi không biết, không biết gì hết cả. C|i hòm rương vẫn còn
nằm tại đó, khóa kín, nặng nề. Tôi không biết cái phần nào của cuộc thế
đương t{n r~ trong con người suốt giấc ngủ khổng lồ của những ngày chung
cục đ~ t{n rụng trong mảnh tâm linh và thể xác nọ đương lần hồi biến thể
để trở th{nh đêm tối và rễ cây.
- Xưa tôi l{ kẻ mục tử lùa dắt dê cừu, xưa tên tôi l{ Mohammed…
Bark l{ người nô lệ da đen đầu tiên tôi gặp đ~ cưỡng kháng, không
chịu buông xuôi. Cái việc bị người Maure tước đoạt tự do, xâm phạm quyền
lợi, l{m cho l~o ho{n to{n trơn trụi trên mặt đất, việc đó chẳng hề gì. Có
những bão tố Thượng Đế gây ra, tàn phá trong một giờ bao nhiêu mùa
màng công khó của người ta. Nhưng người Maure còn g}y điêu linh cho l~o
một cách trầm trọng hơn nhiều: s}u xa hơn c|i việc xâm phạm quyền lợi, tự
do, của cải, người Maure đ~ l{m tổn thương tới chính c|i con người của lão,
người Maure hăm dọa lão ngay trong trung tâm nhân vật lão ta. Và Bark
quyết định không chịu đầu hàng, trong khi bao nhiêu nô lệ kh|c đ~ không
bận lòng thắc mắc, cứ để yên cho chết hẳn trong thân mình cái hình hài một g~ chăn cừu lao khổ quanh năm kiếm cơm nuôi sống.
Bark không nằm yên ổn trong vòng nô lệ như người ta nằm yên trong
một hạnh phúc tầm thường sau khi đ~ mỏi mòn chờ đợi. Lão không muốn
lấy những thi }n độ lượng của chủ nô lệ làm nên hạnh phúc yên vui của đời
nô lệ mình. Lão giữ nguyên cho gã Mohammed vắng biệt, c|i ngôi nh{ xưa
cũ m{ y từng đ~ ở, ngay trong lồng phổi mình. Cái ngôi nhà quạnh hiu vì
vắng chủ, nhưng không một kẻ n{o kh|c được phép bước vào. Bark giống
như một người đầy tớ canh gác một ngôi nhà, tới ngày bạc tóc, nằm giữa cỏ
cây vây bọc những lối đi nẻo về, giữa quạnh quẽ ngậm ngùi, đ{nh chết đi
trong niềm chung thủy.
L~o không nói: “Tôi l{ Mohammed ben Lhaoussin” m{ bảo: “Xưa kia
tôi tên l{ Mohammed” vì mơ m{ng tới một ng{y n{o đó, nh}n vật bị lãng
quên kia sẽ hồi sinh, và riêng với cuộc hồi sinh nọ, sẽ xua đuổi xa lìa dáng
dấp nô lệ ng{y nay. Đôi lần, giữa vắng lặng đêm tăm, bao nhiêu kỷ niệm
bỗng ùa về một lúc, dào dạt tr{n đầy như một điệu hát tuổi thơ.
Viên thông ngôn người Maure kể lại với chúng tôi rằng: “Nửa đêm,
giữa canh khuya, lão nhắc tới thành Marrakech rồi l~o khóc”. Ai tr|nh được
những ngậm ngùi hồi tưởng đó, lúc cô đơn! Con người cũ bỗng trở giấc ở
trong mình, không b|o trước cho hay. Con người cũ thức dậy, vươn vai,
duỗi dài tay chân trong tứ chi của lão, mò mẫm tìm cái vú con vợ nằm ở bên
hông, giữa sa mạc này không bao giờ có đ{n b{ bén mảng; Bark lắng nghe
tiếng suối chảy ở nơi n{y l{ chốn không bao giờ có suối trôi. Và Bark mắt
nhắm nghiền, tưởng mình ở một ngôi nhà trắng xóa, đêm đêm ngồi dưới
một ngôi sao quen thuộc, chính bây giờ đương ở chỗ thiên hạ cư trú trong
những căn lều vải len thô v{ đuổi theo hồn gió. Mang nặng trong lòng
những }n tình th}n |i đó, những niềm yêu dấu cũ c{ng đương bí mật rạt rào
lên tiếng như gần gũi đ}u đ}y, Bark tới tìm tôi, Bark muốn bảo với tôi rằng
l~o đ~ sẵn sàng, rằng những niềm thân ái của l~o cũng đ~ sẵn sàng, và lão
chỉ còn có đi trở về tới quê, l{ đem ra ph}n ph|t. Chỉ cần một dấu hiệu của
tôi l{ đủ. Rồi Bark mỉm cười, vẽ cho tôi c|i trước, hẳn l{ tôi chưa có nghĩ ra:
- Mai sẽ có t{u… Ông giấu tôi trong m|y bay đi Agdir…
- Tội nghiệp lão quá!
Vì chúng tôi đương sống trong vùng phiến loạn lộn xộn vô cùng, làm
sao giúp lão trốn cho êm? Người Maure ngày sau, sẽ rửa hận như thế nào,
có trời mà biết rõ. Cướp bóc và làm nhục nhau như thế, thì chỉ còn có cái
nước phải chịu tàn sát kinh hồn. Tôi đ~ cố tìm cách chuộc lão, nhờ sự môi
giới của anh em thợ máy ở đ}y, Laubergue, Marchal, Abgrall, nhưng người
Maure vốn ít khi gặp người da trắng đi tìm mua nô lệ da đen, họ nh}n cơ hội
hiếm hoi n{y m{ đòi hỏi qu| đ|ng.
- Đủ hai vạn quan tiền mới được.
- Anh đùa chơi đó chớ?
- Coi này, những cánh tay lực lưỡng của l~o ta, coi n{y… Coi n{y,
những bàn chân chữ b|t bước đi vạm vỡ, coi n{y…
V{ h{ng th|ng d{i d}y dưa thế đó.
Cuối cùng người Maure cũng bớt treo cái giá cao quá, tay với không
vừa, v{ cũng nhờ các bạn hữu ở Pháp giúp vào (nhân tôi có biên thư về kể
đầu đuôi sự vụ) và thế là cuối cùng tôi cũng đủ sức chuộc Bark ra.
Cuộc thương lượng cũng d{ng dinh rậm đ|m thật. Kéo dài tám ngày.
Tám ngày tròn ngồi vòng quanh trên cát cò kè thêm bớt, mười lăm người
Maure với tôi, hỏi lại, đ|p qua… Một người bạn của chủ nô lệ v{ cũng l{ bạn
của tôi, anh Zin Ould Rhattari tay tổ trong l{ng cướp, đ~ bí mật giúp tôi.
Theo lời dặn dò của tôi từ trước, anh ta nắn nót thật hay:
- B|n đi, b|n hắn đi cho rồi, không bán thì rồi cũng tới ngày mất toi cả
mà thôi. Hắn bịnh tật lắm. Con bịnh chưa lò đầu ra, nhưng nằm âm ỷ trong
tỳ vị hắn. Đột ngột một ngày, nó nổ bùng một c|i, l{ đi đời của cải nhà ma.
B|n đi, b|n hắn cho người Ph|p mang đi cho rồi.
Tôi cũng có hứa thưởng một tên cướp khác nữa, Raggi, nếu anh ta
giúp vào cho nên chuyện, và Raggi tìm cách lung lạc người chủ:
- B|n đi m{ lấy tiền về mua lạc đ{, mua súng, mua đạn, cho nhiều nữa
càng tốt chớ sao. Rồi mà rục rịch đem qu}n đ|nh Ph|p chơi một trận. Đuổi
nhau tới Atar, rồi tha hồ mà bắt lấy ba hoặc bốn tên nô lệ mới toanh mà mang về. Trút quách cái của nợ n{y đi. Nó gi{ như một thằng thi sĩ cỗi.
V{ người ta b|n Bark cho tôi. Tôi đưa l~o về khóa kín lại trong lều
luôn sáu ngày, bởi vì nếu thả l~o lang thang ra ngo{i trước ng{y t{u đến, thì
người Maure ắt sẽ bắt lão trở lại và bán lão một lần nữa, ở một nơi xa.
Giam thì giam, nhưng tôi cởi lốt nô lệ cho l~o. Đó cũng l{ một cuộc lễ
long trọng. Vị giáo thánh tới, người chủ cũ tới, viên tổng trấn tại Juby là
Ibrahim cũng tới. Ba tay tổ bợm này, nếu gặp lại lão Bark ở c|ch đồn lũy hai
mươi thước, ắt là dám cắt đầu l~o ta như bỡn, dù chỉ l{ để chơi khăm tôi
một vố cho bõ ghét mà thôi, thế mà lại bước tới tưng tiu l~o Bark, lũ lượt
ôm lấy mà hôn thật nồng nàn, và cầm bút ký tên vào tờ khế ước.
- Bây giờ mày là con ta.
Cũng là còn của tôi nữa, theo luật Pháp.
Và Bark hôn tất cả c|c người cha.
Lão sống trong căn lều một cuộc dịu dàng giam hãm cho tới ngày lên
đường. Lão bảo tôi tả m~i cho l~o nghe, hai mươi bận mỗi ngày, cuộc hành
trình dễ dàng sắp tới: lão sẽ bước xuống phi cơ tại Agadir, và tại đó, người
ta sẽ trao cho lão một cái vé Ô-tô-ca đi Marrakech. Bark đóng vai tuồng
người tự do, như trẻ con chơi trò th|m hiểm: c|i bước đi hướng về cuộc
sống, cái chuyến ô-tô-ca, những đ|m người đông đúc, những phố phường
lão sắp nhìn trở lại…
Laubergue thay mặt Marchal và Abgrall tới tìm tôi. Không nên để cho
Bark xuống phi cơ rồi chết đói. Bọn họ gửi cho Bark một nghìn quan, nhờ
tôi đưa lại; như vậy Bark có thể sống m{ tìm công ăn việc làm.
V{ tôi nghĩ tới những bà già trong những hội phước thiện, mỗi khi làm
phước bố thí hai mươi quan thì đòi hỏi lòng tri }n đầy đủ. Các anh thợ máy
phi cơ Laubergue, Marchal v{ Abgrall, đem cho một nghìn quan, không theo
lối bố thí l{m phước, lại c{ng không có ý đòi hỏi c|m ơn. Họ cũng không vì
lòng thương hại, như những bà kia cho của và mong phúc lộc về sau. Họ chỉ
muốn một điều giản dị: trả lại phẩm c|ch con người cho một con người.
Cũng như tôi, họ quá hiểu rằng, sau c|i cơn đê mê được về quê cũ, người bạn đầu tiên trung thành sẽ bước tới ch{o đón Bark l{ cô n{ng tên gọi là
túng quẫn, và trong vòng ba tháng tới đ}y, l~o sẽ phải lao khổ hì hục trên
những đường hỏa xa mà ì ạch bứng gốc đường rầy. Lão sẽ vất vả hơn lúc
còn ở sa mạc bên chúng tôi. Nhưng về giữa bà con thân thích mình, lão phải
có được quyền sống-thật-sự là mình chính mình vậy.
- Thôi nhé, l~o đi đi, v{ sống cho ra người nhé.
Chiếc phi cơ rung chuyển sắp khởi hành. Bark nghiêng mình nhìn lần
chót cảnh hoang liêu b|t ng|t Cap Juby. Quanh phi cơ, hai trăm người
Maure tụ họp để xem cho rõ gương mặt một người nô lệ nó ra như thế nào
trước ngưỡng cửa tự do. Và họ sẽ tóm lão trở lại nếu phi cơ có hỏng máy
một nơi n{o đó quanh quất bao xa.
Chúng tôi vẫy tay từ biệt, vĩnh biệt đứa con sơ sinh năm mươi tuổi
đầu, lòng hơi hoang mang giao nó lưu ly v{o cuộc thế.
- Vĩnh biệt Bark nhé!
- Không.
- Sao, không?
- Không. Tôi là Mohammed ben Lhaoussin.
Lần cuối cùng chúng tôi được tin tức Bark là nhờ Abdallah, người Ả
Rập chúng tôi đ~ cậy trông chừng Bark tại Agadir.
Chuyến ô-tô-ca chỉ khởi hành vào chiều tối, nên Bark ở đấy cả ngày.
Ban đầu, lão lang thang thật lâu trong thành phố nhỏ ấy, không nói một lời
n{o, Abdallah đo|n l{ l~o đương e ngại sự gì. Động lòng mới hỏi:
- Gì thế?
- Không…
Bark cho|ng v|ng trong cơn sổ lồng đột ngột, chưa kịp nhận thấy rõ
cuộc hồi sinh. Lão có cảm thấy một thứ hạnh phúc hoang mang, nhưng ngoài niềm vui đó ra, l~o chưa thấy có gì khác biệt giữa Bark hôm qua và gã
Bark hôm nay. Tuy nhiên, từ nay l~o bình đẳng chia sẻ với kẻ khác ánh nắng
mặt trời này, và có quyền ngồi đ}y, tại quán cà phê Ả Rập. Lão ngồi vào. Lão
gọi tr{ cho l~o v{ cho Abdallah. Đ}y l{ cử chỉ vương giả đầu tiên của lão; oai
quyền kia đ|ng lẽ phải biến dạng con người l~o. Nhưng tên bồi bàn lại
chẳng nhìn ra gì ráo, cứ thản nhiên rót trà cho lão, không biết gì về cái cử
chỉ vương chúa kia. Lúc rót tr{ nọ, hắn không ngờ, hắn chẳng biết rằng
mình đương chúc tụng cái hiển hách của một con người tự do.
- Ta đi nơi kh|c. Bark nói.
Họ kéo nhau về phía chợ, nơi đó bao qu|t được phong cảnh khắp vùng
Agadir.
Những n{ng thi ca nhi vũ người Berbère xinh xắn lân la tìm tới bên
hai người. C|c cô có d|ng điệu nhu thuận dịu dàng thật là êm ái dễ thương.
Bark lúc bấy giờ mới chợt cảm thấy rằng mình sắp được sống lại: chính các
cô em này là những kẻ sắp đón mừng l~o đương trở lại với đời, dẫu rằng các
cô em vô tình nào có biết có hay. Họ cầm tay lão, nâng trà mời lão, rất ân
cần ngoan ngo~n, nhưng cũng một c|ch như vậy với bất cứ kẻ nào. Bark
muốn kể chuyện mình hồi sinh. Họ dịu d{ng cười. Như hồn nhiên đôi h{ng
thùy liễu. Họ rất h{i lòng cho l~o, như tơ liễu hài lòng vì thấy suối hân hoan.
Bởi chưng l~o h{i lòng thì chị em chúng ch|u cũng xin hả dạ vậy. Lão nói
thêm vài lời cho c|c ch|u tưng bừng thỏa thích nghen? – “Ta tên l{
Mohammed ben Lhaoussin”. Nhưng họ hài lòng mà chẳng lấy làm ngạc
nhiên chi cả. Tất cả mọi người cũng mang mỗi kẻ một cái tên, và biết bao
người cũng đ~ đến đ}y từ xa xôi lắm lắm…
Lão lôi Abdallah vào thành phố. L~o lang thang trước những cửa hàng
người Do Thái, ngó nhìn ra biển, nghĩ rằng mình muốn bước đi đ}u mặc ý,
bước theo hướng nào mặc lòng, vì mình tự do. Nhưng c|i tự do kia dường
như chua ch|t: nhất là nó cho lão thấy, giữa lão với đời, còn thiếu rất nhiều
liên lạc.
Một đứa bé đi qua, Bark vuốt nhẹ v{o m| nó. Đứa bé mỉm cười. Đó
không phải một đứa con của chủ giàu mà ta tới nịnh. Đó l{ một đứa bé
nghèo yếu, được Bark ban cho chút yêu mến. Và nó mỉm cười. V{ đứa bé
thức tỉnh Bark, Bark cảm thấy mình có quan hệ nhiều hơn một chút trên mặt đất, nhờ một đứa bé yếu đuối đ~ vì l~o m{ mỉm cười. Lão bắt đầu nhận
ra một c|i gì đó, v{ b}y giờ l~o bước mạnh v{ mau hơn.
Abdallah hỏi:
- Lão tìm chi thế?
- Có chi đ}u, Bark đ|p.
Nhưng lúc l~o vướng phải một đ|m trẻ con đang nô rỡn ở một đoạn
đường quanh, lão dừng lại. Chính l{ đ}y. L~o lặng lẽ nhìn chúng. Rồi quay lại
những cửa hàng Do Thái, lân la một lúc trở về với những món qu{ mang đầy
nặng hai tay, Abdallah tức bực:
- Ngốc quá ta, giữ tiền mà tiêu chớ.
Nhưng Bark chẳng nghe gì nữa hết. Trịnh trọng một cách, lão ra dấu
cho từng đứa một lại gần. Và những b{n tay tí hon chìa ra đón lấy những đồ
chơi, những vòng xuyến, những chiếc hài thêu kim tuyến long lanh. Và bọn
trẻ con từng đứa nắm chặt phần mình rồi, liền chạy mất, thật man di.
Trẻ con khác trong thành hay tin, xô nhau ù chạy tới tìm. Bark đem h{i
thêu kim tuyến ra xỏ vào bàn chân chúng. Rồi trẻ con ở các vùng quanh
quất Agadir tới lượt bén tin nao nức cũng reo hò đổ tới, không ngớt kêu la
tới bên đấng Chí Tôn Thần Linh da đen m{ b|m, bu v{o n|t cả y phục nô lệ
x|c xơ, m{ đòi phần sẻ chia thích đ|ng. Bark tan t{nh sự nghiệp. Hỡi ôi!
Abdallah cho l{ l~o ta “điên vì vui qu|”. Nhưng tôi nghĩ rằng sự vụ
không phải thế, không phải rằng Bark vì ngập tr{n vui sướng mà san sẻ chia
ra.
Nh}n vì được tự do, lão nắm đủ trong tay những của cải cốt thiết: cái
quyền được kêu gọi yêu mến về, cái quyền được bước đi tùy hứng, ngoảnh
về Bắc hoặc ngó về Nam, cái quyền kiếm cơm ăn bằng mồ hôi hay nước mắt.
Thì cần chi nữa cái số bạc lửng lơ n{y… Trong khi t}m thần thể phách cùng
hoài cảm thiết tha (như thiết tha thèm ăn lúc đói) c|i nhu cầu được làm một
con người giữa hàng vạn con người, được cùng mọi con người kết liền một
khối. Những vũ nữ tại Agadir đ~ tỏ ra dịu dàng với l~o, nhưng l~o gi~ từ họ mà chẳng bận bịu lòng, lờ lững lúc đi như lờ lững lúc đến; họ có cần gì tình
quyến luyến của l~o đ}u. Chú bồi bàn trong quán Ả Rập nọ, kẻ qua lại bên
đường kia, thảy thảy cùng tôn trọng con người tự do ở nơi l~o, cùng l~o
bình đẳng chia sẻ ánh mặt trời, nhưng không một kẻ n{o đ~ tỏ ra cần lão.
Lão tự do, nhưng tự do vô biên vô hạn, tự do tới cùng cực thì cũng thấy
không còn chút ràng buộc n{o giúp hình h{i đè nặng trên đất yêu. Lão thiếu
mất cái khối nặng của tương th}n giao thiệp, cái khối ân tình cản lối ch}n đi,
những giọt lệ vàng, những lời vĩnh biệt, những hờn dỗi trách nhau, những
niềm vui kia, những nỗi sầu nọ, tất cả những gì con người mơn trớn, hoặc xé
r|ch ra đôi, mỗi lần chớm đưa tay l{m một cử chỉ nhỏ, những ng{n ng{n tơ
nhựa gắn bó keo sơn, l{m cho con người nó nặng cân trong cuộc. Tuy nhiên,
ngàn hy vọng cũng đ~ bắt đầu trĩu xuống cõi lòng kia.
Và thịnh triều của l~o Bark đ~ khởi đầu trong lộng lẫy bóng t{ dương,
đ~ mở màn lúc ráng chiều nhuộm màu vàng trên Agadir cựu phố, trong bầu
không khí mát mẻ ho{ng hôn, bao phen đối với l~o ta đ~ từng là niềm dịu
d{ng để chờ mong duy nhất, chỗ nương n|u duy nhất tháng ngày. Và lúc giờ
lên đường sắp tới gần, gần thêm m~i, Bark đ~ tiến bước lên, tắm thân mình
trong ngọn triều trẻ nhỏ, như xu}n kia từng đ~ ngập linh hồn trong đ{n cừu
non dại, Bark bắt đầu vạch cái đường c{y đầu tiên trong cõi đời, theo mộng
xu}n đầu gieo hột hàng hàng trong tình yêu thứ nhất. Chàng sẽ bước trở
vào trong vòng cùng khốn của thân thích bốn bề, mai đ}y ch{ng sẽ… đảm
nhận những đời sống muôn vàn, nhiều, nhiều hơn hai c|nh tay gi{ đủ sức
chở, đủ sức nuôi, nhưng dù sao, tại nơi đ}y, ch{ng đ~ dè th}n trên phù du
trong cõi, với đủ đầy sức nặng thật của thân. Sao ôi, sao mà thanh thản thế,
như thiên thần thượng đẳng quá thanh thoát giữa thương khung, không thể
nào dấn thân sống ngửa ngang đống gò cõi tục, nên đ~ đ{nh lếu láo một cơn
gian, là len lén lận hột chì trong đai nịt, để sè sè đi tới giữa trần gian đúng
theo phong độ người trần gian s{nh điệu bước gập ghềnh cho hì hục hợp
nhau, lão Bark của chúng ta cũng bước đi như khó khăn chập chững, bị lôi
kéo khòm lưng về mặt đất bởi ngàn ngàn trẻ nhỏ bám quanh thân, trẻ nhỏ
ôi, các em sao mà yêu những đôi h{i v{ng thêu đến thế.
7
Sa mạc là thế đó. Một kinh Coran của Hồi Gi|o, đ|o cùng cũng chẳng
khác mấy một luật tắc của cuộc chơi, biến cát sa mạc thành một phiêu bồng
Đế Quốc. Sâu hút trong một Sahara đứng lỳ ra rỗng không là thế đó, lại có diễn một tấn tuồng bí mật, l{m n|o động những nhiệt tình say đắm của
nhân gian. Cuộc sống thật sự của sa mạc, không chỉ được dựng nên bởi
những cuộc thiên di tẩy chuyển của những bộ lạc đi tìm một tấc cỏ để mục
súc gặm nhai, nhưng thật quả được làm nên là bằng cái cuộc chơi đang còn
diễn ra tại đó. Ôi, kh|c biệt một vực một trời, là thể chất giữa c|t b~i đ~ chịu
tòng phục và cái thứ c|t kia chưa. V{ đối với mọi con người thế gian, sự vụ
há chẳng hệt l{ y như rứa? Đối diện cái sa mạc đ~ biến dạng dị thường kia,
tôi bỗng nhớ lại những trò chơi tuổi nhỏ, tôi nhớ lại c|i khu vườn âm u mà
vàng gieo lộng lẫy, mà thủa nhỏ chúng tôi từng đ~ mang về đầy đủ những
chư thần, chư th|nh, ôi chư tiên kiều diễm dắt tay nhau vào lá xanh dìu dặt.
Tôi nhớ lại c|i vương quốc bao la của chúng tôi lôi ra từ một cây số vuông
vườn đất, chẳng bao giờ hiểu trọn được, chẳng bao giờ lục soát xong, chẳng
bao giờ mò mẫm đủ, chẳng bao giờ giao phó hết ẩn ngữ mình cho tâm thức
đọc ra. Chúng tôi cấu tạo nên một nền văn minh kín bưng biệt lập, trong đó
từng bước chân có riêng một hương vị, từng gót ngọc có riêng một âm vang,
từng mỗi một vật thể nhỏ hay to, tròn xinh hay méo xẹp, thảy thảy đều
mang một nghĩa riêng t}y, ngo{i cõi đó ra, không bao giờ một miền khác có.
Không có quyền, v{ không được phép. Nhưng còn chi nữa của vũ trụ kia,
một phen chúng tôi trở nên người lớn, sống theo những luật tắc phong tư
kh|c, còn gì đ}u nữa của khu vườn liễu in dòng rụng, thu đầy tuổi thơ, h{o
hoa huyễn ảo bao giờ, vừa băng gi| lại vừa sờ sợ thiêu – c|i khu vườn mà
ngày nay, lúc ta về viếng lại, ta ngậm ngùi như tuyệt vọng bước vòng theo ở
bên ngoài, men bờ tường lè tè đ| x|m, xót xa kinh ngạc nhận thấy mọi
hương màu sao khép ngột trong cái vòng em eo hẹp làm sao, mọi hương
màu của một quận ch}u đ~ từng là vô hạn của bao la, và biên bờ cõi, và sực
hiểu rằng không bao giờ ta sẽ còn có thể bước trở vào trong cõi rộng xưa
kia, bởi vì chưng nếu phải vào trong, ấy không phải trong khu vườn, mà vào
trong là ấy trong trò chơi giữa cuộc…
Nhưng phong cảnh phiến loạn không còn, thì cuộc chơi chấm dứt. Cap
Juby, Cisneros, Puerto-Cansado, la Saguet-El-Hamra, Dora, Smarra, chẳng
nơi n{o còn chút chi bí mật. Những chân trời rộng mở ta đ~ từng đăm đắm
đuổi theo, đ~ lần lượt chìm tan đ}u mất cả, như những côn trùng sặc sỡ
chợt sa vào bàn tay tóm bắt, chợt tan tành những lộng lẫy sắc hương.
Nhưng c|i kẻ đăm đăm đuổi theo, dẫu có xiêu hồn lạc ph|ch, cũng không
hẳn là ngốc nghếch chịu làm thứ đồ chơi cho ảo tưởng dồi tung. Chúng tôi
không u mê nhầm lẫn, lúc lao đầu vào khai phá cỏ chân mây. Vị Ho{ng Đế
kia trong truyện Nghìn Lẻ Một Đêm cũng vậy, ông theo đuổi một thể chất quá khinh khiêu phiêu bồng phong nhị, cho đến nỗi những kiều diễm thiên
hương bốc hơi l{ thế, mà vẫn phải cứ lần lượt từng cánh sa rụng giữa bình
minh, trong vòng tay ông còn ngẩn ngơ ghì siết, ấy cũng vì chớm chạm vào
thì c|nh v{ng băng tuyết bỗng đứt mạch nguyên truyền mà ngất lịm trôi xa.
Chúng tôi từng nuôi dưỡng mình bằng ảo mộng hoàng sa, những kẻ khác
mai sau sẽ về đ}y có lẽ, sẽ đ{o s}u những con giếng dầu hôi, sẽ làm giàu với
những hàng hóa nọ. Nhưng họ sẽ về, là về quá muộn mà thôi. Bởi chưng
những bãi kè, cụm dứa, những vùng xanh là cấm địa ban sơ, v{ những hột
bụi trinh nguyên của những vỏ nghêu, vỏ hến, vỏ hào ba góc hẹp, đ~ muôn
vàn ẩn bí riêng trao – cho chúng tôi cái phần riêng mật ngọt, riêng một giờ
phụng dâng ngây ngất, chúng tôi lao đầu vào là chúng tôi riêng sống đó chứ
sao.
*
Sa mạc ư? Một lần tôi có dịp ghé vào, cập bờ sa mạc theo con đường:
từ giữa trung tâm. Trong một chuyến bay sang Đông Dương năm 1935, tôi
lại băng mình v{o Du Dương Ai Cập, nhớ nhung người đổ quán phố
Alexandrie, sát biên thùy Libye ngõ hạnh, đắm đuối chìm trong hoàng sa lộ
đoản cho trầm luân thân phận giữa lưới nhựa keo sơn, tưởng chết ra ma,
mà rồi ra chưa chết. Đ}y l{ c}u chuyện.
VII
GIỮA LÒNG SA MẠC
1
Vào tới Địa Trung Hải, tôi gặp mây thấp xuống bên mình. Phi cơ chìm
xuống hai mươi thước. Mưa như th|c đổ, đập vào mặt kính ngự phong và
biển tr{o như bốc hơi ra khói. Tôi mở thao láo mắt, cố gắng nhìn thử có
trông ra được tí gì, và khỏi phải đ}m đầu vào cột buồm tàu biển.
Anh thợ máy, André Prévot, thắp thuốc cho tôi không ngớt.
- C{ phê đi…
Anh biến ra phía đuôi t{u và trở lại với chiếc te-mô. Tôi uống. Thỉnh
thoảng tôi búng vào cái nút nhận ga, để cầm giữ hai nghìn một trăm vòng
quay. Tôi đưa mắt lướt qua một lượt khắp các mặt kính chỉ dẫn: trăm họ
ngoan ngoãn vâng lời, kim nào vị trí nấy. Tôi liếc nhìn xuống biển. Dưới trận
mưa, mặt trận bốc hơi, như cuồn cuộn từng cơn trong một thùng nước sôi
khổng lồ vậy. Nếu là bay trên thủy phi cơ, ắt tôi phải ngao ngán tiếc thầm,
sao mà nó luôn tuồng rỗng tuếch. Nhưng tôi đang l|i phi cơ thường. Thì dù
rỗng hay không, cái lòng biển lên cơn ở dưới kia, hẳn không phải là chỗ
d{nh cho tôi đậu xuống đuống h{ng. Điều nhận định đó, chẳng rõ do đ}u m{
lại gây cho tôi một cảm giác bình yên phi lý. Biển thuộc một thế giới nào
không phải của tôi. Hỏng máy, ở đ}y, không can hệ với tôi, cũng không hăm
dọa tôi được: tôi nào có chuẩn bị lèo l|i để vào cuộc chịu chơi với biển chi
chút n{o đ}u.
Bay được một giờ rưỡi, thì mưa ngớt. Mây vẫn còn thấp lắm, nhưng
ánh sáng nghiêng trời xuyên xuống, xỏ qua m}y như một nụ cười dài rộng.
Tôi êm đềm thưởng ngoạn cái cuộc soạn sửa diên trì nọ cho một cảnh trời
tốt đẹp sẽ mở ra. Tôi đo|n biết, trên đầu mình hiện có một lớp bông trắng
phất phơ. Tôi l|i chếch sang một bên để tránh một cơn giông: giờ không cần
phải xuyên ngang giữa lòng mưa v{ b~o nữa. V{ đ}y, khung trời quang thứ
nhất…
Tôi linh cảm đo|n chừng thế thôi chứ không nhìn ra rõ, vì trước mặt
mình, trên mặt biển, chỉ thoáng thấy một làn mỏng xanh rờn như đồng cỏ,
một thứ màu cây trong sa mạc sắc lục rạng rỡ huy ho{ng v{ thăm thẳm, tựa
như m{u lục những đồng lúa mạch ở miền Nam Maroc đ~ từng khiến tôi
nao lòng rung động, lúc bay từ Sénégal về, sau ba nghìn cây số c|t. Đ}y cũng
vậy, tôi có cảm tưởng như đang ghé về một châu quận yên vui, và lòng thấy
nhẹ nhàng du khoái. Tôi quay lại anh Prévot:
- Xong xuôi rồi, tốt thật!
- Vâng, tốt thật…
Tunis. Trong lúc ấy éc-xăng, tôi ký v{o c|c giấy tờ. Nhưng khi tôi rời
bàn giấy, bỗng nghe một tiếng “rùm!”. Một thứ tiếng chói tai, không âm
vang. Tôi chợt nhớ đ~ từng có nghe một thứ tiếng tương tự: tiếng nổ trong
một gian nhà chứa. Hai người đ~ bỏ mạng giữa }m thanh kh{n đục nổ ầm
kia. Tôi quay nhìn về phía lộ dọc theo đường chạy của phi cơ: một ít bụi
khói bốc lên, hai chiếc xe tốc hành choảng vào nhau và dừng sững lại, bất
động như nằm trong băng đ|. Người ta hối hả ùa tới, kẻ chạy về phía hai
chiếc xe, kẻ chạy về phía chúng tôi:
- Gọi điện thoại… Một b|c sĩ… C|i đầu…
Lòng tôi se lại. Định mệnh vừa đ|nh trúng một đòn trong bóng chiều
yên tĩnh. Một vẻ đẹp bị tàn phá, một bộ óc thông minh, một cuộc đời… Bọn
cướp cũng từng tiến lên như vậy trong sa mạc, v{ không ai nghe được bước
chân dẻo dai khinh khoái của họ lướt trên mặt cát bao giờ. Trong một trại
đồn giữa sa mạc, cái tiếng xao xác ngắn ngủi do một trận cướp g}y ra, cũng
quả có dường như vậy. Rồi mọi sự chìm vào trong vắng lặng v{ng hoe. Cũng
một loại yên bình, cũng một loại vắng lặng… Một kẻ đứng gần tôi nói tới
chuyện vỡ sọ. Tôi không muốn biết, tôi không muốn biết gì nữa cả, về cái
trán cứng đờ đẫm m|u kia, tôi quay lưng về phía lộ, v{ bước thẳng lại chiếc
phi cơ. Nhưng giữ ở trong lòng một cảm tưởng gì về sự lăm le rập rình của
tai họa. Cái tiếng ầm nọ, lát nữa tôi sẽ còn nghe và nhận ra trở lại. Lúc tôi
còn bay giữa cơn cấp tốc hai trăm bảy mươi c}y số một giờ, tôi sẽ cọ sát
mép sườn d~y cao nguyên đen đủi của tôi, thì tôi sẽ nhận ra cũng c|i tiếng
khò khè kh{n đục chói tai: cũng c|i tiếng “ha!” của định mệnh, đương chờ ta tới địa điểm tao phùng.
Ha! Lên đường đi Benghaza vậy.
[3]
2
Lên đường. Chỉ còn hai giờ nữa thì ngày tàn. Tôi bỏ kính râm lúc bay
tới địa phận Tripolitaine. Cát vàng óng ả. Hỡi ôi! Hành tinh của chúng ta sao
mà hoang vắng! Một lần nữa, tôi lại thấy tại đ}y, trên mặt đất trần gian này,
những sông dài, những bóng râm cây lá, những nhà cửa con người, chỉ là do
những phối ngẫu dị thường của may rủi mà thôi. Còn bao nhiêu là cỗi cằn đ|
cát!
Nhưng mọi thứ đó đối với tôi giờ đ}y vẫn còn là xa lạ, tôi đương sống
trong địa hạt phi hành. Tôi cảm thấy đêm tăm đương đi tới, ta sẽ chìm vào
trong đó khép mình mất hút như trong một điện đ{i. V{o trong đó, ta khép
mình trong vòng suy tưởng cô đơn, theo những nghi lễ cốt thiết u huyền,
không chờ mong cõi ngoài cầu ứng. Toàn khối vũ trụ tục ph{m đ~ lẩn bóng
v{ tan đi. To{n thể phong cảnh này vẫn còn được di dưỡng trong ánh sáng
hồng v{ng, nhưng có c|i gì đ~ bốc hơi lẩn mất. Và tôi không biết, không biết
gì nữa cả, ngoài cái giờ bất tuyệt phát tiết trinh anh. Kẻ nào hiểu tôi, kẻ đó
hiểu tôi, là riêng ấy những ai đ~ từng chịu nhiếp phục bởi cái ân tình kỳ
tuyệt, với đường bay rẽ gió m{ đi. Tôi tạ từ thong dong, này trời cao, nắng
rộng. Tôi tạ từ, này những vùng vàng óng bao la có thể cho tôi tỵ nạn trường
hợp m|y hư… Tôi tạ từ những mục tiêu hướng dẫn. Tôi tạ từ những bóng
núi in hằn giữa thương khung, có thể giúp tôi tránh dễ dàng các mỏm đ|.
Tôi bước v{o trong đêm tối. Tôi rẽ gió ngất tạnh m{ đi. Tôi chỉ còn có ngàn
sao mù khơi l{ bạn…
Cái chết kia của doanh ho{n đương từ từ “th{nh tựu”. V{ từ từ, ánh
sáng biệt ly tôi. Đất và trời cũng từ từ hòa vào nhau hợp một. Đất bay lên
trời và tỏa rộng như khí sương. Những tinh tú đầu tiên run rẩy hình như
ngại ngùng trong bầu nước lục. Còn phải chờ lâu nữa mới thấy chúng tôi
biến dạng thành những hột kim cương cứng rắn như khuynh th{nh một
thuở bỏ ra đi. Còn phải chờ lâu nữa mới mở mắt mơ m{ng mà chứng giám
cuộc phiêu bồng sỏa lộng bóng sao băng. Ở giữa lòng một v{i đêm th}u lục
nhạt, tôi đ~ nhìn những tia lửa băng trời thành một đường rẽ vút như một
làn gió dài dàn rộng giữa muôn sao.
Prévot đang thử những đèn thường và những đèn phòng khi cấp cứu.
Chúng tôi bọc bóng điện bằng giấy đỏ hồng.
- Thêm một lớp nữa…
Anh bọc thêm một lớp nữa, và bật đèn. Ánh đèn vẫn còn sáng quá. Mờ
hơn tí nữa, nó sẽ vây mờ pha mận cho đ{n hương, che phủ bóng hình của
thế giới bên ngoài nhợt nhạt. Nó sẽ hủy tan đi cái chất nhờn phơn phớt còn
bám vào cảnh vật trong đêm tăm. Đêm đ~ v}y tr{n. Nhưng chưa phải là
sống thực. Một cung v{ng trăng mới, vẫn lân la. Prévot quay ra phía sau,
chạy trở về với bánh bèo nhận hột. Tôi gậm nhấm một chùm nho. Tôi không
đói, ng{y cũng chẳng kh|t. Cũng không mỏi chút nào, chỉ cảm thấy thân
phiêu bồng như c|nh bằng tiện gió, nếu Trời Phật vui lòng cho phép, con xin
rằng sẽ l|i m|y bay như thế này lai láng mãi suốt trăm năm.
Vầng trăng đ~ chết.
Tới Benghazi trong đêm đen u sầu như mực, Benghazi nằm trong đ|y
thẳm một bóng đêm dằng dặc không một vầng sáng gợn. Tôi đ~ nhìn tho|ng
thấy thành phố, lúc tôi tới nơi. Tôi còn lượn một vòng phi cơ để tìm sân bay,
thì hỏa tiêu rực đỏ. Tôi xoay phi cơ trở lại. Ánh sáng một ngọn pha hướng
lên trời, vút thẳng như tia hồng một trận hỏa hoạn, xoay tròn và vạch một
đường vàng óng trên sân bay. Dụng cụ ban đêm ở sân này thật là chỉnh bị.
Tôi hãm máy và khởi sự lao xuống như lao v{o nước đen ngòm.
Tôi hạ c|nh lúc mười một giờ đêm. Cho phi cơ chạy về phía ngọn đèn
pha. Những sĩ quan v{ lính tr|ng nh~ nhặn hết mực, theo tia sáng chớp của
ngọn đèn pha m{ ẩn hiện, lúc mờ lúc tỏ, lúc thấy lúc không, người ta thu
giấy tờ của tôi, người ta bắt đầu cho xăng v{o m|y. Công việc sẽ xong xuôi
trong hai mươi phút.
- Ông thử quay phi cơ một vòng, và bay ngang trên chúng tôi, kẻo
chúng tôi không rõ ông cất c|nh được chưa.
- Lên đường.
Tôi cho phi cơ lăn trên con đường vàng óng, trên một lối không
chướng ngại. Phi cơ tôi, loại “Simoun” cất cánh nhẹm lạ, trước khi chạy hết
khoảng đường dành sẵn. Ngọn đèn chiếu cứ dọi theo tôi, l{m vướng mắt tôi
lúc tôi muốn quay chuyển lại. Rồi nó chợt tr|nh lìa ra, người ta đ~ hiểu rằng
nó làm tôi quáng mắt. Tôi vừa quay ngược vừa cho phi cơ lên chiều thẳng đứng, thì chợt ngọn đèn chiếu, lần nữa lại đập thẳng vào giữa mặt tôi,
nhưng vừa chớm chạm, lại vừa chợt buông “chưởng lực”, vừa tung thẳng
v{o mình đ~ vội vàng chia ly ra nẻo kh|c, v{ hướng vào thinh không mà trút
ngậm cơn óng ả bùi ngùi. Qua những mối ân cần tương nhượng kia, tôi nhận
ra niềm hòa nhã cao vời. “Hồng lưu tỷ sơn hải nhi c}u trường, hạc phát quý
tri thù chi mạc bổ…”. Tạ từ nhau, giờ lại xin xoay chiều về Sa Mạc.
Những ban khí tượng tại Paris, Tunis và Benghazi có cho tôi biết có
một cơn gió thuận chiều thổi theo đuôi, tốc độ từ ba mươi tới bốn mươi c}y
số một giờ. Cậy v{o đó, tôi nhằm thẳng vào khoảng giữa đoạn đường nối
liền Alexandrie v{ Le Caire. Như vậy, tôi sẽ tr|nh được những khu cấm địa
ven bờ biển, và cho dẫu mình có sẽ chịu những cơn phiêu hốt không ngờ
của phi cơ trên dặm bay, thì trên đường hàng không tôi vẫn còn có thể bám
vào những tiêu điểm, hoặc về phía tả, nơi những ánh lửa của một trong hai
thành phố kia, hoặc nói chung, tựa vào những ánh lửa trong lưu vực sông
Nil. Tôi sẽ bay suốt ba giờ hai mươi phút, nếu gió không đổi cơn. Bay ba giờ
bốn mươi lăm, nếu gió yếu bớt. Và tôi bắt đầu heo hút vượt một ng{n năm
mươi c}y số sa mạc.
Không còn trăng. Một chất nhờn như dầu thạch não tối sầm, một màu
đen như mực loãng ra, tỏa lên tới ngàn sao. Tôi sẽ không nhìn thấy một đốm
lửa, không đón được một điểm tiêu mốc để dẫn đường, thiếu vô tuyến tôi sẽ
không nhận được một dấu hiệu nào của con người trước khi v{o lưu vực
sông Nil. Tôi cũng chả thử gắng quan s|t gì kh|c, ngo{i c|i địa bàn và cái
máy Sperry. Tôi chẳng còn chú tâm vào một cái gì nữa cả, ngoài cái tiết nhịp
hô hấp lững lờ chậm chạm của một đường quang tuyến lăn tăn trên mặt
kính mờ mờ của cái máy. Lúc nào Prévot rục rịch dời chỗ, tôi dìu dịu sửa sai
cho những biến thiên của định t}m điểm. Tôi đưa phi cơ lên độ cao hai ngàn
thước, nơi người ta đ~ b|o cho biết là gió sẽ thuận chiều. Lâu lâu tôi bấm
đèn một c|i, để xem xét các mặt kính động cơ, không phải c|i n{o cũng có
dạ quang chiếu dọi, nhưng thường thường phần lớn thì giờ, tôi thu hình kín
trong bóng tối, giữa những chòm sao tí hon của mình đương đề huề gieo
|nh s|ng, cũng một thứ ánh sáng khoáng hóa u mờ như tinh tú dạ du, cũng
thứ ánh sáng ẩn mật, không mòn hao; v{ cũng như tinh tú trên trời, những
chùm sao của tôi cũng nói chung một phiêu bồng ngôn ngữ. Tôi cũng không
kh|c chi nh{ thiên văn học ngó trời, tôi cũng đang đọc một quyển sách về
chuyển vận cơ học ngàn sao. Ngoại vật thảy đều chìm tắt hết. Chỉ còn có anh
Prévot đương ngủ, sau mấy phen gượng chống không lại con ma “miên”, thì tôi, tôi chỉ còn tôi cô độc, một mình c{ng thưởng ngoạn êm ái mối cô đơn.
Chỉ còn có tiếng ù ù dịu dịu của động cơ quay, v{ trước mặt tôi, trên tấm
bảng yên bình, l{ bao nhiêu sao v{ng yên tĩnh.
Tuy nhiên tôi gẫm lại… Chúng tôi không thụ hưởng chút gì của vầng
trăng, m{ lại thiếu luôn máy vô tính. Trông cậy vào gì bây giờ. Không chút
liên lạc nhỏ buộc vào với đời, với cõi thế dưới kia, cho tới lúc chạm vào với
tấm băng |nh s|ng sông Nil. Chúng tôi đứng ngoài vòng mọi thứ, chỉ duy
còn có c|i động cơ n{y l{ cầm giữ chúng tôi và giúp chúng tôi gìn mình
trong cái hồ nhựa đen như mực. Chúng tôi đang lần mò dò dẫm vượt qua cái
hang s}u thung lũng tối mò của những chuyện thần tiên kinh dị, là cái vùng
thung lũng của thử thách chầy chầy. Đ}y, không hòng mong ai giải cứu. Đ}y,
không hòng ngóng đợi độ lượng bao dung. Lỡ lầm là chết. Phó mặc phận
mình cho Trời Đất phó mặc trở cơn. Dù ng{i xoay đến thế, dù đấng vần tới
kia.
Một luồng tia sáng lóe ra từ một kẽ m|y điện phân phối. Tôi gọi Prévot
dậy tắt nó đi. Prévot rục rịch cựa mình trong bóng tối, èo ụt như con gấu ù
lì, phì phạch rũ lông, lò dò tiến lại. Chẳng rõ anh lúi húi bận rộn tết dệt cái
thứ gì trong bóng tối với một mớ mùi xoa v{ đen thui mớ giấy. Luồng tia
sáng chợt tắt. Nó đ~ vạch một đường rạn nẻ trong thế giới này. Nó không
cùng loại, không cùng tính chất với thứ ánh sáng lờ mờ hắt hiu xa vắng của
ánh quang tuyến tại đ}y. Nó l{ thuộc loại ánh sáng của hộp đêm, nó không
phải là ánh vàng tinh tú. Nhất là nó lại làm chóa mắt tôi, và xóa mờ những
tia vàng man mác khác.
Sau ba giờ bay, một hào quang khá rạng rỡ bỗng phát hiện bên phía
tay phải. Tôi ngó vào. Một đường rẽ lộng lẫy bám vào ngọn đèn ở đuôi c|nh,
khép nép thế nào mà mãi tới bây giờ tôi mới chợt thấy ra. Một loại ánh sáng
lúc giật lúc buông, lúc chùng lúc thẳng, chớm kề cà, chợt lẩn bóng đi đ}u: ha!
thế là tôi lại bay vào vòng thao túng của một áng mây. Chính áng mây kia
đang chơi trò phản chiếu, lung lạc đảo điên |nh ngọn đèn. Nếu bay gần
những tiêu mốc, ắt l{ tôi đ~ mong mỏi một bầu trời trong trẻo, hơn l{ c|i
điệu gần xa l~ng đ~ng thế n{y. C|nh phi cơ s|ng ra trong vòm h{o quang đó.
Ánh sáng dồn tụ, dừng im, tỏa rộng, kết thành tại đó một cụm đóa hồng
vàng. Những luồng khí thăm thẳm trở cơn bỗng l{m cho phi cơ tôi xiêu lệch.
Tôi dặt dìu bay tới đ}u đó trong l{n gió thổi vào những lớp lớp mây tuôn,
chẳng biết là dày hay mỏng. Tôi lái lên cao tới hai ng{n năm trăm thước mà chẳng thấy nhô khỏi để thoát ra. Tôi lại cho phi cơ xuống thấp tới một ngàn
thước cao. Cụm hoa hồng vẫn còn nguyên tại đó, im lìm bất động và mỗi lúc
mỗi huy hoàng lộng lẫy tưng bừng c|i đóa đẹp thêm ra. Tốt. Tốt lắm. Được
rồi. Mặc nhé. Ai hơi sức đ}u m{ gùn ghè m~i với cái loại lần khan. Tôi nghĩ
qua chuyện khác. Rồi sẽ rõ cái sự đời nó hay nó dở, lúc ra khỏi cái vòng
cương tỏa đó nghe em. Thật tình, tôi không ưa c|i thứ ánh sáng ba xu của
những quán hàng bốn cắc.
Tôi tính nhẩm: “Tại đ}y, mình lai rai sụt trồi chút ít, mình nhảy lộn,
nhào lầm ít nhiều, đó chẳng qua cũng l{ thuận lẽ thường thôi ạ, có chi đ}u
mà phải lấy l{m điều. Tuy nhiên, mình đ~ phải chịu đựng những luồng khí
phiêu hốt trở cơn suốt dặm đường bay, mặc dù lên đúng độ cao, mặc dù trời
quang như thể… Gió không dịu cái hồn, thì mình phải hỏi trăng. Gió lần
kh}n chưa tạnh, ắt l{ mình đ~ vượt qua cái tốc độ ba trăm c}y số một giờ.
Dù sao tôi cũng chẳng biết cái gì cho rõ cái gì lắm, thôi thì hãy chờ cái lúc lọt
ra ngoài cái vòng vành vạnh của mây cong, rồi sẽ liệu mà tính sau cho chắc
ăn c|i phương hướng để định lại vị trí ở giữa cơn phiêu bồng.
Và ta ra khỏi biển mây. Chùm hoa vụt biến. Chính vì nó vụt biến nên
tôi chợt biết là mình vừa ra khỏi đ|m m}y. Tôi nhìn thấy đằng trước và thấy
lờ mờ, nếu quả còn lờ mờ thấy được chút chi, một thung lũng thanh thiên
eo hẹp và bức th{nh trùng điệp m}y giăng. Chùm hoa sẽ tái hiện.
Tôi sẽ không ra khỏi cái cõi nhựa dằng dai này, trừ một vài giây phút
ngắn. Sa vào tấm lưới này sau ba giờ rưỡi hàng không, thật quả l{ điều đ|ng
ngại. Tôi bắt đầu e ngại. Bởi vì tôi tiến gần tới sông Nil, nếu thật tôi đ~ bay
được đúng như tôi tưởng chừng trong trí. Có lẽ may ra tôi sẽ thấy con sông
Nil qua các khoảng trống trong vùng mây dằng dặc, nhưng rủi là khoảng
trống ít qu|. Tôi chưa d|m xuống thấp thêm: vì ví phỏng mà lỡ ra mình đ~
bay chậm hơn mình tưởng, thì hiện giờ mình còn đương lẩn quất trên
những miền đất cao.
Tôi vẫn không lo lắng chút nào. Chỉ sợ là sợ phí mất thì giờ. Nhưng tôi
không muốn mình điềm nhiên thanh thản m~i, tôi đặt một giới hạn cho yên
tĩnh: bốn giờ mười lăm phút bay. Sau thời hạn đó, thì dẫu có đứng gió, mà
gió đứng đó l{ điều mười phân không chắc chín, tôi hẳn cũng sẽ vượt quá
lưu vực sông Nil.
Lúc tôi bay vừa tới chạm vào cái tua mép viền vành của đ|m m}y kia,
thì cái chùm hoa hồng thắm bỗng toe ra nhiều tia lửa lập lòe càng dồn dập
chuyển cơn nhanh, rồi đột nhiên tắt mất. Tôi thật không ưa c|i lối ra dấu
hiệu bí mật tư thông n{y với những loài mà cuồng quỷ loạn của đêm đen.
Một vì sao xanh lục nhô ra trước mặt tôi, sáng ngời như một ngọn hải
đăng. Đó l{ sao, hay đó l{ đèn? Tôi thật cũng chẳng ưa gì c|i thứ ánh sáng
siêu nhiên này, cái thứ tinh cầu ảo thuật, cái thứ quyến rũ mê hoặc tai hại
kia.
Prévot chợt thức dậy và bấm đèn rọi các mặt kính động cơ. Tôi vừa
bay tới một khe hở long lanh giữa hai đóa m}y ng{n phiêu hốt, tôi nh}n cơ
hội mà nhìn ngó xuống phía dưới kia. Prévot quay đi ngủ lại.
Cũng chẳng có chi dưới đó m{ nhìn.
Bay được bốn giờ năm phút, Prévot đến ngồi bên cạnh tôi.
- Lẽ ra tới Le Caire rồi mới phải…
- Tôi cũng nghĩ vậy…
- Kia đó l{ sao hay ngọn đèn pha vậy?
Tôi đ~ h~m bớt máy, chắc vì thế mà Prévot thức giấc. Anh vốn thường
rất nhạy cảm, máy chạy kh|c đi một chút là biết ngay. Tôi bắt đầu chầm
chậm cho phi cơ xuống thấp, để lướt ra khỏi lùm mây um tùm.
Tôi vừa xem lại bản đồ. Dù sao thì mình cũng đ~ cập tới độ 0: không
còn chỉ phải ngại. Tôi cho phi cơ xuống nữa, xuống nữa và bẻ lái xoay qua
hướng cực Bắc. Như vậy tôi sẽ đón nhận ánh lửa các thành phố chiếu về các
tấm kính cửa sổ. Chắc tôi đ~ vượt quá khu phận các phố phường, vậy thì
chúng ta sẽ hiện ra ở phía tả. Bây giờ tôi bay dưới các lớp mây chồng chất.
Nhưng cũng đang bay dọc một đ|m m}y thấp hơn ở về mé bên trái. Tôi bẻ
lái xoay chiều để khỏi vướng vào cái lụy của vòng lưới nó giăng ra, v{ bay
theo hướng Bắc Đông Bắc.
Đ|m m}y n{y quả thật còn xuống thấp hơn, không còn ngờ chi nữa, nó
lấp mất cả chân trời trước mặt tôi. Tôi không dám liều xuống thêm nữa. Tôi
đ~ tiến tới độ cao 400 trong cao độ kế, nhưng tôi không rõ |p lực không khí
vùng n{y. Prévot nghiêng người. Tôi nói lớn: “Tôi sắp chạy thẳng ra biển, tôi
sẽ dông thẳng ra biển, để khỏi chạm đất…”
Kể ra thì cũng chẳng có gì chứng tỏ l{ tôi đ~ không lạc ra biển trước
mất rồi. Dưới đ|m m}y kia, bóng tối quả là dằng dặc đen kịt tối sầm. Tôi dán
mắt vào khuôn cửa sổ. Tôi cố gắng nhìn đọc cho ra c|i gì bên dưới. Tôi cố
gắng tìm cho thấy những đốm lửa, những dấu hiệu. Tôi là một con người,
một con kẻ, đang bới tìm khai quật c|i đống trong tàn than. Biết chăng còn
hột kim cương trong đó. Tôi l{ một gã hì hục se lòng đưa tay mò v{o c|i đ|y
của một lò sưởi sâu hang. Biết còn chăng trong đó những ngọn lửa nóng
lừng tồn sinh ngấm ngầm ng{y đêm }m ỷ cháy?
- Một ngọn hải đăng!
Hai chúng tôi cùng nhìn ra một lượt cái cạm bẫy ấy vẻ son lập lòe. Rõ
thật l{ điên. Ngọn đèn ma ấy ở đ}u? C|i trò đùa của đêm ma qu|i ấy? Vì
chính trong c|i gi}y m{ Prévot v{ tôi cùng nghiêng đầu tìm lại nó, ở dưới
mình ba trăm thước, thì bất thình lình…
- A!
Tôi nhớ rõ mình không nói gì khác nữa. Tôi nhớ rõ mình không cảm
thấy gì khác, ngoài một tiếng ầm dữ dội làm chấn động đảo điên c|i thế giới
chúng tôi ở chín tầng cội gốc. Với tốc độ hai trăm bảy mươi cây số một giờ,
chúng tôi chạm m|u tim v{o đất.
Tôi nhớ rõ mình không mong chờ gì khác, trong một phần trăm gi}y
đồng hồ tiếp sau đó, v}ng, không chờ gì khác ngoài cái luồng chớp lóe của
một ngôi sao khổng lồ trong một trận nổ tung, cuốn hút hai anh em tôi vào
để cùng chung tan tành một cuộc. Cả Prévot, cả tôi, không đứa nào cảm thấy
một chút xíu xúc động. Tôi chỉ nhận thấy trong mình một chờ đợi thiết tha,
chờ đợi mênh mông để xem xuất hiện cái luồng chớp lóe huy hoàng của một
ngôi sao sắp xóa tan hai hình hài một lúc. Nhưng trước sau vẫn không có
một ngôi sao hồng tía nào hiện ra cả. Chỉ có một thứ gì như cơn động đất ì
ầm tàn phá mất cái buồng máy chúng tôi, rứt tung các cửa sổ, bắn tung các tấm tôn ra xa trăm thước, một cơn động đất ầm ầm dội vào tận đáy ruột
gan. Chiếc phi cơ rung động rít lên như một lưỡi dao phóng từ đằng xa, cắm
vào gỗ cứng. Hai đứa tôi quay cuồng thất điên b|t đảo trong cơn thịnh nộ
đùng đùng sấm vang kia. Một gi}y, hai gi}y… Chiếc phi cơ vẫn rung lên như
cầy sấy v{ tôi điên cuồng đợi, lòng nóng như thiêu, cầu mong cho bao nhiêu
tiềm lực súc trữ trong tàu hãy sớm bộc ph|t như một trái lựu đạn nổ tung
cho tan tành chiếc phi cơ trong một cơn bụi c|t nhưng từng trận chấn động
dập dồn trong lòng đất nối đuôi nhau điệp điệp, mà rút cuộc vẫn không đủ
xô phún thạch ra ngoài cho trào xé miệng hỏa sơn. Tôi không hiểu, tôi
không hiểu một chút gì hết cả, về cái việc làm ngấm ngầm bí mật kia. Tôi
không hiểu, không hiểu cuộc chấn động, không hiểu trận bất bình, không
hiểu cơn thịnh nộ, không hiểu sự duy trì bất tận trễ tr{ng kia… năm gi}y…
s|u gi}y… V{ bất thình lình, một cảm giác xô ùa xoay tít, một sức mạnh kích
phá tan tành, làm tung bay lả tả, nào thuốc điếu n{o nón đội trên đầu, nào
khăn đỏ vắt vai – nó chợt đập n|t c|nh phi cơ tay phải, rồi chợt thôi, thôi
hết, thôi rồi, thôi thế, mộng thôi oanh… Chỉ riêng còn thôi, là im lìm giá lạnh.
Chỉ riêng còn chút, là lạnh giá im lìm. Tôi la lớn:
- Prévot, nhảy mau!
Cùng một lúc, Prévot la lớn:
- Lửa!
Lập tức chúng tôi phóng ra ngoài qua khung cửa sổ vỡ toang. Chúng
tôi đứng ra xa hai mươi thước. Tôi bảo Prévot:
- Không hề gì?
Anh ta trả lời:
- Không hề gì!
Nhưng anh cúi xuống xoa đầu gối.
Tôi bảo:
- Mó lại xem, rục rịch thử, thề với tôi l{ anh không g~y xương n{o
hết…
Anh trả lời:
- Không hề chi cả, chỉ tại cái bôm trừ lửa.
Tôi, tôi nghĩ anh sắp ng~ lăn ra thình lình, bị rạch toét ra từ đầu tới
rốn, nhưng anh lặp trở lại, hai mắt đăm đăm:
- Chỉ tại cái bôm trừ lửa đấy!...
Tôi, tôi nghĩ: anh ta điên rồi đó, anh ta sắp hoa tay múa ch}n…
Nhưng mắt anh đ~ rời chiếc phi cơ, b}y giờ chắc chắn là khỏi cháy,
anh quay lại nhìn tôi và bảo:
- Không can chi cả, chỉ tại cái bôm trừ lửa nó móc v{o đầu gối tôi.
3
Làm sao cắt nghĩa được, làm sao tôi còn sống sót. Tôi cầm đèn bấm
trong tay, lần theo vết chiếc phi cơ trên mặt đất cách chỗ nó ngừng hai trăm
năm mươi thước, đ~ bắt đầu thấy những mảnh sắt xoắn cong và những
mảnh tôn tung tóe trên mặt cát, suốt cả khoảng đường. Sáng ngày ra, chúng
tôi mới thấy rõ l{ phi cơ chúng tôi đ~ chạm dọc nhiều một mặt dốc dịu, ở
trên một dải cao nguyên hoang liêu. Ngay tại chỗ chạm cọ đầu tiên, có một
lỗ thủng trong cát, giống như lỗ thủng do một lưỡi c{y đ{o. Phi cơ không
thọc mạnh, đ~ theo trớn bay m{ trườn đi trên bụng như lo{i bò s|t, cuồng
nộ rung chuyển lướt tới như một c|i đuôi rắn điên dại phiêu bồng. Trong
tốc độ hai trăm bảy mươi c}y số một giờ, nó đ~ bò, l{ thế. Và chúng tôi nằm
trong cuộc nọ mà vẫn còn giữ được cái mạng mình, chắc là nhờ những viên
đ| đen tròn trịa, dìu dặt tự do lăn tròn trên mặt c|t, đưa lại cho phi cơ một
c|i đ{ dịu ngọt, như chăn nệm êm đềm còn đ{o tạo thành giữa cơn hấp hối
một trận ngang ngửa của lá cánh dìu dập, thể xác suýt tan tành, mà hồn
mộng đ~ t|i sinh.
Prévot lo bứt dây cho các hòm chứa điện để tránh sự nổ cầu chì gây
hỏa hoạn về sau. Tôi tựa lưng v{o c|i động cơ, v{ suy nghĩ: trong lúc bay, có
thể tôi đ~ phải chịu đựng trong bốn giờ mười lăm phút, một cơn gió năm
mươi c}y số một giờ, trong mình tôi quả thấy thật rời rạc. Nhưng nếu gió có
đổi thay tốc độ khác những dự ước ban đầu, tôi vẫn hoàn toàn không thể
biết nó trở hướng ra sao. Thế thì định vị trí cho mình ở trong một khoảng
vuông mỗi bề bốn trăm c}y số.
Prévot tới ngồi cạnh tôi và bảo:
- Còn sống, thật là chuyện lạ lùng…
Tôi không trả lời gì cả, và không cảm thấy một chút hân hoan. Một ý
nghĩ nho nhỏ len lỏi tới, len lấn v{o trong đầu, và nhẹ nhẹ xui tôi băn khoăn.
Tôi bảo Prévot hãy bấm đèn của anh lên để làm tiêu mốc, rồi tôi cầm
đèn của mình bước thẳng về phía trước mặt. Tôi chăm chú nhìn mặt đất. Tôi
tiến đi chầm chậm, theo một nửa vòng tròn thật rộng, và nhiều lần thay đổi
hướng đi. Tôi so|t tìm mặt đất, như kiếm một chiếc nhẫn rơi. Khi n~y, tôi
cũng đ~ chờ ngọn lửa thiêu như vậy. Tôi vẫn đi ho{i trong bóng tối, lom
khom trên cái vòm tròn ánh sáng của chiếc đèn tôi dọi ra. Thật vậy rồi…
Thật vậy rồi. Tôi lần lần quay lại phía phi cơ. Tôi ngồi cạnh phòng máy và
ngẫm nghĩ. Tôi cố tìm một lý do để hi vọng và ngẫm nghĩ. Tôi kiếm một dấu
hiệu đời sống đem về, nhưng đời sống không ra dấu nào cả cho tôi.
- Prévot, tôi không thấy một ngọn cỏ n{o đ}y cả.
Prévot nín lặng, tôi không biết anh đ~ hiểu ý tôi chưa. Rồi ta sẽ bàn trở
lại chuyện này, khi màn kịch sẽ kéo lên lúc trời hừng s|ng… Tôi chỉ thấy mệt
mỏi vô cùng, tôi nghĩ: “khoảng bốn trăm c}y số, ở giữa lòng sa mạc!...”. Bỗng
vọt đứng lên:
- Nước!
Bình chứa xăng, bình đựng dầu, thảy đều vỡ sạch. Các bình chứa nước
cũng không hơn gì. C|t đ~ hút hết toi loi, không còn một giọt. Chúng tôi tìm
lại được một nửa lít cà phê ở đ|y một thermos bể vụn, một phần tư lít rượu
trắng ở đ|y một bình khác. Chúng tôi lọc các thứ nước uống đó v{ tỉ mỉ trộn v{o nhau. Chúng tôi cũng tìm ra được một ít nho và một quả cam hường.
Nhưng tôi nhẩm tính: “Năm giờ đi trong sa mạc, dưới ánh nắng mặt trời, sẽ
chẳng còn chi…”.
Chúng tôi vào nằm trong máy bay, tôi duỗi dài, tôi sắp ngủ, tôi đưa v{o
chiêm bao tất cả đầu đuôi cảnh trạng bây giờ: chúng tôi tuyệt nhiên không
rõ vị trí mình l{ đ}u cả. Chúng tôi không có đủ một lít nước uống. Nếu
chúng tôi rơi tại trên đường bay, hoặc xê xích chút ít, thì cũng tám ngày sau
mới mong người ta tìm thấy, không mong gì sớm hơn, v{ khi đó thì đ~
muộn. Còn nếu chúng tôi rơi lệch ngả, thì sáu tháng sau mới có người tìm
thấy. Không thể trông cậy vào những phi cơ: chúng sẽ tìm kiếm chúng tôi
trên dặm đường ba nghìn cây số.
- A! Rủi thật… Prévot bảo.
- Vì sao?
- Mình đ|ng lẽ đ~ được chết hay ho trong một nháy.
Nhưng không lẽ chịu đầu hàng vội thế. Prévot và tôi trấn tĩnh lại tinh
thần. Không thể tuyệt vô hy vọng. Có thể tình cờ may mắn, dù rất mỏng
manh, được một phi cơ ngẫu nhiên như thần linh bất ngờ tới cứu. Cũng
không được phép bó tay ngồi lì, bỏ lỡ một oasis gần gũi đ}u đó, không
chừng. Biết đ}u…? Bữa nay, chúng ta sẽ đi suốt ngày. Rồi quay trở lại bên
phi cơ. V{ trước khi đi, chúng ta sẽ vạch chương trình bằng chữ thật to ghi
trên mặt cát.
Vậy l{ tôi khoanh người nằm yên ngủ cho tới sáng. Và tôi rất sung
sướng mà ngủ. Bao nhiêu nhọc mệt vây phủ tôi trong một vòng ảnh hình
vang bóng. Tôi không còn cô độc trong sa mạc, giấc ngủ thiu thiu như lai
láng biết bao giọng nói, c}u cười, những kỷ niệm, những tiếng tâm sự thổ lộ
thì thầm. Tôi chưa thấy kh|t nước, tôi còn cảm thấy khỏe khoắn bình an, tôi
phó thân mình cho giấc ngủ như phó hết cuộc đời cho mạo hiểm mang đi.
Thực tại lùi dần, nhường đất đai cho mộng tưởng…
A! Sự việc không còn như vậy nữa, lúc trời sáng ra!
4
Tôi đ~ từng yêu Sahara. Tôi đ~ từng sống nhiều đêm tại những vùng
phiến loạn. Tôi đ~ từng thức giấc giữa bãi rộng hồng v{ng gió đùn lên đợt
sóng như trên mặt trùng dương. Tôi đ~ từng nằm đó chờ người tới cứu, và
ngủ dưới c|nh phi cơ, nhưng không s|nh được với sự vật tại chốn này.
Chúng tôi bước đi bên sườn hông những ngọn đồi cong mỏm. Chất đất
gồm toàn là cát phủ kín bằng lớp sỏi đen bóng lo|ng trông như những vảy
kim khí, và tất cả các chỏm đồi xung quanh chúng tôi cũng óng |nh như gi|p
sắt. Chúng tôi lạc trong một thế giới khoáng thạch. Chúng tôi bị vây hãm
trong một khung cảnh sắt.
Vượt qua chóp đồi thứ nhất, thấy xa xôi một chóp kh|c tương tự, cũng
lóng l|nh đen sì. Chúng tôi vừa bước đi, vừa kéo lết gót giày cho sát mạnh
vào mặt đất, cốt để đ|nh dấu con đường, lát nữa mò theo mà quay về.
Chúng tôi nhằm thẳng mặt trời m{ đi tới. Theo hướng chính Đông, đó l{
điều quyết định tối ư vô lý của tôi. Không có một lý lẽ n{o thích đ|ng xui tôi
nhằm theo hướng đó, bởi vì thảy thảy cùng cho phép tôi nghĩ rằng đ~ vượt
quá sông Nil: cả khí tượng, cả thời gian đ~ bay. Nhưng tôi đ~ có thử nhằm
theo hướng T}y m{ đi một đoạn ngắn, và cảm thấy một nỗi khó chịu, một
mối bất an, không biết do đ}u. Thế là tôi quyết định g|t hướng Tây lại ngày
mai. Và tạm thời cũng bỏ qua hướng Bắc, tuy hướng n{y đưa ra biển. Ba
ngày sau, giữa một cơn b{ng ho{ng mê sảng, khi chúng tôi quyết định từ giã
hẳn chiếc phi cơ v{ bước thẳng tới phía trước cho tới lúc kiệt sức, chúng tôi
cũng lại nhằm hướng Đông m{ đi. Đúng hơn l{ nhằm Đông Đông Bắc, cũng
một cách thật vô lý, và thật không hy vọng gì cả. V{ sau n{y, được giải cứu,
chúng tôi mới nhận thấy rằng không một hướng nào khác có thể giúp chúng
tôi thoát nạn trở về, bởi vì nếu theo hướng Bắc thì nửa đường kiệt lực,
chúng tôi không l{m sao đi cho tới biển. Nói ra nghe thật là phi lý buồn
cười, nhưng quả thật ngày nay tôi cảm thấy dường như rằng trong lúc tịt
mù phương hướng, không có một chút chỉ dẫn nào hoặc nhiếp triệu n{o để
dựa vào mà chọn hướng đi, thì tôi đ~ chọn hướng Đông
[4]
chỉ bởi cái lý do duy
nhất l{ hướng đó xưa kia đ~ từng giải cứu được người bạn thân thiết của tôi là anh
Guillaumet từng rơi lạc trong d~y Andes, nơi tôi đ~ bay lùng khắp ngả tìm kiếm anh. Từ đó,
về sau, đối với tôi, phương Đông đ~ }m thầm trở th{nh phương trời của sự sống.
Đi suốt năm giờ, thì phong cảnh thay đổi. Một dãy cát uốn mình như
một dòng sông chảy giữa một miền thung lũng, v{ chúng tôi men theo đ|y
thung lũng m{ đi. Chúng tôi dấn bước thật nhanh, chúng tôi cần đi gấp, đi xa
được bao nhiêu hay bấy nhiêu và quay trở về trước lúc trời tối, nếu không
tìm kiếm được gì. Bất thình lình tôi dừng lại:
- Prévot.
- Gì?
- Những dấu ch}n…
Từ bao l}u chúng tôi đ~ quên không vạch đường làm dấu ở sau lưng?
Nếu không tìm lại được lối về, thì chịu chết.
Chúng tôi trở gót, nhưng chếch hướng về phía tay phải. Khi đ~ kh| xa,
chúng tôi sẽ đ}m ngang theo hướng thẳng góc với hướng ban đầu này, thì
thế n{o cũng bắt gặp trở lại những dấu chân trên quãng đường có vạch dấu.
Lúc đ~ tìm lại được mối dây nọ, chúng tôi tiếp tục đi. Khí nóng tăng
lên, và cùng với khí nóng, ảo ảnh huyễn hoặc hiện ra. Thoạt tiên chỉ là
những ảo ảnh lai rai thôi. Những hồ nước lớn hiện ra và biến mất, lúc chúng
tôi vừa tới. Chúng tôi quyết định vượt ngang thung lũng c|t, v{ leo lên chóp
đồi cao nhất để quan sát chân trời. Chúng tôi đi đ~ được sáu giờ. Với những
bước sãi rộng kia, ắt là phải đi được hơn ba mươi lăm c}y số rồi vậy. Chúng
tôi đ~ lên tới chóp ngọn đồi đen thui nọ, lặng lẽ ngồi xuống. Dưới chân
chúng tôi, thung lũng c|t bò v{o chìm trong một vùng cát hoang liêu không
có đ|; |nh s|ng trắng bạch chói rực như thiêu đốt mắt. Xa tít đằng kia là mù
khơi trống rỗng. Nhưng tận chân trời, trò sõa lộng của ánh sáng tạo nên
những ảo ảnh h~i hùng hơn. Xui t}m cuồng trí loạn. Những ph|o đ{i đồn
lũy, những th|p chuông gi|o đường, những khối kỷ hà với những đường
thùy trực. Tôi còn nhận thấy cả một vết đen khổng lồ tựa hồ một vùng cây
cỏ, với nước ngâm trong vắt, mà thấy gì thật ra? Một áng mây tụ trên vòm
nọ, áng mây cuối cùng trong những |ng m}y đ~ lang thang tan mất hình hài
trong lòng nắng rộng ngày trời và sẽ hiện trở lại ngậm ngùi trên sa mạc
chiều nay.
Tiến thêm cũng chẳng ích gì, toan tính bước nữa cũng chẳng đưa tới
đ}u. Thôi phải liệu quay về bên chiếc phi cơ, c|i phù tiêu sặc sỡ đỏ hồng và
trắng phếch nọ sẽ không chừng m{ được các bạn hữu lưu t}m lần mò tới gạ.
Mặc dù chẳng hy vọng nhiều nơi những cuộc tìm kiếm của họ, tôi vẫn cảm
thấy đó l{ chút may duy nhất còn có thể giải cứu được chúng tôi. Và phải về,
nhất là bởi lẽ những giọt nước uống cuối cùng, chúng tôi để tại đó, v{ b}y
giờ đ~ tới lúc phải uống, tuyệt đối phải uống, không thể kiên trì. Phải về để
sống. Chúng tôi là những tên tù bị giam hãm trong cái vòng sắt: cái khát là
nước, nó vạch biên thùy của một miền tự do tự trị rất mực phù du.
Nhưng khổ não làm sao, là quay gót! Khảm kha thế nào là cái việc lui
chân! Và biết chừng đ}u, nếu cứ tiến thêm một chút nữa, có thể bất ngờ
thấy cõi sống đương cười xinh. Phía bên kia những dã man ảo ảnh, biết
chừng đ}u ch}n trời hồng thắm đương chứa chan những Chợ Lớn phố
phường, những Chợ Nồng phố hội, những đô th{nh thật sự đương lai l|ng
chờ ta, những nguồn tươi nước ngọt, những thủy thảo thúy thanh đương
ngẩn ngơ phơi linh hồn cho cỏ mọc đầy đủ hai hàng. Vẫn biết rằng quay trở
về là hợp lý. Ấy vậy mà vẫn cảm giác thấy như chừng bẻ lái một lần là trầm
lu}n vĩnh viễn. Hỡi ôi, em giết chết hồn ta trong cái lời kêu gọi.
Chúng tôi nằm bên cạnh phi cơ. Chúng tôi đ~ đi hơn s|u mươi c}y số,
và trở về mang đủ hơn s|u mươi c}y số ở trong khớp xương ch}n. Nước
uống đ~ nốc cạn rồi. Mà chân mây biền biệt, chúng tôi nào có nhận ra được
c|i gì đ}u của diễm lệ phương Đông. Không một bạn hữa nào bay ngang
trên cõi bờ này cả. Chúng tôi sẽ chịu đựng được bao lâu nữa? Ghì môi chống
trọi tới bao giờ? Cái khát hoành hành, cháy bỏng suốt th}m t}m…
Chúng tôi góp nhặt vài mảnh vỡ c|nh phi cơ, v{ dựng lên một giàn lớn.
Chúng tôi đ~ chuẩn bị xăng v{ tồn ma nhê di, để ánh lửa sẽ chói trắng thêm
ra. Chúng tôi đ~ đợi cho đêm tối thật đen rồi mới đốt lửa… Nhưng đ}u l{
bóng d|ng con người?
Bây giờ ngọn lửa lên cao. Bây giờ chúng tôi thiêng liêng nhìn ngọn lửa,
ngọn đèn hiệu giữa mùa sa. Chúng tôi nhìn tỏa rạng trong đêm c|i tiếng kêu
của mình, tiếng kêu lặng lẽ âm thầm, tiếng kêu phập phồng lai láng. Và tôi
nghĩ: nếu nó mang đi một lời gọi đ~ rất mực thiết tha, thì nó cũng mang đi
những tình yêu vô hạn. Chúng tôi yêu cầu được uống, nhưng chúng tôi cũng
đòi hỏi cảm thông. Chỉ con người mới sử dụng lửa, thì xin con người hãy đ|p ứng chúng tôi! Một ngọn lửa kh|c h~y bùng lên, để cho ngọn lửa này
không còn là lửa suông trong sa mạc!
Tôi thấy lại hai con mắt vợ tôi. Tôi sẽ không thấy gì nữa ngo{i đôi mắt
đó. Đôi mắt hỏi gì tôi thế? Tôi thấy lại những con mắt của mọi người, của tất
cả những ai còn kỳ vọng ở tôi nhiều, có lẽ… V{ những con mắt đó cũng nêu
câu hỏi ra. Cả một quần hội nh~n quan đương nhìn v{ tr|ch tôi sao lặng lẽ.
Tôi xin đ|p! Tôi xin đ|p! Bằng tất cả tinh anh và thể ph|ch, tôi xin đ|p b}y
giờ, trong đêm tối, có bao giờ tôi có thể còn có lần đốt ngọn lửa sáng rực
hơn không?
Tôi đ~ gắng hết sức mình. Chúng tôi đ~ kiệt tận miên bạc bình sinh: đi
s|u mươi c}y số, hầu không một ngụm nước vào mồm. Bây giờ trở đi, chúng
tôi không còn uống nữa. Nếu chúng tôi không còn đủ sức nhẫn nại chờ
mong nữa, thì tội lỗi có phải tại chúng tôi không? Chúng tôi rất có thể ngồi
im lìm tại đó, ngoan ngo~n ghì môi bú mòn bình đựng nước. Nhưng ngay c|i
lúc tôi hút cạn giọt cuối cùng tại đ|y thiếc, thì một c|i đồng hồ đ}u đó đ~
trỗi dậy lên đường. Ngay cái lúc tôi hít xong giọt cuối, thì một con đường
dốc đ~ mở ra. Tôi bắt đầu lăn xuống. Tôi biết l{m sao được, trên cái dòng
thời gian như nước lũ cuốn thân tôi. Prévot khóc. Tôi vỗ vào vai anh. Tôi an
ủi bảo:
- Nếu chết, thì cho chết…
Anh trả lời:
- Nếu anh tưởng tôi khóc cho th}n tôi…
A! Chính thế, tôi đ~ nhận chân một sự việc hiển nhiên. Không có gì
không chịu đựng nổi. Ngày mai, ngày mốt, tôi sẽ hiểu mãi rằng quả thật
chẳng có gì là không chịu nổi. Tôi chỉ tin một phần ở tác dụng của khổ hình.
Tôi đ~ từng suy gẫm về lẽ đó. Tôi đ~ tưởng phải chết đuối một lần ng{y xưa,
vì mắc nghẽn trong một phòng máy, và vẫn không thấy đau đớn lắm. Tôi đ~
tưởng đôi lần bị vỡ mặt, và vẫn chẳng thấy đó l{ một biến cố trầm trọng chi.
Đ}y cũng vậy, lần n{y tôi cũng sẽ không biết khắc khoải l{ gì. Mai đ}y, tôi
cũng sẽ còn được biết thêm nhiều điều kỳ dị hơn nữa. Và chỉ có Trời biết,
mặc dù tôi đốt lửa, lòng tôi đ~ từ bỏ hy vọng gọi thấu tai người…
[5]
“Nếu anh tưởng tôi khóc cho th}n tôi…”. V}ng, v}ng, đó mới l{ điều
không thể nào chịu nổi. Mỗi lúc tôi nhìn thấy lại những con mắt kia đương
chờ, mỗi lần lòng thấy như thiêu đốt. Đột ngột muốn đứng lên và chạy thẳng
tới trước. Đằng kia, ở đằng kia, con người đang kêu cứu, con người đang
đắm thuyền!
Vai tuồng đảo lộn, dị thường thay! Nhưng ý tưởng của tôi luôn luôn là
như vậy. Nhưng tôi phải cần có Prévot mới dám tin chắc hoàn toàn. Phải rồi,
Prévot sẽ không biết gì tới cái nỗi thống khổ khắc khoải trước tử thần, mà
thiên hạ nói tới đ~ ch|n tai. Nhưng còn một c|i gì đó, anh không chịu đựng
nổi, v{ tôi cũng vậy.
A! Tôi hài lòng chịu ngủ, ngủ ngắn một đêm hay ngủ dài vạn đại. Ngủ
được, sẽ không còn nhận được cái chỗ khác nhau. Ngủ được, thì yên bình
biết mấy! Nhưng còn những tiếng kêu của thiên hạ ở xa kìa, nhưng còn
những ngọn lửa khổng lồ của nỗi đời, tôi không chịu đựng nổi. Tôi không
thể khoanh tay trước những cuộc đắm thuyền trầm luân nọ! Mỗi giây dần
dà im lặng đều giết một ít những kẻ thân yêu. Một cơn giận dữ điên cuồng
nổi dậy: tại sao có những sợi dây xiềng triền phược kia cứ lướng vướng
ngăn cản tôi, không để tôi chạy tới kịp giờ mà giải cứu những kẻ đương
chìm đắm? Tại sao ngọn lửa chúng tôi đốt lên không mang tiếng kêu của
chúng tôi tới tận cùng tr|i đất? Nhẫn nại nhé!... Chúng tôi tới đ}y rồi! Chúng
tôi tới kịp rồi!... Chúng tôi là những người đến cứu!
Chất ma-giê-nhi đ~ tận, và ngọn lửa chuyển sang m{u đỏ. Giờ chỉ còn
lại một mớ than hồng, chúng tôi nghiêng mình xuống sưởi. Thế là hết. Lời
nhắn gửi sáng ngời của chúng tôi đ~ tắt. Nó đ~ khua động được gì? Nó đ~
giục gi~ được gì trong cuộc thế xa kia? Ồ! Tôi vẫn biết rằng nó chẳng thôi
thúc được gì cả. Chẳng có gì đ~ từ đó m{ xao xuyến tư lự lên đường. Đó chỉ
là một lời cầu nguyện không được một ai nghe.
Thôi được. Tôi sẽ xin đi ngủ.
5
Chớm bình minh, chúng tôi lấy một cuộn dẻ xoa vào những cánh phi
cơ, thấm lấy những giọt sương đọng, vắt ra được một ngụm nước ở đ|y ly
lẫn mùi sơn v{ mùi dầu. Thật đ|ng buồn nôn, nhưng cứ phải uống. Ít ra là cũng thấm ướt được hai môi. Tiệc xong, Prévot bảo:
- Cũng may l{ còn khẩu súng lục.
Đột nhiên tôi nổi đóa, tôi tức tối quay lại nhìn anh. Trong lúc này, tôi
không căm hờn gì bằng chuyện tình cảm ủy mị. Tôi tuyệt đối cần phải coi
mọi sự đều đơn giản. Sinh ra đời, là một điều đơn giản. Lớn lên, cũng l{ điều
đơn giản. Và chết kh|t, cũng l{ điều đơn giản. Biến làm sa mạc cũng l{ điều
đơn giản.
Tôi đưa khóe mắt liếc chừng, xem xét Prévot, sẵn sàng nặng lời cay cú
nếu cần, để buộc anh ngậm miệng. Nhưng Prévot đ~ nói với niềm bình thản.
Anh chỉ bàn tới một vấn đề vệ sinh. Anh nêu sự vụ ra theo điệu nói: “Chúng
ta cần phải rửa tay cho sạch sẽ”. Thế l{ chúng tôi đồng ý nhau. Hôm qua tôi
cũng có suy gẫm tới điều đó, lúc nhìn c|i bao da khẩu súng. Những điều tôi
suy nghĩ chỉ có tính chất hợp lẽ phải, và không thống thiết. Chỉ có chuyện xã
hội là thống thiết mà thôi. Chuyện chúng tôi bất lực không làm yên lòng
được cho những người mà chúng tôi chịu trách nhiệm. Chứ không phải
chuyện khẩu súng lục.
Người ta vẫn không tới tìm chúng tôi, hay đúng hơn, chắc l{ người ta
tìm kiếm chúng tôi ở những chốn khác. Chắc họ tìm tại Arabie. Thật ra
chúng tôi đ~ không nghe được một tiếng phi cơ n{o trước ng{y mai, nghĩa
l{ v{o lúc chúng tôi đ~ rời bỏ phi cơ của mình. Tới ngày mai sẽ có nghe một
bận… Một phi cơ duy nhất sẽ bay qua, và xa xôi quá, chúng tôi hờ hững
ho{n to{n. Có nghĩa gì đ}u, chúng tôi nhúc nhích tại đ}y, hai chấm đen heo
hút hòa lẫn trong ngàn vạn chấm đen hút heo giữa sa mạc, chúng tôi mong
gì được nhận ra. Những ý nghĩ người ta sẽ gán cho tôi về cái cảnh huống
điêu linh n{y, thật l{ không x|c đ|ng một tí nào. Tôi không cảm thấy đau
đớn điêu linh. Những kẻ đi tìm cứu chúng tôi, chúng tôi tưởng chừng như
họ vãng lai tuần du trong một vũ trụ mơ hồ khác.
Phải mất mười lăm ng{y sục sạo mới tìm ra một chiếc phi cơ lạc lõng,
hồn hồn ngạc ngạc rơi v{o sa mạc mông lung, tại đ}u đó, trong khoảng
ngậm ngùi ba nghìn cây số biệt tăm. Ấy thế, chắc l{ người ta đang tìm kiếm
chúng tôi từ miền Tripolitaine tới xứ Perse. Tuy nhiên cho tới hôm nay, tôi
vẫn còn giữ chút hy vọng nơi một sự ngẫu nhĩ may mắn mong manh, vì
ngo{i ra còn có gì đ}u kh|c để hy vọng. Rồi, tôi đổi phương s|ch mưu lược, quyết định tự một mình một th}n đi tìm kiếm. Prévot thì cứ ở lại đ}y, soạn
sửa sẵn một dàn lửa và sẽ đốt lên nếu gặp trường hợp có phi cơ quanh quất
tới gần. Nhưng rồi chẳng có ai tới gần thăm viếng cả.
Tôi ra đi vậy, v{ cũng chẳng rõ sẽ còn sức mà trở lại hay không. Tôi
nhớ lại những gì đ~ từng biết về sa mạc Libye. Trong sa mạc Sahara, thì còn
có được 40% khí ẩm, nhưng tại đ}y, khí ẩm chỉ có 18%. Mà sinh khí con
người ta thì cũng tan mau như khí ẩm. Người Bédouin, kh|ch du h{nh, sĩ
quan thuộc địa, đ~ cho biết rằng người ta chỉ nhịn kh|t được trong vòng
mười chín giờ m{ thôi. Sau hai mươi giờ thì mắt hoa lên, và bắt đầu kết liễu:
c|i kh|t đi nhanh như sấm chớp.
Nhưng ngọn gió Đông Bắc, ngọn gió bất thường kia trước đ}y đ~ phờ
phỉnh chúng tôi, đ~ bất ngờ hãm chúng tôi vào vùng cao nguyên tử địa này,
chính ngọn gió Đông Bắc trớ trêu nọ, giờ đ}y ắt là kéo dài cái mạng sống của
chúng tôi ra đôi chút. Nhưng thời hạn kéo d{i l{ được bao lâu? Bao lâu nữa
thì tới cái giờ của mắt hoa đầu choáng?
Tôi đi vậy, đi thôi, đi nữa, nhưng có cảm tưởng như đi trên xuồng nhỏ
đơn chiếc lạc loài trên dặm biển trùng điệp đại dương.
Tuy nhiên nhờ ánh sáng rạng đông, cảnh vật cũng bớt phần thê thảm.
Và tôi thọc tay v{o túi bước đi theo điệu côn đồ trộm cắp. Tối hôm qua,
chúng tôi có gài nhiều bẫy quanh miệng vài cái hang bí mật, và sáng nay
máu Liệp Hộ lôi thôi đ~ bừng dậy trong mình. Tôi đi, đi xem xét những cái
bẫy coi nào: sao mà trống rỗng?
Thế ra là sẽ không uống được máu? Máu chồn? Máu chuột? Thôi thì
cũng được, nào mình có hy vọng gì uống được một phen đ}u.
Thất vọng quả là không có, mà trái lại, xem ra trong dạ lại động ý tò
mò. Những con thú kia, ăn chi m{ sống? Những con thú nọ, lấy chi mà
dưỡng dục lẽo đẽo phôi pha? Đ{o đ}u ra lương thực mơ hồ, vì đ}y l{ sa
mạc? Chắc hẳn những thú kia thuộc loại chồn lùi trong cát, chồn nhỏ sa mạc
phiêu bồng, to bằng con thỏ, điểm trang bằng hai vành tai khổng lồ lẽo đẽo
mang đi. Nghĩ tới mà thèm, lòng ham nó khêu gợi, tôi bèn lần mò theo dấu
một con kia. Dấu ghi trên cát lần hồi dẫn tôi tới một dải sông con bằng cát
mịn, để lồ lộ nguyên bình phơi rõ nét những vết ch}n xiêu. Tôi ưa thích nên trầm trồ cái cánh xòe rẽ quạt của ba ngón mở ra, như c|nh l{ kè tươi xinh
phong nhụy. Tôi hình dung trong tưởng tượng người bạn mình yểu điệu
nhảy lưa thưa lúc bình minh óng ả, và le chiếc lưỡi hồng mà liếm giọt sương
nằm lửng lơ trên đ| nh|m. Tới đ}y, tại chỗ này, những dấu chân cách bức:
em chồn của tôi đ~ tung cẳng chạy nhanh. Tại đ}y, một b{n tình đ~ nhảy về
nhập trận, đôi lứa nhảy song song. Tôi chứng giám cái cuộc chồn yêu nhau
bình minh dạo mát, tôi thấy lòng khôn xiết kỳ lạ lâng lâng. Tôi yêu những
chứng tích kia của sự sống. Và quên bớt chút ít rằng mình đương ở trong
một cơn kh|t thiết tha…
Bây giờ tôi tới gần những tủ chứa thức ăn của các anh chị chồn. Tại
đ}y s|t mặt cát, có một trăm thước, lại thấy mọc nhô lên một loại cây nhỏ
xíu, khô khan, thấp như một c|i xô đựng súp, thân cành thấy bu b|m đầy
tràn những con sên vàng óng. Mỗi bình minh, anh chồn nhỏ lại tới đ}y lấy
thức ăn. Tại đ}y tôi bắt gặp một huyền nhiệm thiên nhiên.
Anh chồn không dừng chân lại bất cứ cây nào. Có những c}y đầy sên,
nhưng anh lại xem thường. Có những c}y anh đi vòng quanh quất, ra vẻ
thận trọng vô cùng. Có những cây anh ghé tới, nhưng không chạm vào quá
đ|ng. Anh ngắt sơ qua v{i tr|i, bẻ sơ qua v{i đóa, rồi đổi quán ngay.
Phải chăng anh có ý chịu chơi theo lối phiêu bồng: không vội vã làm
ngay một vố lăn lóc ch|n chường, là cốt để kéo dài cái cuộc hưởng thụ thú
vui bình minh dạo gót? Tôi không tin như vậy. C|i điệu chơi của anh chồn
coi ra thật quá phù hợp với một s|ch lược tồn sinh tối ư cần thiết. Nếu anh
chồn cứ lầm lũi gầm đầu xuống mà đ|nh chén thật no nê ngay tại trận với
những sản vật của c}y đầu, thì chỉ trong vài phen thịnh soạn, thì đi đời vốn
liếng cửa sống nhà ma. Và theo lối đó, từ cây bé này tới cây bé khác, anh
chồn sẽ lần hồi diệt tuyệt hết cái kho sinh tồn anh chi chút chăn nuôi.
Nhưng anh chồn đ}u phải l{ người quá tham nên biến thành dại dột. Anh
rất thận trọng kiêng dè đừng có quá ngứa nghề mà làm trở ngại cái bụng
mang dạ chửa thai nghén cho ng{y sau. Do đó, chẳng những anh một lần ăn
là dò dè luôn một trăm c}y ph}n phối, mà anh còn cẩn trọng chẳng bao giờ
dám vin vào một cành cây bận mà bẻ tới hai đóa hoa tr{ mi l}n cận một
phen. Mọi sự xảy ra đều cho thấy như tuồng anh ý thức được mối nguy cơ
tai hại về sau. Nếu đổ vùi ra ăn không dè chừng hạn chế, thì mọi sên mọi ốc
sẽ sạch nhẵn trên mâm. Mảnh sên còn một chút này. Chẳng cầm cho vững
lại giày cho tan? Sên chẳng còn, thì chú cũng tan hoang. Thiệt đ}y m{ có ích cho ch{ng chút chi đ}u.
Dấu ch}n đưa tôi tới hang chồn. Anh chồn chắc đang nằm trong đó
vểnh tai lắng nghe, kinh hoàng vì tiếng chân tôi dội tới. Tôi bảo: “Chồn bé
của tôi ơi, tôi bẽ bàng mạt lộ, nhưng lạ lùng làm sao, là không vì lẽ đó m{
hững hờ không lưu ý tới nông nỗi của chồn đ}u…”.
V{ tôi đứng đó mơ m{ng một trận, v{ tôi tưởng chừng rằng cái con
người ta gặp gì gì đi nữa rồi cũng tìm ra được cái nhịp tiết thích nghi. Nghĩ
rằng mình có lẽ sẽ chết ba mươi năm sau, ý tưởng đó không l{m tổn thương
niềm vui hiện tại. Bươi mươi năm, ba ng{y… chỉ là một vấn đề quan điểm.
Nhưng cần phải quên đi v{i hình ảnh…
Bây giờ tôi tiếp tục đi, v{ với nỗi nhọc mệt tăng dần, một cái gì trong
người tôi cũng biến dạng. Ảo ảnh, nếu chẳng có ư, thì tôi lại tạo ra cho nó…
- Ô ê!
Tôi đưa tay lên m{ hú lớn, nhưng c|i người tôi thấy múa tay múa chân
đ{ng kia chỉ là một hòn đ| đen sì. Mọi vật trong sa mạc đ~ bắt đầu động đậy.
Tôi muốn đ|nh thức g~ Bédouin kia đang nằm ngủ, thì hắn đ~ biến thành
một th}n c}y đen thui. Th{nh một thân cây? Thế thời lạ thật. Tôi cúi xuống
nhìn. Tôi muốn nâng dậy một cành cây gãy: nó bằng cẩm thạch! Tôi đứng
thẳng người lên đưa mắt nhìn quanh quất; thấy bao nhiêu khối cẩm thạch
đen kh|c. Một khu rừng thời thái cổ trút tại đ}y xiết bao l{ th}n c}y g~y đổ.
Nó tan t{nh như một tòa nhà thờ lộng lẫy tan hoang, kể từ vạn kỷ lòng em
nhớ lòng anh tơi tả dưới phong ba cuồng loạn thai nghén khởi nguyên. Và
vạn kỷ đ~ xô về từ nguyên thủy tới bên tôi những cột trụ khổng lồ, nhẵn
nhụi kia, bóng ngời như những thanh sắt thép, cứng rắn im lìm, lóng lánh
như gương, m{u đen như mực. Tôi còn nhận ra những gút mắc của cành,
những quằn quại hoại sinh, những vết ngần thai nghén. Khu rừng hoang sơ
vốn xưa kia l{ dạt d{o sinh động, suối phong tình, chim nhã nhạc, liễu phiêu
diêu… m{ về sau gặp hung vận, đ~ tan t{nh hóa l{m chất muối. Tôi cảm thấy
phong cảnh này chẳng niềm nở với tôi. Nó gay gắt chối từ không tiếp đón.
Đen đủi hơn những lớp giáp sắt bọc những ngọn đồi kia, những di tích
hoang tàng này không dung nạp cái thằng người tôi tới viếng. Tôi tới đ}y
làm gì, tôi là sinh vật, tôi định mở cuộc gì giữa hàng hàng cẩm thạch trơ trơ? Tôi, con vật phù du, tôi, cái hình hài sắp tan biến, tôi định giở trò gì nữa
phong cảnh của vô cùng, mà chỉ riêng vạn đại được quyền đối thoại với
thiên thu?
Từ bữa hôm qua tôi đ~ vượt gần t|m mươi c}y số. Tôi choáng váng
thế này chắc là tại qu| kh|t nước chăng. Hoặc vì nắng đốt. Nắng mặt trời
chói rực trên những cột thân cây bóng lộn v{ như cóng gi| vì dầu xoa mỡ
xát. Nắng mặt trời chiếu rực trên ân tình cái mu gộp mênh mông phủ tràn
lan trên mọi vật. Đ}y không còn c|t, đ}y chẳng còn chồn. Đ}y chỉ còn có một
c|i đe đồ sộ. Tôi đang bước đi trên hòn đe đó. V{ ở trong đầu mình, tôi nghe
rõ tiếng nắng trời ròng rã dội từng cơn. A! Kia kìa…
- Ô ê! Ô ê!
- Ô ê c|i gì, đằng kia chẳng có chi cả, đừng có lao xao ho{i hơi nhọc khí,
chẳng có gì hết, chỉ có mộng cuồng mê dại mà thôi.
Tôi tự nhủ mình, tôi cần tự nhủ mình, tôi cần bám vào lý trí trong lúc
tâm thần đương bấn loạn trở cơn. Khó khăn l{m sao, l{ c|i việc phải xoa tay
chối từ cái vật, c|i đồ mà con mắt thấy. Khó khăn sao, l{ c|i việc tự hãm hai
ch}n mình, đừng để cho nó chạy ù tới cái tốp người du h{nh đang tiến bước
đằng kia… kia kìa… m{y đang thấy đó!
Ngốc ơi l{ ngốc, m{y cũng biết chứ, là chính mày ngốc nghếch tạo đủ
thứ vật n{y, b{y đủ loại đồ nọ, đồ kia…
- Thế thì chẳng ra mọi sự ở đời chẳng có chi là thật…
Chẳng có chi là thật, ngoài cái thập tự giá ở đằng kia, c|ch tôi hai mươi
cây số, cắm ở chóp ngọn đồi, chờ đợi, đăm chiêu… C|i thập tự giá kia, hay là
cái ngọn hải đăng ấy…
Nhưng phía đó không phải l{ hướng đi ra biển. Vậy không phải hải
đăng. Chính là thập tự giá. Suốt đêm qua tôi cặm cụi trên bản đồ mà nghiên
cứu. Chỉ tổ hoài công. Bởi vì vị trí hiện tại của mình l{ đ}u, tôi n{o có biết.
Nhưng tôi gò lưng kiếm mãi một chút gì, một chút gì là dấu hiệu chỉ rõ sự
hiện diện của con người ta. V{ đ}u đó, tôi có nhận ra một cái khoảng tròn có ghi dấu chữ thập tương tự thế này. Tôi có xem lời bên dưới: “Tu viện”.
Bên cạnh chữ thập, tôi còn thấy một chấm đen. Tôi lại nhìn xuống câu
chú giải m{ đọc: “Giếng thường xuyên”. Tim tôi nhói lên một cái, máu phập
phồng đập liên hồi một trận, và tôi cất cao giọng đọc to: “Giếng Thường
Xuyên… Giếng Thường Xuyên… Nước Thường Trực… Uống Thường
Hằng…Ôi! Mộng tưởng ra hoa! Ôi, ảo huyền kết tr|i!” Hỡi Ali Baba! Hỡi
những kho tàng man dại! Có bao giờ của cải nào mà sánh kịp giọt giếng
ngần l{ nước chảy thường xuyên! Lệch xa hơn một chút, tôi lại còn o bế
nhìn thật rõ hai khoanh tròn trắng muốt. Tôi liếc dòm xuống dưới đọc lời ký
chú đinh ninh: “Giếng bất thường”. Giếng bất thường thì đ~ l{ bớt đẹp.
Giếng bất thường thì nước xòa ra nhất thời thỉnh thoảng. Rồi xét soát bốn
xung quanh chẳng còn gì nữa cả. Chẳng còn chút chi hết.
Thì kia kìa là tu viện của tôi! C|c tu sĩ đ~ dựng lên một cây thập giá
trên chóp đồi l{ để gọi bọn trầm luân? Thì tôi chỉ còn có mỗi một việc làm là
bước nhanh lại chớ. Thì tôi chỉ còn có mỗi một việc làm là chạy thẳng lại
chớ sao. Nào, các vị tu sĩ dòng Đa Minh, h~y mở vòng tay ra đón…
- Nhưng tại Lubye chỉ có những tu viện bổn xứ mà thôi.
- … Chạy tới những tu sĩ }n cần chuyên chú Đa Minh. Họ có một căn
nhà bếp lộng lẫy tươi mắt, nền gạch đỏ, và ngoài sân có một c|i bơm nước
hoen rỉ cũ c{ng ấy, anh hẳn l{ đ~ đo|n ra được đó… Dưới c|i bơm nước
hoen rỉ cũ kỹ tuyệt vời huyền diệu kia, đó l{ đúng c|i giếng thường xuyên
dào dạt vậy! A! Chốc l|t đ}y thôi thì đó l{ ấy sẽ… sẽ tưng bừng hội hè yến
tiệc nghi lễ hoan nghênh lúc tôi tới dội chuông ngoài cửa rộng, lúc tôi lại gần
đưa tay ra nắm và giật một c|i v{o đồ sộ c|i chuông…
- Thôi thì thằng ngốc! Mày mô tả gì đó! M{y lầm bầm mô tả một ngôi
nhà ở cố quận Provence
[6]
, mà kể ra thì tại đó có chuông kh|nh gì đ}u.
- … Lúc tôi sẽ đưa tay ra giật c|i chuông đồ sộ kia một c|i! Người gác
cửa sẽ chắp tay đưa lên trời và kêu to một tiếng: “Ông l{ sứ giả Nhà Trời!
Ông là Thiên sứ do Ngọc Hoàng sai xuống!” v{ anh ta sẽ ríu rít gọi toàn thể
các vị thầy tu. Họ sẽ tức tốc chạy tới. Và họ sẽ đón mừng khoản đ~i tôi như o
bế nâng niu một đứa bé con nghèo đói. V{ họ sẽ đẩy tôi khẳng khiu đi về
phía căn nh{ bếp lai láng khói nồng. Và họ sẽ bảo tôi: “Một phút, một giây, một giây phút nữa thôi, con ạ… chúng ta sẽ chạy tới cái giếng nước ngọt
thường xuyên…”.
Và tôi, tôi sẽ run như cầy sấy vì hồng phúc như dế giun chan rưới
mộng điên cuồng.
Nhưng không, tôi không muốn khóc chỉ vì lý do duy nhất là chẳng còn
đ}u nữa cái thập tự giá ở trên đồi.
Những hứa hẹn của phương T}y chỉ là những lời phờ phĩnh. Tôi bèn
xoay sang chính Bắc.
Phương Bắc thì ít nữa cũng còn lai l|ng tr{n đầy điệu hát của trùng
dương.
A! C|i chóp đỉnh kia, một phen đ~ vượt qua rồi, chân trời liền dàn
rộng. Đ}y, đô thị lộng lẫy nhất trần gian.
- Mày thừa biết đó l{ ảo ảnh…
Tôi thừa biết qu| rõ đó l{ ảo ảnh. Tôi, ai phờ phỉnh được tôi. Nhưng
nếu tôi thích, tôi ưa chìm th}n v{o s}u trong ảo ảnh? Nếu tôi thích yêu dấu
c|i đô thị với những th{nh qu|ch điệp trùng, tráng lệ dưới ánh trời, rực
thắm như cờ treo? Nếu tôi thích bước đi, đi thẳng, theo nhịp chân dìu dặt
nhẹ nh{ng, nh}n vì cơn mệt nhọc đ~ tiêu tan, nh}n vì lòng tôi vui sướng…
Prévot và khẩu súng lục, ồ, h~y cho tôi cười khì chơi chút nhé! Tôi say rồi.
Tôi chết khát!
Hoàng hôn tới, xua đuổi cơn mê. Tôi tỉnh táo ra. Tôi dừng ch}n đột
ngột. Tôi giật mình nhận thấy đi đ~ qu| xa. Ho{ng hôn xuống, ảo ảnh tan.
Hoàng hôn về, ảo ảnh chết. Chân trời đ~ trút bỏ bóng xiêm nghê. Hết huy
hoàng cung điện, hết lễ phục gi|o đường. Chân trời chỉ còn là chân trời sa
mạc.
- M{y chơi lung đ~ lắm! Đêm tối sắp tới thộp mày rồi, mày sẽ bó gối
ngồi im chờ trời mai sáng, và ngày mai những dấu chân mày sẽ bị xóa mất,
và khắp chân trời mặt biển, mày sẽ chẳng còn tăm dạng tại chốn mô.
- Đ~ thế thì nên! Thôi thà cứ dấn th}n bước thẳng tới trước… Quay trở
lại nữa mà làm gì? Tôi không muốn bẻ lái quay thuyền, vì biết đ}u chính b}y
giờ là lúc tôi sắp mở, lúc tôi đang đ~ mở vòng tay mình trước mặt biển
mênh mông…
- M{y đ~ nhìn thấy mặt biển tại đ}u? M{ có bao giờ mày sẽ ra tới biển?
Ba trăm c}y số có lẽ hẳn chắc đương chia biệt mày với biển khơi. V{ Prévot
đang lò dò đợi chờ thấp thỏm bên cạnh chiếc Simoun! Và có lẽ, biết đ}u,
Prévot đang được một đo{n người viễn du chớm thấy…
Vâng, tôi sắp quay trở về, nhưng trước khi quay về, tôi xin thử kêu con
người ta:
- Ô ê!
Tr|i đất này, trời ôi! Dù sao vẫn còn có con người ta cư trú…
- Ô ê! Người ta ơi!
Tôi khan giọng. Tôi gọi không ra lời. Tôi kêu không còn tiếng. Tôi thấy
mình sao dơ d|ng dại hình kêu gọi mãi thế rứa ru?... Tôi hét to lần nữa:
- Người ta ôi!
Đó nghe sao m{ khoa trương kho|c l|c tợn.
Và tôi quay về.
Sau hai giờ bước đi, tôi ngó thấy ngọn lửa Prévot đốt lên; anh đ~ kinh
ho{ng tưởng tôi lạc lối, đốt tung lên trời. A!... mọi c|i đó giờ đ}y tôi xiết bao
lạnh nhạt.
Thêm một giờ nữa bước đi…. Còn năm trăm thước. Còn một trăm
thước. Còn năm chục thước.
- A!
Tôi đờ đẫn đứng lại, sững sờ. Niềm vui sắp dâng ngập máu tim, trào
qua trái phổi. Tôi kiềm h~m cơn mãnh liệt dậy cuồng. Prévot, sáng ngời
trong ánh lửa, đương trò chuyện với hai người Ả Rập đang tựa lưng v{o
m|y phi cơ. Anh chưa ngó thấy tôi. Anh đang còn rộn rã bởi niềm vui của
mình. A! Nếu mà tôi chịu ngồi chờ như anh… thì đ~ sớm được tung trời cất
c|nh! Tôi vui sướng kêu to:
- Ô ê!
Hai người Bédouins giật mình đ|nh thót một cái nhìn tôi. Prévot rời
họ và tiến lại một mình. Tôi mở rộng hai tay. Prévot nắm giữ cùi tay tôi, thế
ra tôi suýt ngã? Tôi bảo:
- Hì hì, tuyệt đó!
- Gì?
- Mấy người Ả Rập!
- Ả Rập nào?
- Những người Ả Rập ngồi đó, với anh!...
Prévot nhìn tôi một cách kỳ cục và tôi có cảm tưởng anh đang buộc
lòng thổ lộ với tôi một chuyện bí mật khổ nhọc nặng nề:
- Không có người Ả Rập nào cả…
Chắc hẳn lần này tôi sắp khóc.
6
Tại đ}y người ta sống được mười chín giờ không uống nước, và chúng
tôi kể từ chiều hôm qua, chúng tôi đ~ uống được gì? Vài giọt sương buổi
s|ng. Nhưng ngọn gió Đông Bắc vẫn còn thổi luôn, nên cũng trì ho~n được
chút ít cái thời hạn tối sầm, v{ chúng tôi chưa đến phải bốc hơi m{ tan lìa
thể phách. Ngọn gió của cũng l{ tấm đ| ngăn cản, giúp cho thành tựu cuộc
tụ hội trên cao của những đợt mây trên trời. Mây ôi! Nếu mây cao hứng tạt về đ}y cho gần ta một chút, rồi đổ một trận mưa ng{n thu rớt hột cho cùng!
Nhưng có bao giờ mây về chịu mưa trên sa mạc.
- Prévot, ta lấy cái dù phi công cắt thành từng mảnh tam giác. Ta sẽ lấy
đ| chằn ba góc và dọc ba cạnh những mảnh kia cho chúng nằm lì trên mặt
đất. Nếu gió không xoay chiều, thì sáng mai ta sẽ. Ta sẽ vắt các mảnh vải ấy
ra cho giọt sương nó rơi v{o trong c|i thùng chứa xăng thì ta hứng lấy…
Chúng tôi căng h{ng d{i s|u tấm vải trắng đó dưới trời cao. Prévot
phá một thùng chứa xăng ra. Chúng tôi chỉ còn ngồi chờ sáng.
Prévot có mò ra được đ}u trong đống mảnh vụn một trái cam kỳ ảo đi
về. Chúng tôi chia nhau. Tôi cho|ng v|ng tê mê, nhưng một quả cam là bao
nhiêu lắm, trong lúc chúng tôi cần hai mươi lít nước.
Nằm duỗi bên nhóm lửa đêm th}n thiết, tôi nhìn cái quả nọ long lanh
và thầm nhủ: “Con người ta chẳng hề hiểu trái cam l{ gì…”. Tôi cũng tự nhủ:
“Chúng tôi chịu h~m trong nguy cơ không thể nào thoát nổi, biết chắc chắn
l{ như vậy mà vẫn không bỏ mất niềm hoan lạc thơ ng}y. Nửa quả cam tôi
cầm siết ở trong tay đang đem lại cho mình một nỗi vui lớn rộng, trăm năm
đ}y l{ một trong mấy lần mình vui nhất…”. Tôi nằm duỗi ngửa thân ra, tôi
hút từ từ như bé con bú sữa, tôi đếm trên trời những ngôi sao băng. Một
phút n{y, tôi nghe mình tr{n lan sung sướng. Và tôi tự nhủ nữa: “Cõi đời mà
ta sống ở trong, cõi đời mà ta nằm ở trong mỗi tổ chức, ta không bị mắc
nghẽn v{o trong đó”. Chỉ hôm nay tôi mới hiểu được c|i điếu thuốc và cái
cốc rượu Rhum của kẻ tử tù. Trước đ}y tôi không quan niệm được sao
chàng ta lại chấp nhận cái chuyện khốn đốn n~o nũng kia. Thế mà chàng ta
vẫn lấy làm vui khoái lắm. Người ta tưởng chú nọ can đảm nếu thấy chú
mỉm cười. Nhưng chú mỉm cười l{ cười vui vì uống nên cốc rượu thú Rhum
đ}y, ồ… Người ta không biết rằng ch{ng ta đ~ đổi nhãn quan trong viễn
tượng, v{ ch{ng đ~ nằm trên cái giờ chung cục nọ mà làm nên đủ mọi cõi
trăm năm.
Chúng tôi hứng được một mớ nước khổng lồ: hai lít có lẽ! Thôi là hết
kh|t nước rồi! Chúng tôi thoát nạn rồi! Chúng tôi được giải cứu! Chúng tôi
sắp uống cho đời xem!
Tôi múc trong thùng chứa ra đầy một chén thiếc, nhưng thứ nước này
sao m{ m{u v{ng tươi pha lục, và hớp một ngụm đầu ôi thôi ghê tởm quá,
quá vô chừng cho đến nỗi dù kh|t nước đến chết người, tôi nuốt vẫn không
trôi, phải dừng lại nghỉ hơi rồi gắng nuốt cho vô lần nữa. Phải đ}u tôi khó
tính. Lúc này, gặp bùn hôi cũng uống hết, nhưng c|i vị kim khí chứa cái chất
độc giết người n{y, thì kh|t nước tới đ}u cũng lắc đầu xin chịu.
Tôi nhìn Prévot. Anh đương xoay quanh, mắt trố nhìn sững xuống đất
như đang chăm chú tìm tòi vật gì. Thình lình anh cúi gập người và nôn ọe,
vẫn không ngừng quằn quại xoay quanh. Nửa phút sau, tới lượt tôi. Gân cốt
giật như cuồng, tôi quỵ xuống hai gối, mười ngón tay chỏi sâu trong cát.
Chúng tôi không nói với nhau lời nào, suốt mười lăm phút, hai đứa chịu đọa
đ{y khốn đốn như vậy, chỉ còn nôn ọe ra một ít mật xanh.
Bây giờ đ~ xong. Chỉ còn thấy vương vấn buồn nôn nhẹ nhẹ. Nhưng
chúng tôi đ~ mất đi niềm hy vọng cuối cùng. Tôi không biết bởi đ}u m{ rủi
thế, đầu đuôi hỏng bét lại tại lớp sơn phết vải dù, hoặc tại lớp tétachlorure
de carbone tụ ở đ|y thùng chứa. Đ|ng nhẽ nên có một thùng chứa khác,
hoặc thứ vải khác.
Thôi, trời sáng rồi, hãy vội v~ lên đường. Chúng ta hãy liệu mà trốn
gấp ngọn đồi yêu nghiệt điêu linh n{y, v{ bước nhanh, bước thẳng tới trước,
cho tới lúc ngã quỵ thì thôi. C|i gương anh Guillaumet còn đó, tôi xin noi
theo: tôi nghĩ tới anh rất nhiều, kể từ hôm qua. Tôi không tuân mệnh lệnh
buộc phải tuyệt đối ở mãi bên cạnh phi cơ n|t m|y nằm lì. Ai còn tới đ}y m{
tìm kiếm chúng tôi nữa.
Một lần nữa, chúng tôi nhận thấy mình chẳng phải là kẻ lâm nạn chới
với. Kẻ lâm nạn chới với là những kẻ đang đợi mong! Những kẻ đang bị hăm
dọa bởi c|i nguy cơ l{: chúng tôi nín tiếng. Những kẻ đ~ chịu đọa đ{y tan
nát vì một nhầm lẫn gớm guốc đang lung trạo trần gian. Không thể không
chạy nhanh về tiếp cứu. Guillaumet ngày thoát ra khỏi dãy Andes trở về,
cũng từng bảo tôi rằng anh đương chạy tới tiếp cứu những kẻ l}m nguy! Đó
là một chân lý thiên thu trong thiên hạ.
Prévot bảo:
- Nếu tôi sống một mình ở đời thì tôi sẽ nằm xuống tại đ}y.
Chúng tôi bước thẳng tới trước theo hướng Đông Đông Bắc. Nếu quả
chúng tôi đ~ vượt quá sông Nil, thì mỗi bước tiến bây giờ mỗi đưa chúng tôi
v{o s}u thêm trong mù khơi sa mạc Ả Rập.
Tôi chẳng còn nhớ gì nữa về c|i ng{y hôm đó. Tôi chỉ nhớ bước đi hấp
tấp của mình. Bước đi hấp tấp tới bất cứ c|i gì. Bước đi hấp tấp tới chỗ đảo
điên quỵ xuống. Bước đi hấp tấp tới khuynh đảo to{n sòng. Tôi cũng còn
nhớ đ~ bước đi cúi gầm đầu nhìn xuống đất, tránh ngó những ảo ảnh chập
chờn trước mặt quá buồn nôn. Thỉnh thoảng coi lại địa bàn mà sửa hướng
bước chân. Và tôi lúc nằm duỗi th}n trên c|t để thở chút ít. Tôi cũng đ~
quẳng mất đ}u đó tấm |o cao su mang theo mình để mặc ban đêm. Tôi
không còn nhớ gì thêm nữa. Những kỷ niệm l~ng đ~ng chỉ tiếp nối được
nhau là với bầu khí mát chiều hôm. Bỗng linh hồn lai láng. Thân thể mình
n{o có kh|c chi c|t đ}u, v{ tất cả trong th}n mình đều theo nhau xóa mất.
Chiều xuống. Chúng tôi quyết định nghỉ chân. Mặc dù vẫn biết là cần
phải đi, đi nữa: đêm nay không nước uống, là kết liễu cuộc đời. Nhưng
chúng tôi có mang theo bên mình những tấm vải dù. Nếu chất độc không do
sơn phết dù, thì rất có thể s|ng mai chúng tôi được một phen uống nước.
Cần phải căng rộng dưới bóng sao trời, phen này một phen nữa, mấy cái bẫy
để bắt hột sương trời rơi xuống tự vòm cao.
Nhưng ở phương Bắc, bầu trời tối nay xanh quá, vắng bóng mây bay.
Gió đ~ thay mùi. Gió cũng đ~ thay luôn phương hướng thổi. Hơi thở nồng nã
của sa mạc đ~ đi về mò mẫm châu thân. Con thú dữ đ~ trở mình tỉnh giấc!
Nó đương ôn tồn nhè nhẹ liếm bàn tay, khuôn mặt chúng tôi…
Nhưng nếu cứ miệt m{i đi nữa, cũng không thêm được bao nả chặng
đường. Mười cây số là nhiều. Từ ba ngày nay, không uống một giọt, chúng
tôi đ~ vượt hơn một trăm t|m mươi c}y số…
Nhưng lúc dừng chân, Prévot bảo:
- Tôi thề với anh, đằng kia chính là một cái hồ đó.
- Anh điên rồi!
- Giờ này hoàng hôn rồi, đ}u có lẽ còn ảo ảnh?
Tôi không đ|p gì cả. Tôi đ~ nhất thiết chối từ không tin con mắt mình,
nhất thiết từ l}u. Đó không phải là ảo ảnh, có lẽ, nhưng nếu vậy thì đó hẳn là
cái hình hài trong cơn điên rồ được tạo. Làm sao Prévot còn dám tin?
Prévot vẫn bướng:
- Chỉ c|ch hai mươi phút, tôi phải tới xem…
Tôi nổi đóa:
- Cứ tới xem đi, cứ dạo cho mát ống chân và lá phổi đi… tốt lắm. Vệ
sinh lắm đó. Nhưng nếu cái hồ của anh có thật, thì đó l{ hồ nước mặn. Nhớ
cho điều đó nhé. V{ mặn, hay ngọt, hay chua, nó là cái hồ của nhà ma cửa
quỷ. Có hay không, cứ mà tìm tới, cho sáng hai con mắt ra.
Prévot hai mắt mở tr}n tr}n, đăm đăm nhìn, bước tới. Anh đ~ xa rồi.
Ôi những quyến rũ tối thượng lôi cuốn hồ đồ kia, tôi biết lắm! Tôi ngồi tôi
nghĩ: “Cũng còn lắm kẻ mộng du bị “mụ” n{o hấp dẫn, nắm mắt lao mình
v{o dưới bánh xe lửa đương lăn”. Tôi biết là Prévot sẽ không trở lại. C|i cơn
tình điên cho|ng v|ng nghe theo hư không nhiếp dẫn mà liều cuộc tử sinh!
Anh sẽ bị mê hoặc, và anh sẽ không thể quay gót tháo lui. Và anh sẽ té xiêu
tại một chốn gần xa đ}u đó. V{ anh sẽ chết phía anh và tôi sẽ chết phía tôi.
Và thảy thảy những điều kia, thôi cũng chẳng chút gì quan trọng nữa!...
Tôi hờ hững đến thế sao? Đó l{ triệu chứng gì? Hẳn là chẳng tốt lắm.
Chết đuối nửa chừng, tôi cũng đ~ có bận thấy lòng dửng dưng như thế.
Nhưng tôi lợi dụng sự bình thản phen này mà viết một thiên tuyệt bút để
gọi l{ để lại mai sau. Tôi nằm dài lên cát, úp sấp hình h{i. L| thư tuyệt mệnh
thật hay. Thật hào hoa trang nghiêm rất mực. Rất tr{n đầy những khuyến
cáo tốt tươi hiền nhân ai là chẳng! Đọc lại mà thấy mơ hồ kho|i thích như
tuổi trẻ kiêu sa. Mai sau thiên hạ đọc vào, sẽ bảo nhau rằng: “Đó l{ tuyệt vời
một thiên tuyệt bút. Hỡi ôi! Người tao nh~ đ~ vội ra đi! Cho h{o hoa ngậm
ngùi ở lại! Tiếc thay!”.
Tôi cũng còn muốn biết mình đ~ ra sao b}y giờ. Tôi thử gắng đưa môi
liếm miệng cho nước miếng tiết chút ra răng: Từ bao nhiêu giờ tròn tôi
không nhỏ bọt? Nước bọt khô cả rồi. Tôi không còn chút nước bọt nào nữa
cả. Nếu tôi khép miệng lại thì một chất dẻo bít mất hai môi. Nó khô queo,
khô qu|nh, đọng thành một vòm vỏ cứng bọc môi, không mở ra được nữa.
Tuy nhiên, tôi cũng còn gắng nuốt trôi bọt xuống cổ một vài phen bỡ ngỡ.
Và hai mắt cũng chưa đến nỗi đổ đôm đốm quáng lòa. Tới bao giờ lâm vào
tình huống được ngó thấy cảnh tượng rạng ngời lấp lánh kia, ấy là giờ
chung cục chỉ còn hai giờ diên trì thời hạn.
Trời tối. Vừng trăng đ~ nở nang tròn khuôn từ tối trước. Prévot không
trở lại. Tôi nằm ngửa duỗi dài và nghiền ngẫm những sự hiển nhiên này. Tôi
nghe thấy lại trong mình một cảm gi|c cũ xưa. Tôi tìm c|ch x|c định. Tôi
l{… Tôi l{… Tôi l{ c|i kẻ đ|p t{u
[7]
. Tôi lên đường sang Nam Mỹ, thì nằm thế này nào
có khác chi nằm trên boong thượng đẳng của tàu rộng rẽ sóng m{ đi. Đỉnh cột buồm lắc lư
ngao du ngang dọc, thung dung một cách(!) qua lại giữa ngàn sao. Tại đ}y quả có thiếu một
cột buồm, dù sao tôi cũng l{ đương đ|p t{u vậy đó, để đi về một phương trời cứu cánh,
không còn tùy thuộc ở những gắng sức của thân tôi. Một bọn buôn hắc nô đ~ tóm lấy tôi, bó
trói tay chân tôi mà quẳng lên một con tàu.
Tôi nghĩ tới Prévot đi không quay về. Tôi chưa hề nghe anh than thở
một lần nào. Tốt lắm đó. Nếu phải nghe anh than van, ắt là tôi không chịu
đựng nổi. Prévot đúng l{ một con người.
A! Anh đang lắc đèn qua lại, ở c|ch tôi năm trăm thước. Anh lạc đường
mất dấu! Tôi không có đèn bấm lên để đ|p hiệu, tôi đứng dậy, tôi kêu to,
nhưng anh không nghe tiếng…
Một ngọn đèn thứ hai bỗng thấy bật đỏ lên cách ngọn đèn Prévot hai
trăm thước, rồi một ngọn đèn thứ ba. Thượng Đế Chí Tôn ơi! Cả một cuộc
săn tìm tại đó, thiên hạ đang kiếm tôi đó.
Tôi gọi to:
- Ô ê!
Nhưng người ta không nghe thấy.
Ba ngọn đèn vẫn liên tiếp lấp lánh ra hiệu.
Tôi không điên, đêm nay quả thật tôi không điên, tôi cảm thấy mình
khỏe khoắn minh mẫn vô cùng. Tôi rất yên bình thanh thản. Tôi nhìn chăm
chú. Rõ ràng ba ngọn đèn ở c|ch tôi năm trăm thước.
- Ô ê!
Nhưng người ta vẫn cứ không nghe thấy tiếng tôi kêu.
Tôi bỗng hoảng hốt một cơn ngắn. Nỗi kinh ho{ng độc nhất từ đó về
sau. A! Tôi còn có thể chạy được: “Chờ tôi với… Chờ tôi với!...”. Họ sắp quay
gót đi nơi kh|c! Họ sắp đi xa, tìm kiếm ở một chốn khác, mà tôi thì sắp té
nhào tại ngay ngưỡng cửa cuộc sống, chính v{o lúc đương có những bàn tay
mở rộng đón tôi!...
- Ô ê! Ô ê!
- Ô ê!
Họ đ~ nghe thấy rồi. Tôi ngộp thở, tôi ngộp thở nhưng tôi vẫn còn
chạy mãi. Tôi chạy thương hướng vừa dội lên tiếng “Ô ê!”, tôi nhìn thấy
Prévot và tôi quỵ xuống.
- A! Lúc tôi trông thấy tất cả những ngọn đèn kia…
- Đèn n{o?
- Quả thực, đèn n{o? Prévot một mình trên cát.
Lần này tôi không cảm thấy tuyệt vọng, nhưng }m ỉ tức tối.
- Còn cái hồ nước của anh!
- Nó lùi xa thêm lúc tôi tiến tới. Tôi bước theo nó suốt nửa tiếng đồng
hồ. Sau nửa tiếng đồng hồ, thấy nó quá xa. Tôi bèn quay trở lại. Nhưng b}y
giờ thì tôi càng tin chắc chắn rằng đó l{ một hồ nước…
- Anh điên rồi, tuyệt đối điên rồi. A! Tại sao anh lại làm thế… Tại sao?
Anh ta đ~ l{m chi? Tại sao anh ta lại làm thế? Tôi tức qu| tr{o nước
mắt ra, và không hiểu tại sao mình tức quá. Và Prévot giải thích, bằng một
giọng nghẹn hơi, khản cổ:
- Tôi muốn tìm cho ra nước, muốn uống qu|… môi anh bạc phếch cả
rồi!
A! Cơn giận chợt tan… Tôi đưa tay sờ qua tr|n như vừa chợt tỉnh giấc,
và cảm thấy rất buồn. Và tôi dịu dàng kể lại:
- Tôi có thấy rõ như anh thấy bây giờ, tôi có thấy rõ r{ng ba |nh đèn,
rõ rệt không thể nào nhầm được… tôi nói thật với anh là tôi quả thật có thấy
ba |nh đèn thật, Prévot ạ!
Prévot lắc đầu im lặng. Sau cùng anh thú thật:
- Vâng, vâng. Hỏng cả rồi.
Đất bốc hơi nhanh, nguội đi rất chóng, giữa bầu khí khô khan không
chất ẩm tại nơi n{y. Đ~ thấy lạnh vô cùng. Tôi đứng lên, v{ bước. Nhưng liền
đó bỗng ré run lên như cầy sấy, khó chịu dị thường. Máu trong mình mất
hết chất nước, tuần ho{n qu| khó khăn, băng gi| u h{n thấm nhập vào thân,
cái lạnh này không chỉ là cái lạnh của đêm th}u. Hai h{m răng chạm nhau
lập cập, to{n th}n tôi như giẻ giun run rẩy không ngừng. Đèn bấm có đó
cũng bằng thừa, vì bàn tay lẩy bẩy chẳng bấm v{o đ}u được. Tôi vốn không
bao giờ dễ cảm thụ cái rét, thế mà sắp phải chết vì rét, tác dụng của cái khát
kể thật là mãnh liệt dị thường!
Tôi đ~ quẳng đ}u đó c|i tấm áo cao su, vì mang theo mãi bên mình
giữa trời nóng, đ~ mệt lả. Và gió bây giờ mỗi lúc mỗi trầm trọng lên cơn. V{
tôi nhận thấy rằng trong sa mạc không làm sao tìm ra một nơi trú ẩn. Sa
mạc phẳng lì trơn l|ng như cẩm thạch. Không có bóng cây gieo ban ngày, và
ban đêm thì sa mạc xô ta trần truồng vào giữa gió. Không một nhành cây,
không một ngõ trúc, không một giậu thưa, không một tảng đ| l|ng để nấp
mình. Gió tấn công tôi, tha hồ mặc sức, như một đo{n kỵ binh trút đạn nơi
trận tiền trống vắng. Tôi chạy quẫng, chạy qu{ng vòng quanh để lẩn tránh. Tôi nằm nép xuống, tôi lại đứng vùng lên. Đứng hay nằm, đằm thân hay dậy
thể, vẫn phó mình cho ngọn roi giá buốt mặc sức quất vào da. Tôi không thể
chạy, tôi kiệt tận sức lực rồi, tôi không thể trốn tránh bọn sát nhân và tôi
quỵ xuống trên đầu gối, hai tay ôm lấy đầu nép mặt dưới kiếm đao!
Tôi nhận ra tình huống đó, một l|t sau; tôi đứng lên, bước thẳng tới
trước mặt, vẫn lập cập run hoài! Tôi hiện đang ở tại đ}u? A! Tôi vừa ra đi,
bỗng nghe Prévot gọi. Những tiếng kêu của anh đ~ thức tỉnh hồn tôi…
Tôi quay trở lại bên anh, thân mình vẫn lẩy bẩy, hình hài vẫn khà
khiểng động đậy từng cơn. V{ tôi tự bảo: “Đ}y không phải do khí lạnh. Đ}y
là do chuyện kh|c. Đ}y l{ chung cục”. Th}n thể đ~ khô cạn chất nước quá
nhiều. Tôi đ~ bước đi nhiều qu| hôm kia, v{ hôm qua lúc đi một mình.
Chết bởi lạnh, điều đó, tôi rất đau lòng. Tôi th{ mong còn ôm những ảo
mộng bên trong. Cái thập giá kia, những người Ả Rập kia, những ngọn đèn
nọ. Dù sao, những thứ đó cũng đương bắt đầu hấp dẫn, chứ sao! Tôi không
thích phải phó mặc th}n mình như một tên nô lệ dưới những lằn roi túi bụi
quất từng cơn…
Bây giờ tôi lại quỳ gối xuống.
Chúng tôi có mang theo một ít dược phẩm. Một trăm gam ê-te nguyên
chất, một trăm gam rượu chín chục và một bình tăng-ti-dót. Tôi gắng uống
vài ba ngụm ê-te. Thật không khác gì nuốt dao nhọn vào cổ họng. Và một tí
chút rượu 90
0
, nhưng vẫn thấy cổ họng như tắc nghẽn.
Tôi đ{o một cái lỗ hổng trong cát, tôi nằm vào, và lấy cát phủ lên khắp
mình. Chỉ còn khuôn mặt nhô ra. Prévot có tìm thấy một ít cọng cây khô,
đem nhúm lửa, và lửa sẽ t{n đi, trong chốc lát. Thà chị lơ l|o nện gót giầy
m{ hơn. Anh lầm đó nhé.
Cổ họng tôi vẫn tắt nghẽn, triệu chứng chẳng lành gì, tuy vậy mà cảm
thấy có dễ chịu hơn. Cảm thấy bình thản. Thấy bình thản nhiều, nhiều hơn
những tưởng. Thật không ngờ. Thật có đâu dám hy vọng thế này. Dù muốn
dù không, dù tôi cũng đương ra đi phiêu dạt du hành, tay chân ôn tồn trói
chặt, nằm ở boong chiếc tàu mua bán hắc nô, đề huề sao, hỡi muôn sao ở
trên trời có biết! Tôi đương bình an nhìn lên tự dưới. Nhưng chắc rằng… có lẽ… đ~ bình an thanh thản, thì ắt là không còn thống khổ chi nhiều…
Tôi khong còn cảm thấy lạnh, chỉ cần một điều kiện l{ đừng có ngứa
ngáy mà ngọ nguậy một thớ thịt n{o đó ở trong mình. Thế rồi thì tôi quên
luôn cái thân tôi ngủ yên trong lớp cát. Tôi sẽ không ngọ nguậy nữa, v{ như
vậy sẽ không còn đau đớn nữa bao giờ. Vả chăng, vả chăng thì con người
đau đớn có chi mô… Phía sau những bao nhiêu bứt rứt khổ lụy dày vò, còn
có cuộc hợp tấu đề huề của từng cơn mỏi rủi phối liệt với từng trận cuồng
điên mê sảng. Và mọi vật bỗng đổi dạng biến thành những trang s|ch đầy
hình ảnh hương m{u, điều hòa theo nhịp những cuồng lưu, hơi d~ man một
chút, của những mộng thần tiên sự tích dào dạt trôi dòng… Phi hồng trường
phát phi kiên. Ôi mùa tích lục phi tuyền lên cao… Thì mới lúc n~y, gió rượt
đuổi thân tôi chạy đi như chết, v{ để trớ tránh nó tôi phải quanh quất chạy
vòng như con thú rừng bị hãm lạc, chết điếng cái cõi lòng giữa tuyệt địa
điêu linh. Rồi thở không ra hơi. Rồi hơi ra hổn hển: như có một c|i đầu gối
dũng m~nh của qu}n thù đè cứng trên trái phổi của tôi. Một c|i đầu gối. Và
tôi vẫy vùng chống lại cái khối nặng ma quái thiên thần, yêu tinh tiên nữ.
Tôi chẳng bao giờ cô đọc trong sa mạc bơ vơ. Đôi bên đồng thuyền tung
chưởng lực căm căm không o bồng, không o bế. Tới bây giờ mới thấy đ}y, l{
thấy mình không còn tin ở bốn bể huyễn tượng, thì tôi rút lui về mình, khép
mình lại trong lòng mình, khép mắt lại trong mi tôi, và tôi không còn rục
rịch một chút xíu động đậy nào cả. Toàn thể c|i th|c lũ ngập tràn hình ảnh
nọ nó cuốn phăng, tôi cảm thấy c|i đó thật rõ rệt, toàn thể c|i th|c lũ kia nó
cuốn tôi về một cõi mộng tĩnh mịch thanh bình: những dòng sông thiên thu
chìm yên vui êm dịu vào trong lớp lớp điệp trùng của vạn đại biển khơi.
Vĩnh biệt thôi, hỡi anh em của đời tôi thương mến. Lỗi không tại tôi,
nếu tấm th}n con người không chịu đựng được nổi ba ngày không uống.
Xưa, tôi không tin rằng mình lại là tên tù chung thân của giếng nước như
thế. Xưa, tôi không ngờ mình chỉ còn có được ngần ấy vắn vủn thời gian tự
do. Người ta tưởng con người ta có thể ra đi v{ bước thẳng tới được tự do…
Người ta không nhìn thấy cái sợi dây kết liền mình vào giếng, cái sợi dây kết
liền mình vào bụng dạ là cõi lòng của đất, kết liền như cuống rốn ruột rà.
Nếu người ta cao hứng bước thêm một bước nữa, là chết.
Trừ ra mối đau khổ của các anh chị em, tôi chẳng còn chi để tiếc. Nói
cho cùng thì tôi cũng đ~ l~nh c|i phần hơn. Nếu một mai tôi trở về, ắt tôi sẽ
bắt đầu làm hệt trở lại. Tôi cần sống. Mà giữa những thị thành, thật chẳng còn c|i đời sống của con người ta đ}u.
Đ}y không phải vấn đề phi cơ, phi công h{ng không, h{ng khí, chi cả.
Phi cơ, không phải là một cứu c|nh, phi cơ l{ một phương tiện. Không phải
vì phi cơ m{ người ta liều thân vào sinh ra tử. Cũng như không phải vì cái
cày, mà bác nông phu chịu lam lũ giữa ruộng nương. Nhưng bằng phi cơ,
người ta bay xa lìa phố thị và rời bỏ được những kế toán âm u, và tìm ra trở
lại một chân lý thuần ph|c nông điền.
Người ta làm một công việc của con người, v{ người ta biết những băn
khoăn tư lự của con người. Người ta tiếp xúc với gió, với sao, với đêm tối,
với cát, với biển. Người ta tranh mưu đấu kế với những sức mạnh thiên
nhiên. Người ta chờ bình minh như kẻ l{m vườn chờ xuân lại. Người ta đợi
bến yên nghỉ như một miền đất hứa, v{ người ta tìm chân lý cho mình trong
tinh tú chơi vơi.
Tôi sẽ không phiền hà gì hết. Từ ba ng{y nay, tôi đ~ bước đi, tôi đ~
chịu kh|t, tôi đ~ dõi theo những lối đi nẻo về trên lớp c|t, tôi đ~ lấy giọt
sương l{m ho{i vọng của mình. Tôi đ~ tìm c|ch đi về tiếp nối với đồng loại
của tôi, đồng loại của tôi mà từ lâu tôi từng lãng quên không nhớ ra đ}u l{
nơi họ cư trú trên Tr|i Đất. V{ đó l{ những tư lự âu lo của kẻ sống. Tôi
không thể không xem chúng quan trọng hơn c|i sự vụ chọn một chiều một
rạp ca vũ một xem chơi.
Tôi không còn hiểu nữa những đ|m người trong những chuyến xe lửa
ngoại ô, những con người vẫn tin mình vốn l{ người từ trước đến bây giờ
đó vậy, và thật ra đ~ bị một áp lực nào mà chính họ không hề cảm thấy, bị
một áp lực đẩy vào chỗ: bị dồn vào cái thế tự biến mình thành cái công cụ
được sử dụng, để phẩm cách dồi nặn theo. Những ngày Chủ Nhật vô nghĩa
tủn mủn lai rai của họ, họ đ~ đem những gì để nhét v{o cho đầy ắp, những
lúc họ hớn hở tự do?
Một bận nọ, ở Nga, tôi có nghe người ta chơi bừa bãi nhạc Mozart
trong một xưởng máy. Tôi có viết truyện ấy ra. Tôi có nhận được hai trăm l|
thư chửi rủa. Tôi không oán trách gì những kẻ ưa thích nhất cái loại quán ca
vũ lai rai tồi, để nghe nhạc hú hí như thiên lôi. Tôi tr|ch những kẻ đứng chủ
trương những quán ca vũ thiên lôi hú. Tôi không chịu chấp thuận cái việc người ta phá hoại cho “toi đ}m” đồi phế con người.
Tôi, tôi sung sướng trong nghề nghiệp tôi. Tôi cảm thấy mình đích thị
nông dân của những bến trạm nghỉ. Trong chuyến tàu ngoại ô, tôi nghe thấy
niềm tan rã giữa lòng mình, mối thống khổ tủi buồn còn thăm thẳm khôn tả
hơn tại đ}y. Tại đ}y, nói cho cùng, còn h{o hoa lộng lẫy xiết bao!...
Tôi chẳng tiếc gì hết. Tôi đ~ chơi cuộc, tôi đ~ thua. Có chi đ}u m{ o|n
hối. Đó l{ trong lẽ hằng của nghề nghiệp, Nhưng, dù sao, tôi cũng đ~ hít v{o
phổi mình, cái trận gió trùng dương…
Ai đ~ một phen có nếm mùi gió nọ, sẽ không quên được cái vị nồng
mật dịu dị thường kia. Phải vậy chăng ru, hỡi các bạn bè thân thuộc? Và nói
vậy cũng phải chăng l{ nêu ra c|i việc nên sống theo c|ch điệu mạo hiểm
cho gặp nguy biến đầy người. Cái lối nói đó thật là khoác lác kiêu kỳ. Cái
dũng của bọn đấu bò, thật tôi không muốn. Cái tôi yêu chuộng, không phải
là cái nguy hiểm nguy cơ. Tôi biết tôi yêu c|i gì. Đó l{ sự sống.
Hình như trời sắp trắng ra. Tôi chìa một cánh tay ra khỏi cát. Một tấm
vải dù căng ở ngay tầm tay, tôi sờ xem, nó vẫn khô ran. Chờ vậy, sương
đọng lại lúc bình minh. Nhưng bình minh tới, trắng ở chân trời, mà không
thấm ướt cho mấy tấm vải chúng tôi. Lúc đó những ý nghĩ của tôi trở nên
lộn xộn chút ít v{ tôi nghe mình nói: “Tại đ}y có một tr|i tim khô… một trái
tim khô… một trái tim khô không biết làm nên giọt lệ”.
- Lên đường thôi, Prévot! Cổ họng chúng ta chưa tắc nghẽn: còn phải
bước đi.
7
Ngọn gió Tây vẫn thổi, ngọn gió T}y l{m khô th}n người trong chín
giờ. Cuống họng tôi chưa kín nghẽn, nhưng khô cứng v{ đau đớn lắm. Tôi đ~
thấy chừng chừng rồi, một c|i gì cò cưa, r|t r|t. Chẳng bao lâu nữa, sẽ khởi
sự cơn ho, cơn ho tôi từng nghe người ta mô tả, v{ tôi đương đợi chờ. Lưỡi
tôi, nghe thật khó chịu. Nhưng trầm trọng nhất, l{ tôi đ~ bắt đầu chớm thấy
những chấm sáng long lanh. Lúc những chấm đó biến th{nh đỏ rực, là lúc
tôi sẽ ngã thân nằm dài.
Chúng tôi bước nhanh. Chúng tôi lợi dụng chút mát trời ban sáng.
Chúng tôi biết rằng lúc nắng lên tr{n, thì như thiên hạ, chúng ta sẽ không
còn bước đi bước đứng. Lúc nắng lên tr{n… khi n{ng lên trắng…
Chúng tôi không có quyền ra mồ hôi. Cũng không có quyền đợi. Cái khí
mát này chỉ là khí mát của mười tám phần trăm chất ẩm. Cơn gió n{y đương
thổi l{ cơn gió từ sa mạc thổi qua. V{, dưới cơn ve vuốt lừa dối v{ mơn man,
thì máu trong thân chúng tôi bốc hơi th{nh khói.
Chúng tôi có ăn một ít nho ng{y đầu. Từ ba ngày trời, có ăn một nửa
trái cam và một nửa cái bánh bèo mật ngọt. Nếu còn chi đó nữa để ăn chơi,
thì bói đ}u ra chút nước bọt để nhai, nuốt? Nhưng tôi không hề thấy đói
một tí, chỉ thấy kh|t. V{ tưởng chừng từ nay sẽ thấy, thấy hơn cả kh|t, đó l{
thấy những hiệu quả của cơn kh|t phiêu bồng. Cổ họng này cứng đờ như cờ
đứng, không gió du. C|i lưỡi này nắn bằng thạch cao, hay kết tinh bằng chất
vôi, tình đ|? C|i cò ke khản khản, d}y dưa r|t r|t n{y, v{ c|i vị gớm guốc
làm sao ở trong miệng. Những cảm gi|c đó rất mới lạ đối với tôi. Chắc hẳn
nước sẽ làm dứt được những thứ này, nhưng tôi không có kỷ niệm n{o để
cho phép g|n phương thuốc kia vào sự chữa chạy cho những cảm giác nọ.
Cái khát cứ trở cơn dần d{, để biến thành một chứng bịnh, và trở cơn
m~i m~i để không còn là một nỗi ước ao. Cái bịnh cứ tăng tăng, c|i thèm
thuồng cứ bớt bớt. C|i ước ao cứ giảm giảm, cái chứng tật cứ gia gia. Cái
đường qua thiên mộng càng thiên tẩy giờ…
Tưởng chừng những giếng, những màu, những mật, đ~ bắt đầu mang
lại những hình ảnh bớt n~o nh}n. Tôi quên đi, tôi quên mất cái màu cam
phong nhụy rạng rỡ ban đầu, cũng như tôi dường quên lãng hết những ân
tình tôi trút gửi, tôi trao. Ngõ ban sơ, hạnh hôm nào. Liễu yêu b{i động mận
đ{o r~ riêng. Hương sầu điệp điệp mao quyên. Hai người con gái tự tiền
kiếp sinh…
[8]
Thôi rồi, tôi đã quên, quên hết rồi, có lẽ…
Chúng tôi ngồi lại, nhưng lại phải đi. Chúng tôi từ bỏ những trường
đình, viễn độ. Sau năm trăm thước lết bết bước đi, chúng tôi r~ rời ng~ lăn
ra cát. Cảm thấy một niềm vui b|t ng|t được duỗi d{i lưng ra. Nhưng lại phải đi.
Phong cảnh đổi. Đ| dọc đường thưa bớt, cách bức thêm.
Bây giờ chúng tôi bước đi trên c|t. C|ch hai c}y số, tại trước mặt
chúng tôi là những đụn gò. Trên những đụn gò kia, vài chấm xanh cây lè tè
lốm đốm. Cái lớp giáp sắt đen sì, tôi vốn không thích nó bằng m{u c|t. Đó l{
màu sa mạc hồng vàng. Màu Sahara hồng tía. Tôi tưởng nhận ra rồi, ồ sa
mạc…
Bây giờ thì chúng tôi kiệt sức, cứ mỗi hai trăm thước ch}n đi.
- Cũng gắng m{ bước đi, ít ra l{ tới cái cụm cây bé bỏng lưa thưa kia,
dù sao chăng nữa.
Đó l{ giới hạn tuột cùng. Tám ngày sau, chúng tôi sẽ có dịp dùng ô tô
mà xét lại, lúc noi dấu mà lần mò tìm trở lại chiếc “Simoun”, mới hay rằng
cái cố gắng cuối cùng kia là cố gắng tới t|m mươi c}y số. Thế thì chúng tôi
đ~ đi đủ trong hai ống chân mình gần được hai trăm c}y. L{m sao còn có thể
tiếp tục?
Hôm qua, tôi đi không hy vọng. Hôm nay, những tiếng nọ đ~ mất trụi
hết ý nghĩa. Hôm nay chúng tôi bước đi l{ ấy bởi bước đi. Bước đi l{ bởi vì
đi bước. Hẳn cũng hệt là bò cày trên ruộng. Hôm qua tôi mộng ước những
Thiên Đường cam mọc. Hôm qua tôi mơ tưởng những đ{o nguyên suối
chảy. Nhưng hôm nay, đối với tôi, không còn cái gọi l{ c|i đ{o nguyên thiên
đường. Tôi không còn tin ở sự tồn tại đ}u đó những trái cam.
Tôi không thấy gì hết cả. Tôi chỉ duy có thấy ở trong mình, là duy chỉ
không một c|i chi chi, ngo{i c|i đồ sộ của khô cằn tim máu. Tôi sắp té nhào,
và tôi không biết tới tuyệt vọng. Tôi cũng chẳng biết khổ đau l{ c|i gì. Tôi
rất tiếc: nỗi sầu đau, nếu còn cảm thấy, ắt sầu đau sẽ là một cái gì êm dịu và
ngọt như nước. Người ta thương hại cho phận mình, người ta cảm thương
mình như một người bạn. Nhưng tôi không còn có bạn nữa ở cõi đời này.
Người ta sẽ tìm thấy tôi, người ta sẽ ngó vào mắt tôi thấy nó cháy
bỏng, người ta sẽ tưởng rằng tôi đ~ có kêu gọi nhiều, đau khổ lắm. Nhưng
những hăm hở, nhưng những tiếc thương, nhưng những sầu đau êm |i, đó vẫn là những kho phong phú, những giàu sang của cải. Còn tôi, tôi chẳng còn
gì là của cải nữa. Những n{ng g|i tươi, gặp cơn chiều của }n tình đầu tiên
trở chứng, các nàng nếm mùi sầu khổ, và khóc than. Sầu khổ dính liền với
những nhiệt tình tồn sinh run rẩy. Còn tôi, tôi không có nữa những khổ sầu.
Sa mạc, là tôi. Tôi không còn tiết ra nước bọt, nhưng tôi cũng không
còn ngay cả cái tiết ra và cấu tạo những hình ảnh êm |i để hướng về mà có
thể năn nỉ than van. Mặt trời đ~ thiêu nướng mất nguồn lệ ngọt ở trong tôi.
Thế tuy nhiên, tôi vừa chớm có thấy cái chi thế? Một luồng hy vọng
dậy cơn tr{o lướt qua tôi như một trận lăn tăn trên trùng dương gợn bọt.
Đó l{ dấu hiệu gì? Dấu hiệu gì vừa mới cấp b|o linh tính tôi, trước khi đập
vào tâm thức tôi như thế? Không một chút gì đ~ thay đổi, mà mọi sự đ~ đổi
thay. Phải không? Mặt cát phẳng lì này, những gò đống mấp mô này, những
cụm c}y lưa thưa lục nhạt nọ, không còn kết thành một phong cảnh nữa, mà
đ~ trở nên một cảnh trí. Một cảnh trí còn trống không, nhưng ho{n to{n
được soạn sửa. Được sắp đặt tròn khung. Như giang san chờ đợi. Tôi nhìn
Prévot. Anh ta cũng đang cơn chấn động kinh ngạc như tôi, nhưng anh cũng
không hiểu sao ra sao cả về cái niềm hưng khởi đột ngột ở trong mình.
Tôi thề với anh là sắp có xảy ra một cái gì tại đ}y tại đó.
Tôi thề với anh là sa mạc đ~ xao động linh hồn. Tôi thề với anh là cảnh
vắng vẻ tịch liêu n{y đ~ đột nhiên tha thiết gây muôn vàn cảm xúc yêu
đương, xao xuyến hơn mười trận huyên náo tại công trường.
Chúng tôi được giải cứu. Trong sa mạc đ~ có bóng vang gì!...
A! Chúng tôi đ~ lạc nẻo đ|nh mất lối đồng loại đi về, chúng tôi đ~ bị
gạt rơi ra ngo{i vòng bộ lạc, chúng tôi đ~ chịu mười phen cô độc giữa cõi
trần, bị bỏ quên bởi một cuộc mênh mông điệp trùng di trú, và bỗng nhiên
bây giờ chúng tôi nhận thấy ở bên mình, tạc trên cát, lõm vào sâu, những
bàn chân ghi chép dấu hiệu huyền ảo của con người.
- Nhìn đ}y, Prévot, tại đ}y hai người đ~ chia tay…
- Tại đ}y, một con lạc đ{ có quỳ gối xuống…
- Tại đ}y…
Tuy nhiên, chúng tôi vẫn còn chưa được giải cứu. Chờ suông, chưa đủ.
Trong vài giờ nữa, người ta sẽ không còn có thể giải cứu được chúng tôi. Cái
bước đi của cơn kh|t, một phen cơn ho đ~ bắt đầu, bước đi của cơn kh|t, nó
quá nhanh. Và cổ họng chúng tôi…
Nhưng tôi, tôi tin tưởng ở c|i đo{n người, đo{n người đang đong đưa
nhịp bước đ}u đó, trong sa mạc này.
Chúng tôi vậy l{ còn bước đi, v{ hốt nhiên tôi nghe tiếng gà gáy.
Guillaumet từng có bảo tôi: “V{o khoảng cuối, tôi nghe tiếng gà gáy trong
non núi Andes. Tôi cũng có nghe những đường hỏa xa xe lửa chạy…”.
Tôi nhớ lại câu chuyện anh kể đó, chính v{o c|i lúc con g{ nọ gáy lên,
và tôi tự bảo: “Đầu tiên, chính con mắt tôi nó phỉnh phờ tôi. Đó chắc là tại
tác dụng của cơn kh|t. Tai tôi chịu đựng bền bỉ hơn…”. Nhưng Prévot nắm
chặt cánh tay tôi:
- Anh có nghe chứ?
- Nghe gì?
- Con gà gáy!
- Thế thì… thế thì…
Thế thì, chú ngốc ôi, chắc chắn đứt đi rồi, thế thì đó l{ sự sống…
Tôi còn bị một ảo ảnh cuối cùng: ba con chó đuổi nhau. Prévot, Prévot
cũng có nhìn, Prévot không thấy chi hết. Nhưng chúng tôi l{ hai đứa đ~ cùng
song song đưa rộng cánh tay về một người Bedouin đó. Chúng tôi l{ hai
thằng cả hai cùng song song hai miệng một lời gào lên hết bao nhiêu hơi
mòn trong t{n rơi l| phổi. Chúng tôi l{ hai đứa cả hai đủ hai thằng đầy ngập
tiếng hạnh phúc cười ra!...
Nhưng giọng chúng tôi không đủ dội xa ba mươi thước. Dây gân trong
cổ họng và miệng mồm đ~ qu| khô. Chúng tôi đ~ nói chuyện với nhau không ra thành tiếng, đ~ tắt nghẽn cả lời, mà nào có nhận biết đó ra đ}u!
Nhưng người Bedouin kia và con lạc đ{ của anh, vừa hiện hình ra từ
phía sau gò cồn nọ, coi kìa, đ~ lững thững, chậm chạp, đi xa. Có thể rằng anh
ta đi một mình, không còn ai nữa… Một hung thần oan nghiệt đ~ xui khiến
anh ta tới gần cho chúng tôi ngó thấy, rồi xô mất bóng anh ta đi…
Mà chúng tôi thì không làm sao, cho ống chân chạy được nữa.
Một người Ả Rập khác từ trên đụn gò, trắc diện nhô ra. Chúng tôi gào
lên, nhưng lời câm không ra tiếng. Chúng tôi tơi tả đưa tay kho|t rối bời, có
cảm tưởng như mình đương vẽ ngập vào vòm trời những dấu hiệu mênh
mông. Nhưng người Bedouin kia vẫn nhìn về bên phải…
Và tới bây giờ, anh chậm r~i xoay đầu thêm một chút rất thong dong.
Chỉ trong một giây vàng thiểm động, anh chớm sẽ nghiêng mình xoay mặt
thêm chút nữa, thì trời đất sẽ thành tựu song song. Vạn vật sẽ vuông tròn
viên mãn trong một thoáng phiêu bồng chợt ngẫu nhĩ ra hoa: hết khát hết
đói, hết chết, hết ảo ảnh, hết hết. Một chút xoay nghiêng, càn khôn biến
th{nh vũ trụ. Chỉ cử động một nửa thân hình, chỉ dạo mắt một c|i đưa
quanh, là anh tạo ra đời sống, v{ trông anh như một đấng thần linh…
Nhiệm m{u đ~ tới… Anh đạp c|t đi lại phía chúng tôi, như một thiên
thần bước trên mặt biển…
Người Ả Rập giản dị nhìn chúng tôi. Anh đưa tay ấn vào vai chúng tôi,
chúng tôi vâng lời. Chúng tôi nằm xuống. Tại đ}y không còn chủng tộc,
không còn ngôn ngữ, không còn ph}n chia… Chỉ còn có người du mục nghèo
kia đ~ đặt lên vai chúng tôi hai bàn tay thiên sứ.
Chúng tôi chờ, úp trán lên cát. Và bây giờ chúng tôi nằm dài, bụng đè
trên bãi, hụp đầu vào chậu nước mà uống như nghé bò con. Người Bedouin
thấy vậy và hốt hoảng buộc chúng tôi mỗi lúc uống, mỗi lúc dừng. Nhưng
anh vừa buông tay, chúng tôi lại hụp đầu vào chậu nước trở lại.
Nước!
Ồ nước ạ, ngươi không vị, không m{u, không mùi hương, không ai x|c
định được ngươi có nghĩa l{ gì, người ta thưởng thức ngươi v{ không biết
ngươi ra sao. Ngươi không cần thiết cho sự sống: ngươi l{ sự sống. Ngươi
đem lại một khoái cảm dị thường không thể giải thích bằng gi|c quan, ngươi
dìu du khoái về cho thấm nhập vào thân thể chúng ta. Cùng với ngươi, bao
nhiêu quyền uy được giao trả lại cho chúng ta, những quyền uy mà chúng ta
đ~ đ{nh lìa bỏ. Nhờ lượng ngươi bao dung, bao nhiêu nguồn suối cạn của
buồng tim bỗng dạt dào trở lại.
Ngươi l{ của cải to lớn nhất thế gian, v{ cũng mỏng manh l~ng đ~ng
nhất, ngươi thanh khiết thế nào ở giữa dạ tr|i đất của chúng ta. Người ta có
thể nằm chịu chết bên cạnh một ngọn suối nước có hàm chất khổ thổ. Người
ta có thể nằm chết bên một cái hồ nước mặn. Người ta có thể chết với hai lít
nước sương có lẫn lộn vài chất muối. Nước ạ, ngươi không bằng lòng chịu
pha lẫn, ngươi không chịu đựng sự biến chất, ngươi l{ một Tố Nga băng
tuyết rất mực ngại ngùng.
[9]
Nhưng ngươi chan rưới tràn lan trong chúng ta một nguồn vui đơn sơ
bất tuyệt.
Còn anh, anh Bédouin xứ Libye, anh đ~ giải cứu chúng tôi, nhưng anh
sẽ vĩnh viễn phai mất hình ảnh trong ký ức chúng tôi. Tôi sẽ không bao giờ
nhớ lại gương mặt anh. Anh l{ con Người, và anh hiện ra với gương mặt tất
cả những con người cùng trong một lúc. Anh chẳng bao giờ nhìn rõ mặt
chúng tôi, nhưng gặp một lần anh đ~ nhận ra được chúng tôi rồi. Anh là
người anh em thân thích. Và tới lượt tôi, tôi sẽ nhận ra anh trong gương mặt
tất cả mọi người.
Anh hiện ra với chúng tôi trong phong độ lai láng cao vời, và bao dung
nhân hậu, như một đấng Chí Tôn và có quyền lực ban cho nước uống. Tất cả
bạn hữu của tôi, tất cả kẻ thù của tôi, cùng bước tới bên trong hình hài của
anh, và tôi không còn một kẻ thù nào ở thế gian này nữa cả.
VIII
NGƯỜI TA
1
Một lần nữa tôi tới sát mép một chân lý mà tôi không hiểu được. Tôi
đ~ tưởng mình lâm vào tuyệt địa, tôi đ~ tưởng mình chạm tới chỗ tận cùng
tuyệt vọng và, một phen chấp nhận chịu khước từ không màng gì nữa hết,
thì tôi đ~ rõ được lẽ thanh thản yên vui. Tưởng chừng như trong giờ phút
đặc thù đó, người ta chợt kh|m ph| ra chính mình, v{ người ta trở thành
bạn thiết của chính mình. Không có gì có thể chiếm ưu thắng trước cái niềm
viên mãn sung thiệm, đ|p ứng mọi đòi hỏi cốt yếu, một nhu cầu thiết thân
n{o đó ở trong ta, mà bấy l}u nay ta không để bụng quan hoài. Bonnafous,
tôi thiết nghĩ, Bonnafous từng lãng phí thân mình trong những cuộc theo
đuổi bóng vang mây gió, Bonnafous đ~ th}m cảm niềm bình thản thanh
thoát kia. Guillaumet phiêu bồng trong tuyết gi|, cũng th}m cảm nỗi niềm
đó. Còn tôi, tôi l{m sao quên được cảnh huống mình. L{m sao quên được
rằng một phen lấp thân trong cát tới tận mang tai, một phen suýt chết vì
kh|t nước, mà còn cảm thấy máu tim ấm cúng êm đềm túc mục đến thế
dưới vòm sao vây phủ?
Làm thế nào giúp cho niềm phơi phới nọ có được dịp phi dương? Mọi
sự trong con người đều bao hàm mâu thuẫn, ai cũng biết thế. Người ta bảo
đảm cơm nước cho anh chàng nọ để anh rảnh rang sáng tác, thì anh ta lại
ngủ khì; kẻ anh hùng chinh phục chiến thắng rạch đôi sơn h{ xong, bỗng
đ}m ra nhu nhược mềm dịu như hồn đ{n b{; kẻ hào hoa phóng dật, nếu
được ban cấp của cải giàu sang, lại đổ ra bo bo biển lận. Những chủ nghĩa
chính trị, tin quyết là mình mở lối khai hóa tốt tươi cho con người, những
chủ nghĩa li bì kia, đối với chúng ta thật chẳng có chi cần ích liên can cả, nếu
tự ban đầu ta chẳng biết cái loại người nào sẽ được khai hóa tốt tươi ra. Kẻ
sắp nảy nở là ai? Chúng ta không phải một bầy mục súc cần nuôi cho đông
đảo để ăn thịt hoặc để lấy phân, hoặc để lùa v{o đồi sim mà thẫn thờ bá láp,
và sự xuất hiện của một Pascal bần cùng lại nặng ý nghĩa hơn ba kẻ lai rai
lùa bò hoặc chăn dê thịnh vượng.
Cái cốt yếu, c|i anh hoa, c|i tường vi hương tính, c|i kỷ độ phát tiết
phiêu bồng, đố ai dám biết mình tiên đo|n được cho ru! Mỗi kẻ trong chúng ta đều có rõ những niềm vui lừng vai phố chị, những nỗi sướng chấn động
khe em, ấm cúng tại chính cái chốn c|i nơi m{ không có gì của ban sơ d|m
lên lời hẹn ước sẽ mai sau là tổ vọng tự ban đầu. Những niềm trước vui
sướng đó còn lưu lại trong ta xiết bao ngậm ngùi tiếc thương tơ tưởng mãi,
những cựu tình vàng sự bốc ô hinh, những vân yên về sau sầu bến cũ,
những thứ đó lung trạo đến thế nào mà xui ta nhớ nhung tới c|i độ yêu dấu
luôn cả những khốn đốn vô ngần ta phải chịu, nếu những khốn đốn nọ giúp
ta th}u góp được những vui kia. Chúng ta đứa n{o cũng đều có khoan khoái
lạ thường lúc gặp lại những thằng bạn cũ, m{ thấy lại những diễm kiều
huyền ảo của những kỷ niệm tồi tàn.
Chúng ta biết gì đ}u, ngo{i c|i điều: có những điều kiện khôn hiểu gây
mạch đời dào dạt cho chúng ta. Chân lý của con người nằm tại đ}u như vậy?
Chân lý không phải là cái gì có thể minh giải, minh thị, biểu minh
được. Nếu trong đ|m đất này chứ không trong đ|m đất kh|c, c}y cam đ}m
rễ mạnh và kết trái nhiều, thì đ|m đất đó l{ ch}n lý của cam. Nếu tôn giáo
nọ, nếu văn hóa nọ, nếu giai độ giá trị nọ, nếu thể thức hoạt động nọ, chứ
không phải thể thức kia, giai độ văn hóa tôn gi|o kia, giúp cho nảy nở viên
m~n trong con người ta nỗi sung thiệm lai láng vuông tròn, và giải phóng
được trong mình con người ta một vị lãnh chúa lộng lẫy vốn không tự giác
được chính mình từ trước, thì quả thật c|i giai độ giá trị nọ, c|i văn hóa
dưỡng dục nọ, cái thể thức hoạt tồn nọ, chính là cái chân lý của người ta.
Còn luận lý học? Thôi xin nàng luận lý học hãy cứ liều liệu mà xoay xở để
mài miệt biện minh cho đời sống đó nhé.
Suốt tập sách này tôi có kể một vài kẻ trong cái số người dường có
nghe theo tiếng gọi của khuynh hướng tối thượng, đ~ có chọn sa mạc hoặc
h{ng không, cũng như những kẻ khác ắt có chọn cổng vào tu viện; nhưng tôi
chỉ vi bội mục đích của tôi, nếu tôi đ~ tỏ ra có vẻ như muốn nhiếp dẫn các
bạn hãy tán tụng trước tiên là những con người. C|i đ|ng t|n tụng trước
tiên, ấy là cái mảnh đất l{m căn cớ thiết lập nên những con người vậy.
Hẳn l{ khuynh hướng có đóng một vai trò. Có kẻ khép mình trong
quán hàng. Có kẻ khẩn thiết bước theo con đường của mình một cách tuyệt
đối thiết tha, theo một hướng đi tối yếu: trong lịch sử tuổi thơ của những kẻ
nọ, ta tìm thấy trở lại những manh nha của niềm hưng phấn khả dĩ minh
giải được định mệnh nào của họ đ~ nhiếp dẫn họ đi theo. Nhưng Lịch Sử, được nhìn thao láo về sau, lúc mọi sự đ~ th{nh tựu rồi, Lịch Sử lại gây ảo
tưởng lẩn thẩn. Bởi rằng những hưng phấn, hăm hở nói trên, ta có thể tìm
nhận thấy ra nơi hầu hết mọi người. Chúng ta đều có biết những anh chàng
bán quán, nhân một đêm n{o có b~o giông đắm thuyền, nhân một đêm n{o
có hỏa hoạn, bỗng dưng anh ch{ng lai rai nọ đột ngột trút bỏ bản chất bê
bết đi, v{ hiển lộ ở trong vòng những hào quang lộng lẫy: anh chàng tỏ ra
cao cả hơn chính mình. V{ anh ch{ng cũng không lầm về tính chất niềm
sung mãn thiệm túc của anh: đêm đắm tàu, đêm hỏa hoạn kia, sẽ mãi mãi là
c|i đêm vô song của đời anh. Nhưng vì thiếu những cơ hội mới, thiếu đất
thuận lợi, thiếu tôn giáo nghiêm mật yêu sách, những anh chàng lại ngủ khì
trở lại, kê đầu trên gối mộng mà vắng bóng chiêm bao, và quên, quên tuốt,
không còn tin tưởng nữa nơi tinh thể hoằng viễn của chính mình. Quả thật,
khuynh hướng quả có giúp cho con người tự giải tho|t: nhưng cũng cần làm
sao để giải tỏa cho những khuynh hướng được nảy hột vọt ra.
Đêm thinh không, đêm sa mạc… l{ những cơ hội ngẫu nhĩ hiếm hoi,
không đi tr{n lan tới để hiến thân mình cho mọi người thiên hạ. Ấy tuy
nhiên, lúc cảnh huống giậy giàng về n|o động, thì tất cả mọi người cùng
biểu thị lai láng những nhu cầu xao xuyến như nhau. Tôi không đi xa đề tài,
nếu đem kể lại đ}y một đêm tại T}y Ban Nha đ~ thức tỉnh cho tôi nhìn vỡ lẽ
ra sự vụ nọ. Tôi đ~ nói qu| nhiều về một vài kẻ riêng tây, và bây giờ tôi
muốn nói về mọi kẻ.
Chuyện tại mặt trận Madrid, tôi tới viếng với tư c|ch phóng viên. Tối
hôm đó, tại một cái hầm trú ẩn, tôi dùng bữa với một vị đại úy trẻ.
2
Chúng tôi đang trò chuyện thì điện thoại reo. Đối thoại kéo dài: một
cuộc tấn công do bản doanh truyền lệnh, một cuộc tấn công phi lý não nùng,
tuyệt vô hy vọng, quyết chiếm lấy v{i căn nh{ thuộc vùng ngoại ô thợ
thuyền, đã biến thành những ph|o đ{i xi măng. Viên đại úy nhún vai và
quay trở lại bảo: “Những đứa nào trong bọn chúng ta sẽ thò đầu đi tiên
phong…”, rồi anh ta đẩy hai ly cô-nhắc lại, một cho viên đội đang ngồi tại đó,
và một cho tôi. Anh bảo viên đội:
- Anh ra trước hết, với tôi. Uống đi, rồi ngủ một trận nhé.
Viên đội đ~ đi ngủ rồi. Quanh chiếc bàn ấy, chúng tôi mười hai người
cùng thức. Trong căn phòng kín bưng ấy, không một tia sáng lọt ra ngoài,
ánh chói gay gắt quá, khiến tôi nháy nheo mãi hai mắt. Tôi đ~ có dòm liếc ra
ngoài một c|i, trước đó năm phút, qua một lỗ hở ẩn kín ở trong v|ch tường.
Vén tấm vải che cái lỗ hở nọ, tôi nhìn thoáng ra ngoài thấy dưới bóng trăng
rờn rợn khí u cốc, những căn nh{ hoang phế như nh{ ma mời quỷ đi về. Lúc
đặt mảnh vải trở lại trên cái lỗ hổng đ~ dòm xong, tôi có cảm tưởng như
mình đ~ lau chùi giúp ai c|i |nh v{ng của chị nguyệt, như lau chùi một vệt
dầu loang lai láng. Cho tới bây giờ, tôi vẫn còn giữ gìn trong hai mắt cái hình
ảnh những ph|o đ{i rờn rợn lục pha lam.
Mấy anh lính này chắc hẳn sẽ đi không mong kỳ hậu hội, nhưng họ
làm thinh theo tiết tháo thói nhà. Cuộc tấn công n{y cũng l{ theo lẽ hằng
nghề nghiệp. Quân mạc tiếu… Người ta thò tay hốt một nắm ở trong cái kho
người dự trữ. Người ta thò tay vốc một nắm ở trong cái vựa thóc tích tụ
th|ng ng{y. Người ta đưa tay gieo hột, vãi giống, cho rớt v{o đường xẻ
ruộng nương, mai sau mọc mạ.
Và cô-nhắc bây giờ cũng l{ bồ đ{o mỹ tửu thiên thu, thì chúng tôi xin
uống. Bên phải tôi, người ta lạo xạo đ|nh cờ. Bên tr|i tôi, người ta gieo câu
nói rỡn. Tại đ}y tôi ở chốn nào? Thế ru? Một ch{ng lướt khướt cơn tỉnh cơn
say mò mẫm bước v{o. Anh đưa tay ve vuốt chòm râu rậm rì hi hữu, v{ đưa
hai con mắt cợt l{n như mơn trớn chúng tôi. Làn sóng mắt lướt trên ly cô-
nhắc, lờ lững ngó lơ đi, lại trở về vuốt ve cô-nhắc, xoay một c|i, đậu vào
th}n đại úy, rất mực vòi vĩnh van n{i. Đại úy âm ỷ cười ngầm, hoang vu một
cách. Anh chàng chớm dậy cơn hy vọng mê ly, cũng nhoẻn miệng cười theo,
hoang vu một cách. Một trận phiêu bồng mỉm miệng đ~ lan tràn lung trạo
khắp mặt cô b|c đương hiện diện b{ con. Đại úy khẽ dịu dàng kéo lùi chai
yểu điệu, làn mắt anh chàng chợt trở cơn ra trò tuyệt vọng, một trận hú tìm
lất l}y thơ dại đ~ động tình mở cõi ra phơi, tịch mịch khinh khiêu, im lìm vũ
lộng, chập chờn trong xiết bao làn khói thuốc vươn lên, trong mòn hao vợi
t{n đêm trắng lậu, trong hình ảnh sắp đi về trấu lặng lẽ của chiến trận ngày
mai, ấy đó l{ mơ? Ấy chiêm bao là mộng.
Và chúng tôi chịu chơi trong cuộc, khép kín cõi mình rất ấm trong cái
hầm tàu phiêu dạt đương trôi, trong khi ngo{i kia hốt tung, hốt hấng, những
tiếng nổ ròn gia bội như cơn sóng từng đợt điệp trùng vỗ trên mặt biển khơi.
Những người kia chốc nữa sẽ trút sạch làu làu những mồ hôi hiện đại,
những tơ tưởng bồ đ{o cô-nhắc trì diên, những nhơ bẩn b|m đầy thân
trong chờ đợi, giữa những cơn nước hòa hoa đổ quán của canh trường
chiến trận đêm th}u. Tôi cảm thấy họ tới sát mép bờ của thuần thanh thánh
thiết. Nhưng còn một khắc nào chậm rãi, thì cứ ở lại nấn ná thong dong
nhảy cỡn cho kéo dài tới đ}u cơn nhảy thì tới đó nhảy cơn c|i vũ khúc mê ly
của g~ say tình rượu, trút bình nốc chén, thù tạc chiêu đăm. V{ đuổi theo
cho tới chỗ kiệt cùng của đuổi theo, cái cuộc cờ kỳ tuyệt trên vạn lý biển
dâu. Họ kéo d{i ra c|i cơn sống cuộc đời nhứt thì thiên tải, được chút nào có
thể, thì được chút đó thể hiện ra. Nhưng họ đ~ lên gi}y c|i đồng hồ đ|nh
hiệu nó ngự tròn trên một cái giá kệ chơi vơi. Đồng hồ sẽ điểm chuông. Thì
bọn người kia sẽ đứng lên, vươn mình, nai nịt. Đại úy sẽ vớ khẩu súng lục
trúc mai ái giắt v{o mình. Rượu hết men rồi. Tỉnh táo chứ. Ch{ng rượu dứt
áo với thiếp men. Và mọi người sẽ chậm rãi nối đuôi nhau theo con đường
du lang lài lài giôn lên thong dong ghé lại như dặn dò rất mực với một mảnh
xanh ngần hình chữ nhật hương lừng chị nguyệt bích liên thiên. Họ sẽ nói
v{i c|i đơn sơ như: “Tấn công cà gật… Chiến địa chết bằm… Tiền tuyến toi
đ}m…” hoặc “C|i rét chịu chơi… Gió sầu tay tổ”. Rồi các cha nội sẽ phóng ầm
ra xông tới.
Đến giờ, tôi chứng kiến cơn tỉnh giấc của viên đội. Anh nằm ngủ duỗi
dài trên một chiếc giường sắt, giữa những đống vôi gạch đổ nát trong một
xó căn hầm. Tôi nhìn anh nằm ngủ. Tôi tưởng mình cũng có biết c|i hương
vị của giấc ngủ kia không khắc khoải không hoang mang, nhưng bình yên
hạnh phúc làm sao! Nó xui tôi nhớ lại c|i ng{y đầu tiên trong sa mạc Libye,
Prévot và tôi, mắc nghẽn giữa trời, không nước uống, mắc nghẽn giữa cát
nghe hiểm họa trùng trùng, v{ trước khi cơn kh|t trở nên qu| điêu linh,
chúng tôi vẫn còn có thể ngủ được một lần, chỉ một lần thôi hai giờ thẳng
giấc. Lúc nhắm hai con mắt lại, khởi sự vào giấc ngủ, tôi đ~ có cảm tưởng
mình sử dụng một quyền hành kỳ diệu: quyền khước bỏ thế giới hiện hữu.
Làm chủ một tấm hình h{i chưa lên cơn n|o động, còn để tôi túc mục yên
bình, đối với tôi lúc đó, một phen đ~ vùi đầu trong hai cánh tay rồi, thì
chẳng còn cái gì phân biệt chia xa c|i đêm của tôi với một đêm hạnh phúc.
Cũng vậy, viên đội nằm khoanh tròn mà ngủ, không ra dạng hình
người, và lúc những kẻ vào gọi anh dậy đ~ thắp một ngọn nến lên và cắm nó vào một miệng chai, thì thoạt tiên tôi chẳng biện biệt được cái gì ra cái gì
đương nhô lên khỏi c|i đống lù lù vô dạng, trừ ra đôi gi{y lính. Đôi gi{y thật
bự, có đóng đinh, bọc sắt, đôi gi{y của người lao công hay của người phu
khuân vác ở bến tàu.
Anh chàng n{y mang nơi ch}n những khí cụ làm việc, và tất cả mọi thứ
trên th}n anh cũng to{n l{ khí cụ: bao đạn, súng lục, giây da, nịt lưng. Anh
mang đủ yên cương, gi{m, |ch, đầy đủ các mã cụ của một con ngựa cày bừa.
Tại Maroc, nơi những hầm s}u, ta thường thấy những con ngựa mù kéo cối
xay. Tại đ}y, trong c|i hầm n{y, dưới ánh le lói lắt lay đỏ nhợt nhạt của ngọn
nến, người ta cũng đang đ|nh thức một con ngựa mù để xô nó vào cuộc
phiêu bồng với tiết điệu cối xay.
- Hép! Thầy đội ơi!
Thầy đội rục rịch thong dong, lò gương mặt còn ngái ngủ ra một chút,
miệng lằm bằm chẳng rõ nói chi. Nhưng lại xoay trở v{o tường, không
muốn tỉnh giấc, còn muốn rúc s}u v{o trong đ|y thẳm của giấc ngủ như rúc
vào trong cõi bình an bụng mẹ, như lặn xuống đ|y nước sâu hang, hai nắm
tay loay hoay mở khép như bấu vào một cục rong rêu đen sì đong đưa tròn
xinh đ}u đố ai biết, để ghì thân ở lại đ|y lu}n trầm. Thôi đ{nh phải gỡ ngón
tay chàng ra vậy. Chúng tôi ngồi lên giường anh, một người nhẹ đưa c|nh
tay luồn dưới cổ anh và mỉm cười nâng c|i đầu nặng như thiên lôi nọ. Thật
cũng có bề êm dịu giống như trong ấm áp chuồng ngựa cái cảnh tượng dịu
dàng của đôi lứa ngựa cụng đầu vào cổ nhau cho cọ cọ. “Ê! Anh bạn!”. Trong
đời tôi chưa hề thấy gì th}n |i như thế. Viên đội gắng một lần cuối để trở
vào trong những cơn mộng vui tươi của mình, để từ khước c|i vũ trụ của
chúng ta đầy rẫy những cốt mìn, những mòn hao, những canh dài giá buốt;
nhưng chậm mất rồi. Một c|i gì đương lung trạo bức bách, một c|i gì đi tới
tự bên ngo{i. Như tiếng chuông nhà trường sáng Chủ Nhật chầm chậm đ|nh
thức cậu học trò bị phạt. Cậu đ~ quên hết những bàn ghế, những bảng đen
phấn trắng, những bài chép phạt. Cậu mơ m{ng nghĩ tới những cuộc chơi
ngo{i đồng; luống công. Tiếng chuông dội mãi và nghiêm khốc lôi cậu trở
vào giữa cuộc bất công của nh}n gian, không c|ch gì cưỡng nổi. Cũng tương
tự thế, viên đội dần dà thu nhận trở về cái tấm thân hao mòn nhọc mệt, cái
tấm thân dạn d{y lăn lóc ch|n chường, cái tấm thân mà mình không còn
thiết tới nữa, nhưng biết trút cái của phá gia nọ đi đ}u, c|i tấm thân sắp sửa
phải nếm lại mùi tiền oan, nghiệt chướng trong lạnh lẽo sực tỉnh cơn, những rã rời đốt khớp, những tàn rụng da xương, rồi tới cái khối nặng yên cương
giàm ách, rồi cái cuộc chạy lịch kịch cuồng điên, rồi cái chết. Cái chết cũng
chẳng đến nỗi n{o, nhưng n~o dạ là cái chết oan gia: cái máu tuôn bầy nhầy
đống vũng, c|i mười ngón tay nhúng v{o gượng gạo chống chỏi đứng lên,
cái hổn hển thở từng cơn, c|i gi| buốt chạy khắp ch}u th}n hay bước tự bốn
bề ùa vào vây bọc; cái chết cũng chưa đến nỗi n{o, nhưng còn c|i tồi tàn của
cuộc chết. Nhìn viên đội, tôi tư lự mãi, tôi gẫm lại cái cảnh ảo não của mình
lần kia tỉnh giấc, cái cuộc dồn dập gia tăng của khát, của nắng, của cát, mình
phải đưa th}n ra mang lấy, g|nh v{o, ôi đời, ôi mộng, cái mộng đời tôi
không được phép chọn theo tình tự tôi chiêm bao.
Nhưng anh đ~ đứng lên, nhìn thẳng chúng tôi trong con mắt:
- Tới giờ?
Chính đó l{ lúc con người xuất hiện. Chính tại đ}y l{ chỗ con người
đứng ngoài vòng dự toán của luận lý: viên đội mỉm cười! Thế l{ nghĩa lý gì?
Cám dỗ nào lôi? Du hoặc nào cuốn? Tà dục nào lung trạo suốt tâm linh? Tôi
nhớ lại một đêm Paris. Đêm đó, Mermoz v{ tôi đ~ yến tiệc tạc thù với vài bè
bạn, mừng một chu niên n{o đó chẳng nhớ. Tinh sương tờ mờ, hai đứa còn
ngồi tại qu|n rượu, ch|n chường vô độ vì c|i vô độ của uống, đ~ ăn, đ~ cười,
đ~ nói đến ăm ắp buồn nôn rã rời vô lối. Nhưng trời hửng s|ng, Mermoz đột
ngột chụp lấy cánh tay tôi bóp mạnh đến nỗi nghe cả mấy móng tay anh
bấm v{o. “Anh nhớ chứ, giờ này tại Dakar…”. Giờ này các anh thợ m|y đang
dụi mắt, lột lớp vải bọc chong chóng phi cơ, giờ n{y phi công đi hỏi khí
tượng, giờ này mặt đất chỉ còn đón b{n ch}n nao nức của bạn đồng nghiệp
qua lại dập dìu. Trời ửng hồng rồi, yến tiệc soạn sửa rồi, nhưng cho ai kia,
khăn bàn trải ra rồi cho một lễ hội mà chúng tôi sẽ không làm thực khách
tham dự. Những kẻ kh|c đang liều mình…
“Tại đ}y sao m{ dơ d|ng…”
Mermoz dứt lời.
Còn anh, anh đội, yến hội n{o anh được mời vào tham dự, rất đ|ng
liều thân?
Trước kia, tôi đ~ từng được nghe anh thổ lộ t}m tình. Anh đ~ từng kể
lại chuyện đời anh: một chân kế to|n lai rai đ}u đó tại Barcelone, tại đ}y
anh đ~ th|ng ng{y biên chép h{ng ng{n con số, và anh không bận tâm nhiều
vì những chia rẽ trong nước anh. Nhưng một thằng bạn anh bỗng tòng
quân, rồi một thằng thứ hai, rồi một thằng thứ ba, và anh bỗng ngạc nhiên
nhận thấy mình đang chịu một cơn biến đổi dị thường: công việc làm bỗng
dần dần thấy tẻ nhạt vô nghĩa. Những vui chơi, những lo nghĩ, những tiện
nghi tủn mủn, thảy thảy biến thành những thứ gì đ}u của một xa xôi quá
v~ng. Nhưng đó chưa phải là cái hệ trọng. Cho tới lúc nghe tin một thằng
bạn chết, tử trận bên Malaga. Thằng bạn cũng chẳng phải là chí thiết chi cho
lắm mà nói tới ý muốn trả thù cho nó. Còn như nói về chính trị, thì đó lại là
thứ chẳng bao giờ anh quan tâm. Thế tuy nhiên, cái tin kia lại phóng tới trên
mình, trên căn số tủn mủn đời mình, mạnh như trận gió biển. Một thằng bạn
nhìn anh sáng nọ:
- Đi chứ ta?
- Đi chứ.
V{ hai đứa đ~ “đi”. Hai đứa “đi chứ ta – đi chứ” đ~ lên đường tới đó, tại
chốn kia.
Và hình ảnh chợt đến để giải thích với tôi cái chân lý mà anh không
tìm được lời để diễn tả, nhưng tính c|ch hiển nhiên của nó đ~ chi phối lòng
anh.
Vào mùa chim di thê, lúc những bầy vịt trời từng đợt bay ngang qua
trời rộng, thì chúng gây nên những triều sóng dị thường tại những miền đất
ở phía dưới dặm m}y bay. Lũ vịt nh{, ngong ngóng nhìn lên, như dường bị
nhiếp dẫn bởi đường bay lớn rộng của h{ng ngũ vịt trời xếp theo hình tam
giác dìu dặt tiện gió lướt đi, lũ vịt nhà bỗng dang cách sập sè vụng về đạp
nhảy. Tiếng gọi hoang vu đ~ đ|nh thức dậy nơi chúng những tàn tích hoang
vu nào chẳng rõ. Và bỗng dưng trong một phút, lũ vịt nhà biến làm chim di
thê thiên tẩy. Bỗng dưng trong c|i đầu âm u bé bỏng cứng rắn kia, vốn chỉ
ghi lại quẩn quanh những hình ảnh ao con, nước đục, s}u đen, chuồng tối,
thoắt thôi bỗng trào dậy những cơn phiêu bồng thênh thang lục địa, hương
vị những gió dàn trên mặt sóng mênh mông, những địa lý đại dương, những
họa đồ đại hải… Con vật ngu ngơ vẫn không biết rằng cái óc não bé bỏng của mình lại đủ rộng để mang chứa được bao nhiêu là kỳ quan kiều diễm, thế
m{ đột nhiên nó đ~ đập cánh chịu chơi, khinh thường hột thóc, khi dễ con
sâu, và muốn mình phải trở nên vịt trời hoang vu n|o động.
Nhưng tôi nhớ nhiều nhất là mấy con nai sa mạc cũ: tại Juby ngày
trước tôi có nuôi mấy con nai sa mạc, tục gọi l{ linh dương. Bọn chúng tôi
thủa đó, tại xứ xa xôi kia, ai ai cũng có nuôi linh dương tròn trịa đôi mắt.
Chúng tôi nhốt chúng nó trong một căn nh{ bằng dây kẽm đan mắt c|o, để ở
ngoài trời, bởi vì linh dương cần có những ngọn nước của gió động phi
tuyền, và không có giống gì yếu thơ, ng}y dại, mãnh khảnh du dương bằng
linh dương được cả. Bắt về nuôi lúc chúng còn bé, chúng vẫn sống được, và
đưa mõm gặm nhai tại trong b{n tay người đút. Chúng bằng lòng để cho
người vuốt ve, và dụi c|i mõm ướt của chúng vào giữa lòng sũng của bàn
tay chúng ta. V{ ta tưởng chúng đ~ thuần tính, chịu dan díu cư trú với
người, và quen thuộc nết nhau. Ta tưởng đ~ che chở được chúng trước sức
xâm nhập của mối sầu khôn tả, khó hiểu lạ lùng, vốn âm ỷ nung nấu hao
mòn hồn linh dương trong lặng lẽ, v{ đưa chúng nó tới cái chết vô hạn êm
đềm… Nhưng một ngày kia bỗng ta thấy chúng thẫn thờ tỳ cặp sừng bé
bỏng vào tấm lưới kẽm gai, hướng đầu về phía sa mạc. Một sức nam châm
đang hút linh hồn óng ả của linh dương. Chúng không biết rằng chúng trốn
tr|nh con người ta. Chén sữa ta mang lại cho chúng, chúng vẫn tiến đến
uống. Chúng cũng đứng yên đưa hình h{i cho ta vuốt, chúng vẫn dụi mõm
vào lòng bàn tay chúng ta, càng thân ái thiết tha muôn v{n hơn nữa. Nhưng
ta vừa thả lỏng ngón tay buông chúng ra, ta mới nhận thấy rằng sau một lúc
động mình tuyết bạch chúng nhảy tung tăng có chiều như vui, có chiều như
hạnh phúc hân hoan bỗng nhiên chúng bị thu hút trở lại bởi niềm gì khác
đó, v{ quay trở lại bên lưới kẽm gai, tì đầu vào kẽm đan mắt cáo. Và nếu ta
không can thiệp vào nữa, chúng nằm yên tại đó, cũng chẳng gắng phá
chuồng, chẳng chống chọi vì với c|i lưới chắn ngang, chỉ giản dị tỳ cặp sừng
bé bỏng vào đó, cúi cổ thấp ngẩn ngơ, lặng thinh cho tới chết. Phải chăng
mùa yêu đương n|o động, phải chăng tuần ân ái than van, hoặc phải chăng
chỉ là khát vọng thiết tha một cuộc nhảy tung trời khiêu dược cho phí sức
ngất hơi? Linh dương không rõ. Gặng hỏi nàng, nàng chẳng nói cho ta hay.
Hỡi ôi, từ thủa sơ sinh, ngay khi hai con mắt còn chưa mở mi ra, các cô bé
đ~ vội lìa vú mẹ mà lọt sang tay người. Các cô nào có hay có biết một tý gì
đ}u của chất hằng sa mạc, của thói thường tự do, của hương lừng hưng dật,
phong dụ tình trai. Con đực l{ c|i gì, c|c cô không rõ. Nhưng c|c anh, c|c
anh thông thạo hơn nhiều. C|i điều xui các cô trở cơn xao x|c, c|i sự khiến các cô trở chứng kiếm tìm, c|i đó c|c anh biết rõ, và duy chỉ khoảng rộng
tuyết mù là có thể thành tựu giúp các cô thôi. Các cô muốn trở thành linh
dương v{ nhảy múa theo tiết nhịp linh dương. Tốc độ tung bay theo nhịp
nhún nhảy của một trăm ba chục cây số một giờ, dặt dìu, lướt gió, các cô
muốn biết thế nào là trận nhảy thẳng băng trên ho{ng sa trực tuyến, thế
nào là chợt dừng phiêu hốt, thế nào là chợt vút thẳng lên cao, như bất thình
lình tại đ}y, tại đó, những tia lửa hừng đột ngột từ lòng cát vọt lên. S| gì lũ
sài lang rình rập, nếu chân lý của linh dương l{ phải nếm cái vị kinh hoàng,
cái mùi hoảng vía, cái lạc phách xiêu hồn riêng đủ sức xô ép các cô vào cõi
mộng tự vượt qu| mình, để nảy hột tinh anh giữa tuyền oa lộng múa. Sá gì
sư tử kim mao, nếu chân lý của linh dương l{ được quyền nhập v{o cơn
nắng mặt trời để vỡ tan hình hài trong móng nhọn! Bạn nhìn chúng và bạn
nghĩ: { ra thế, c|c cô n{y đương chịu trận tư hương. Tư hương l{ kh|t vọng
quê nào của chân trời gì chẳng biết… Đối tượng của kh|t khao, c|i đó l{
thật, nhưng lại không lời để nói được nó ra.
Còn chúng ta, chúng ta đang thiếu thốn cái gì?
Anh đội ơi, anh tìm ra c|i gì tại đ}y khả dĩ đem lại cho anh cái cảm
tưởng mình không vi bội định mệnh của mình? Có lẽ c|i c|nh tay huynh đệ
n}ng đầu anh lúc anh còn ngái ngủ, mà sẻ chia chung? “Ê! Anh bạn…”. Ái
ngại giùm, là kẻ đứng rẽ riêng mà nhìn ngó. Thế vẫn còn cách biệt. Nhưng
trong tình giao hảo, còn có một độ cao vời hảo hợp, tại đó lòng tri }n, lòng
thương hại, cùng không còn nghĩa nữa. Tại đó người ta hô hấp như một tên
tù được thoát ly cùm xích.
Chúng tôi có biết niềm hảo hợp đó, lúc chúng tôi bay từng đội hai phi
cơ vượt qua miền Rio de Oro thuở đó còn chưa quy thuận. Tôi không một
lần nào nghe thấy kẻ lâm nạn cảm tạ người giải nguy. Thường thường
chúng tôi lại còn chưởi bới nhau chán chê nữa là khác, nhân những cuộc lây
lất nhọc nhằn chuyền các bao thư tín từ phi cơ n{y sang phi cơ kh|c tại các
trạm nghỉ: “Thằng toi đ}m! Đồ chết bằm! Tao mà bị hỏng m|y lúc đó lại tại
m{y, m{y bướng bỉnh như quỷ gặp thiên lôi, cứ điên rồ đòi bay cao hai
nghìn thước cho được, giữa cơn gió thổi ngược chiều! Nếu mày biết thân mà
nghe theo tao bay thấp, thì có phải đ~ tới Port Etienne rồi không! Đồ toi
đ}m!”. V{ đứa kia đ~ liều thân phụng hiến, lại một phen thấy xấu hổ nhận ra
mình làm một cái thứ “toi đ}m” hoặc “lồi hang” chi đó. Nếu nói cảm tạ nhau,
thì cảm tạ thằng kia vì cái vụ gì mới được chứ? Nó cũng có c|i quyền vào sinh ra tử trên cuộc sống của chúng tôi đối với nó. Chúng tôi đều là các cành
nhánh của một thân cây. Mày cứu tao, thì tao rất lấy l{m kiêu h~nh được có
một thằng bạn chịu chơi như m{y!
Anh đội ơi, nó mà ái ngại giùm anh thì còn ra thể thống gì nữa. Mà tại
sao nó phải ái ngại, nó là kẻ sắp trang bị anh đủ đầy để anh đi ra ngo{i kia
chịu chết. Các anh chia nhau một hiểm nguy, c|c anh đảm nhận cuộc liều
th}n đứa n{y vì đứa kh|c. Trong phút gi}y đó, người ta nhận ra cái niềm
hảo hợp kia không cần lời phô diễn nữa. Tôi đ~ hiểu cái cuộc: “đi chứ ta – đi
chứ” của anh. Nếu ở Barcelone anh đ~ nghèo n{n, cô đơn sau buổi làm công
việc, nếu ngay cả tấm th}n anh cũng không nơi lưu trú, thì tại đ}y anh cảm
thấy mình đang th{nh tựu nghiệp mình, mình đang đi v{o cõi của xứ miền
bất tuyệt đại hòa đồng. Anh, con người bị ruồng bỏ, bây giờ anh được đón
nhận bởi tình thương.
Tôi chẳng cần biết là thật hay không, là hợp luận lý hay không, những
cái tiếng văn hóa to lớn của những người làm chính trị, những tiếng đó có lẽ
đ~ gieo mầm rắc mống v{o trong con người anh. Nếu những tiếng đó đ~
lung trạo được anh, v{ đ}m chồi ra được, như những hạt giống đ}m được
chồi ra, thì ấy bởi l{ chúng đ~ đ|p ứng được khát vọng của anh. Riêng anh là
quan tòa xét đo|n. Riêng đất đai nhận ra được hạt lúa của mình.
3
Liên kết các anh em bởi một mục đích chung nằm ngoài vòng chúng
ta, chỉ khi đó chúng ta mới đề huề hô hấp, và kinh nghiệm cho ta thấy rằng
yêu thương không phải là nhìn qua ngó lại nhau, mà ấy là cùng nhìn ngó
chung về một hướng. Chỉ thật là bạn hữu lúc cùng liên kết trong một đoạn
d}y leo núi, hướng lên một chóp, tại đó bồ bịch lại trùng phùng. Nếu không
thì tại sao ngay giữa thế kỷ tiện nghi an lạc này, chúng ta lại cảm thấy một
niềm vui viên m~n đến thế, lúc chia nhau những thức ăn cuối cùng trong sa
mạc? Trước sự vụ đó, những dự tính của những nhà xã hội học còn có nghĩa
lý chi? Đối với tất cả những ai trong chúng tôi đ~ từng biết niềm vui tót vời
của những lần cứu nạn trong Sahara, mọi khoái lạc đều tủn mủn tầm phào.
Có lẽ vì vậy mà thế giới ng{y nay đang khởi sự rạn vỡ quanh ta. Ai
cũng động cơn say cuồng vì những tôn gi|o đang hứa hẹn với họ niềm vui
túc mục tròn đầy kia. Tất cả chúng ta, bằng những tiếng mâu thuẫn nhau lốp đốp, chúng ta cùng phô diễn những kiền tình, hưng phấn giống nhau. Chúng
ta chia rẽ nhau trên bình diện những phương s|ch, chúng l{ kết quả của
những luận lý, chúng ta không chia rẽ nhau vì mục đích: mục đích giống
nhau.
Từ đó, ta đừng nên kinh ngạc. Kẻ nào không hay biết gì cả về cõi bí
nhiệm tiềm ẩn trong mình, nhưng chợt một lần cảm thấy nó trở cơn thức
giấc trong một căn nh{ hầm của những người chủ trương vô chính phủ tại
Barcelone, nhân vì chứng giám và tham dự những hy sinh, tương th}n
tương trợ, những hình ảnh nghiêm mật của công chính, kẻ đó suốt đời sẽ
biết riêng một chân lý: chân lý của người vô chính phủ. Và kẻ nào có lần đ~
mang thân canh gác bảo vệ một đo{n thể nữ tu bé bỏng quỳ gối kinh hoàng
trong những tu viện Tây Ban Nha, kẻ đó sẽ nguyện suốt đời liều thân cho
giáo hội.
Lúc Mermoz phóng phi cơ tới triền núi Andes thuộc địa phận Chili,
mang niềm tin thắng cuộc trong lòng, nếu ta bảo anh rằng anh lầm to, rằng
một l| thư của một người buôn bán có lẽ không đ|ng để anh liều th}n như
thế, thì Mermoz ắt hẳn đ~ cười anh. Chân lý, ấy l{ c|i con người đang nảy nở
ở trong anh, lúc anh vượt dãy Andes.
Nếu anh muốn chứng minh cho thấy thảm khốc ghê tởm của chiến
tranh, với một kẻ không từ chối chiến tranh, anh đừng coi họ là dã man, tìm
hiểu họ trước khi phê phán họ.
Ta thử gẫm chuyện vị sĩ quan chỉ huy một đồn binh tiền tuyến trong
buổi chiến tranh tại Rif, đồn binh đó nằm ép giữa hai ngọn núi địch. Một
đêm nọ, ông đón tiếp ph|i đo{n thương thuyết từ dãy núi phía Tây xuống.
Đang uống trà với nhau thì súng nổ. Qu}n địch d~y núi phía Đông tới đ|nh
đồn. Vị chỉ huy muốn xua các vị quân sứ ph|i đo{n thương thuyết đi, để
rảnh tay ra trận, thì các vị n{y đ|p: “Chúng tôi l{ kh|ch của ngài tối nay,
Thượng Đế không cho phép chúng tôi bỏ ng{i…”. Thế là họ nhập vào hàng
ngũ thuộc hạ của ông, giải tho|t đồn ông, rồi leo trở về sào huyệt chơi vơi
như tổ ó đầu non của họ.
Rồi tới lượt họ soạn sửa tấn công. Trước một ngày, họ phái sứ giả tới:
- Tối hôm trước, chúng tôi có giúp ng{i…
- Chính thế.
- Chúng tôi đ~ bắn ba trăm viên đạn…
- Chính thế.
- Phát hoàn số đạn ấy lại chúng tôi, là phải lẽ.
Vị đại úy, vốn người hào hoa quân tử, không thể lợi dụng c|i chút ưu
thế trong cuộc chơi, nó có được là do lòng quân tử hào hoa của phía địch.
Ông hoàn lại họ những viên đạn ngày mai họ sẽ dùng để đ|nh ông.
Ch}n lý đối với con người, l{ c|i gì l{m con người thành một con
người. Khi một kẻ nọ vốn biết giữ gìn phong thể trung chính trong giao tế,
trung thực đ{ng ho{ng trong cuộc chơi, trung tín trong quý chuộng nhau
can tràng tâm phúc “một lời đ~ biết đến ta”, khi kẻ đó gẫm tới cái cõi cao
thượng trong bầu không khí mình được “phép” hoạt du, và gẫm ra cái miền
lai rai tử tế của kẻ gian dối mỵ dân nếu gặp dịp thì ắt cũng đ~ tỏ tình tương
giao huynh đệ với cũng chính mấy ông Ả Rập này bằng những vỗ vai bá cổ,
cũng ắt đ~ nịnh nọt họ v{ đồng thời làm nhục nhã họ (toujours
amicalement, bien entendu!), kẻ ấy nếu gặp ta, nghe ta bảo rằng chàng vị tất
đ~ h{nh động đúng đường khôn ngoan khôn khéo, thì hẳn y chỉ chào ta
bằng một niềm thương hại pha chút khinh bỉ. V{ chính ch{ng ta có lý đó.
Nhưng m{ anh cũng sẽ có lý như thường, nếu anh ghét chiến tranh.
Muốn hiểu con người và những như cầu của nó, muốn biết nó trong
phần cốt thiết, thì chẳng nên đem những chân lý hiển nhiên của ta ra mà
cho chúng chọi nhau lại qua lốp đốp. Vâng, các anh có lý. Tất cả c|c anh đều
luôn luôn có lý. Luận lý minh giải được mọi sự. Cái anh chàng nọ cũng cứ có
ý luôn, c|i anh ch{ng đem trút lên đầu những g~ lưng gù tất cả những hoạn
nạn thống khổ trần gian. Nếu chúng ta một mai mở cuộc chiến tranh chống
bọn lưng gù, thì chúng ta cũng sẽ mau hăm hở nhiệt thành lắm đó. Chúng ta
sẽ trả thù tội ác của bọn gù lưng. V{ quả thật bọn gù lưng cũng l{m nên tội
ác của lưng gù.
Muốn thử giải khai cái phần cốt yếu nọ, cần phải tạm quên những mối
chia rẽ trong chốc lát, những mối chia rẽ bất hòa, một khi đ~ chấp nhận, sẽ
lôi theo cả một quyển Kinh Thánh thiêng liêng chứa những chân lý cứng
đen như đ| không bao giờ nhúc nhích, không bao giờ rục rịch, và mở đường
cho tinh thần cuồng tín… kể từ… tự đó… m{ ra… Người ta có thể chia thiên
hạ ra làm hai loại người, người phía hữu v{ người phía tả, người gù lưng v{
người không lưng gù, người ph|t xít v{ người dân chủ, và hỡi ôi, những
phân biệt chia xa kia đố ai m{ kích b|c cho được. Nhưng, bạn cũng biết đó,
chân lý là cái gì dung-dị-hóa cảnh đời, chớ đ}u phải là cái gì tạo lập cõi hỗn
độn nh{ ma. Ch}n lý, đó l{ c|i ngôn ngữ giải khai phơi mở cái phổ cập hòa
đồng. Newton không có “ph|t minh” một định luật ẩn giấu lâu ngày theo
c|ch điệu một lời giả ngữ mê, ngôn ẩn. Newton đ~ thực hiện một công trình
sáng tạo. Ông đ~ thiết lập một thứ ngôn ngữ trần gian khả dĩ đồng thời diễn
tả sự rụng rơi của một quả táo trên hai hàng cỏ mọc bờ đồng, hoặc sự vụ
mặt trời đỏ đăng thiên. Ch}n lý, không phải là cái gì có thể minh giải, chân lý
là cái gì giản dị hóa cho mê cung.
Ích gì đ}u việc bàn luận về những lý thuyết, những quan niệm luận,
những ý thức hệ? Nếu tất cả chúng đều có thể chứng minh, thì tất cả chúng
cũng chọi nhau thảy thảy, và những luận bàn kia chỉ gây tuyệt vọng cho sự
giải cứu con người. Trong khi đó thì con người, khắp nơi, quanh ta, vẫn bày
tỏ những nhu cầu giống nhau như hệt.
Chúng ta muốn được giải thoát. Kẻ đ{o một nhát cuốc muốn biết nhát
cuốc có một ý nghĩa n{o. V{ nh|t cuốc của kẻ tội đồ, đương l{m nhục nhã tội
đồ, không giống nhát cuốc của người khai mỏ, đang l{m lớn rộng tinh thần
người khai mỏ. Ngục tù áp bức không nằm trong cái việc đ{o nh|t cuốc. Lao
lực không có gì đ|ng tởm, vật chất không có gì đ|ng ghê. Ao tù thống khổ
nằm tại nơi: đ{o một nhát cuốc mà chẳng thấy ý nghĩa của nhát cuốc, những
nhát cuốc không kết liền kẻ đ{o đất vào với đo{n thể lo{i người.
Và chúng ta muốn thoát ra khỏi ao tù.
Tại Âu Ch}u có hai trăm triệu người sống dở chết dở, vì không thấy ý
nghĩa đời mình ở đ}u, v{ họ mong nảy nở. Kỹ nghệ đ~ lôi rứt họ lìa ra khỏi
ngôn ngữ truyền thống điền dã, phỉ phong thuần hức, và nhốt kín họ vào
trong những xóm “thương mại bình khang khổng lồ” giống như những nhà
ga lựa t{u, đầy rẫy ngổn ngang những d~y toa đen đủi như than. Từ đ|y thẳm những phường xóm thợ thuyền, họ muốn được thức giấc.
Cũng có kẻ, mắc nghẽn trong guồng máy xô bồ nghiệp nghề đủ lối, họ
không còn hưởng được những niềm vui của kẻ tiên khu khai khẩn, những
niềm vui tôn giáo, những niềm vui của người bác học. Người ta tưởng,
muốn n}ng cao đời sống của họ, chỉ cần ban áo quần, cấp lương thực, đ|p
ứng lại những nhu cầu của họ. V{ người ta đ~ dần dà gây dựng cho họ nên
anh chàng tiểu tư sản lai rai, hoặc anh làm chính trị thôn làng, hoặc tay
chuyên môn không có đời sống nội t}m. Người ta cho họ học tập đủ đầy,
nhưng người ta không bồi dưỡng, hàm dục họ. Cái kẻ tưởng rằng văn hóa l{
miệt mài nhớ nhiều công thức, kẻ đó quan niệm văn hóa một cách thật là
ngậm ngùi thiểu não. Một cậu học sinh hạng bét tại trường chuyên nghiệp
cũng biết về thiên nhiên và những định luật của thiên nhiên nhiều hơn
Descartes v{ Pascal. Nhưng ch{ng ta l{m sao có được cái khả năng vận dụng
tinh thần như những con người đó?
Tất cả mọi người cùng âm thầm cảm thấy nhu cầu được nảy nở.
Nhưng có những giải ph|p đ|nh lừa. Cho con người vận binh phục nhất tề
vào thân, chắc là có thể l{m cho y hăm hở nao nức. Y sẽ hát to những bản
quân ca, và cùng bạn đồng đội bẻ b|nh đề huề chia nhau ăn rộn rịp. Y sẽ tìm
ra c|i điều y kiếm, l{ c|i hương vị hòa đồng đại thể. Nhưng từ cái miếng
bánh cung cấp cho y, y sẽ ra sao nữa? Y sẽ chết.
Người ta có thể đ{o bới trở ra những ngẫu tượng tà ma, và làm sống
trở dậy những thần thoại hồ đồ hay hữu lý, ta có thể làm sống trở dậy
những huyền thoại lung lạc như Liên Đức lý thuyết, Đại Nhật Nhi Man chủ
nghĩa, hoặc La M~ Đế Quốc chủ nghĩa. Người ta có thể làm ngất ngây dân
Đức bằng cái men ngây ngất được l{ người Đức phiêu bồng, v{ l{ đồng bào
của Beethoven –Tố-Như-Tử, v{ đồng quận của Nietzsche – Liệp-Hộ-Hồng-
Sơn. Người ta có thể l{m say sưa tót vời ngay cả kẻ giữ hầm rượu vốn đ~
tuyệt diệu say sưa. V{ quả thật điều đó dễ l{m hơn l{ g}y dựng nên một
Beethoven ở trong con người coi kho rượu.
Nhưng những ngẫu tượng kia là những tà ma khát máu. Những ma cà
rồng vốn thuộc lo{i ăn thịt. Kẻ chịu chết vì cuộc tiến bộ của trí năng kiến
thức, chịu chết vì lo chữa bệnh tật, kẻ đó phụng sự đời sống lúc chịu chết đi.
Chết để b{nh trướng đất đai, mở rộng bờ cõi, có lẽ cũng l{ việc đẹp lắm,
nhưng chiến tranh ngày nay lại tàn phá mất những gì nó tưởng đang bồi dưỡng. Ngày nay, chiến tranh không còn là vấn đề chịu hy sinh một ít máu
để hồi sinh một giống nòi. Chiến tranh, từ c|i ng{y nó được trị liệu, được
giải quyết bằng phi cơ v{ bom đạn chất độc, chiến tranh chỉ là chuyện đổ
máu điêu t{n. Mỗi bên nấp sau một bức tường xi măng, mỗi bên, không làm
gì hơn được, thì chỉ còn biết đêm đêm đưa c|c phi đội len vào trong nội địa
của địch mà dội bom ở giữa ruột r{ địch, cho tan hoang tim phổi địch, tại
trung tâm sinh hoạt của địch, làm tê cóng sản xuất v{ thương mại của địch.
Bên n{o tan n|t sau, thì bên đó thắng. V{ đôi bên tha hồ mà mục nát song
song.
Trong một thế giới biến thành sa mạc, chúng ta khao khát tìm lại bạn
hữu: vị bánh mì bẻ chia nhau giữa bạn bè đồng đội đ~ xui chúng tôi chấp
nhận những giá trị của chiến tranh. Nhưng chúng tôi không cần chiến tranh
mới tìm thấy hơi ấm của những chen vai thích cánh trong cuộc chạy đua về
chung một đích. Chiến tranh lừa gạt chúng tôi rồi. Lòng căm thù không thêm
gì vào niềm hưng phấn trong cuộc.
Tại sao căm hờn nhau? Chúng ta liên đới nhau, cùng phiêu dạt trên
một quả hành tinh, cùng là thủy thủ trên một con tàu trên mặt biển. Những
nền minh chọi nhau, nếu đ~ l{m thuận lợi thiếp thiết cho những tổng hợp
mới, thì đó l{ điều rất tốt, nhưng nếu để điển diệt nhau thì thật là tàn khốc.
Muốn giải thoát chúng ta, chỉ cần giúp nhau ý thức được một mục đích
chung nó kết nối mọi người lại, thì hợp nhẽ nhất là nên tìm mục đích đó tại
nơi n{o nó đo{n kết tất cả chúng ta. Nhà giải phẫu đi thăm bệnh nhân,
không có lắng tai nghe những lời than thở của bệnh nh}n: qua người bệnh
nọ, ông ta tìm chữa chạy cho chính Con Người. Nhà giải phẫu nói một ngôn
ngữ chung. Cũng vậy, nhà lý học khi ông nghiền ngẫm những phương trình
huyền diệu nhờ đó ông lĩnh hội được cùng một lúc cả nguyên tử và cả giải
tinh v}n. Cho đến anh mục tử đơn sơ, cũng vậy nữa. Vì cái kẻ âm thầm coi
sóc vài con cừu dưới ánh sao, nếu anh ta ý thức được vai trò của mình, sẽ
nhận thấy mình không chỉ là một tên đ{y tớ. Mà một tuần binh, một người
lính canh, một trường sở trụ. Mà mỗi lính canh đều mang trách nhiệm cho
toàn quốc.
Anh tưởng rằng kẻ mục tử kia không mong giác ngộ? Tại chiến tuyến
Madrid, tôi từng có viếng một nh{ trường dựng lên cách các chiến h{o năm
trăm thước, phía sau một bờ tường đ| nhỏ, trên một ngọn đồi. Một thầy cai dạy thực vật học tại đó. Thầy cầm một đóa mỹ nhân thảo, thầy tách rời từng
bộ phận mỏng manh của đóa hoa, thầy “thu hút” tới bao nhiêu người râu ria
vượt từ các vùng bùn lầy lân cận, lũ lượt kéo tới như đo{n h{nh hương,
không kể gì lửa đạn. Họ ngồi xếp bằng xung quanh thầy cai, chống cằm trên
tay, chăm chú lắng nghe thầy giảng. Họ nhíu mày, cắn chặt h{m răng lại, họ
không hiểu gì mấy tí, nhưng người ta đ~ bảo họ: “C|c ông l{ những kẻ man
rợ như lồi hang, chưa tho|t hẳn cuộc sống toi đ}m ăn lông ở lỗ, phải gắng
tiến cho kịp nhân loại chớ!” v{ họ vội vã lịch kịch kéo bước tiến lên cho kịp.
Lúc ta ý thức được vai trò của ta, dù vai trò mờ nhạt mấy đi nữa, thì
khi đó ta mới thấy hạnh phúc. Chỉ khi đó ta mới sống yên bình và chết yên
bình, bởi vì c|i gì đem lại một ý nghĩa cho cuộc sống cũng đem lại một ý
nghĩa cho c|i chết.
Cái chết êm dịu xiết bao nếu nó nằm trong vòng tuần hoàn ổn định của
mọi sự, lúc một nông dân miền Provence đi tới chung cục đời mình, đem ký
thác cho con mình thừa kế cái tài sản gồm những con dê cái, và những cây ô
liu, để mai sau tới lượt chúng sẽ giao phó lại cho cháu họ. Trong dòng dõi
điền d~, con người ta chỉ chết một nửa đời mà thôi. Mỗi đời sống cứ theo
nhau lần lượt mà rạn nứt như một quả đậu khô nứt vỏ, để cái hạt nó nẩy ra
con người ta đón nhận.
Một lần, tôi có dịp đứng cạnh ba người nông d}n trước giường mẹ họ
lúc bà lâm chung. Vâng, cảnh tượng thật l{ đau đớn. Lần thứ nhì, cuống rốn
đứt ngang. Lần thứ nhì, một cái gút sổ tung: cái gút nối kết thế hệ trước với
thế hệ sau. Ba đứa con thấy mình lẻ loi, còn phải học hỏi một trăm điều,
thiếu mất một b{n ăn để quây quần ngày giỗ, thiếu mất một từ - cực quy tụ
tình thương. Nhưng trong lần tử biệt đó, tôi cũng nhận thấy rằng đời sống
có thể được ban cấp một lần thứ hai. Những người con ấy, tới lượt họ, họ
cũng l{m kẻ đầu đ{n, t}m điểm cho sự tập trung đo{n kết, họ thành tộc
trưởng, cho tới giờ họ sẽ trao quyền điều khiển lại cho lứa đầu thơ dại hiện
đang chơi đùa ngo{i s}n.
Tôi nhìn người mẹ, người đ{n bà nhà quê già nua với khuôn mặt yên
bình và nghiêm khắc, môi cắn chặt, cái khuôn mặt biến th{nh đ| lạnh. Và tôi
nhận ra khuôn mặt những người con trong đó. Khuôn mặt bà mẹ đ~ nắn đúc
khuôn mặt con. Tấm thân bà mẹ đ~ đúc th}n thể những người con tráng
kiện. Và bây giờ, bà nằm yên tan n|t, nhưng giống hệt một tr|i khô đ~ trao hạt cho đời. Tới lượt con cái bà sẽ đúc nên những tấm th}n con người khác,
bằng xương m|u mình. Tại nông thôn, người ta không chết. Bà mẹ chết rồi,
bà mẹ sống muôn năm.
Đoạn trường, vâng, nhưng giản dị xiết bao là hình ảnh đó của giây
dòng dõi trường tại, lần lượt trút bỏ dọc đường những vỏ khô tóc bạc da
mồi, mà thẳng bước tới một chân lý u huyền nào, qua bao bận thay hình đổi
dạng.
Vì thế cho nên, cũng trong đêm đó, tiếng chuông chiêu hồn tại thôn
bản nọ vẳng nghe như chất chứa những gì không phải tuyệt vọng đau
thương, m{ dạt dào một niềm hân hoan ẩn kín dịu dàng. Tiếng chuông tiễn
đưa người chết, tiếng chuông đón tiếp lễ rửa tội người còn, cũng vang một
giọng, và tối nay lại vang lên báo hiệu giờ nối tiếp của hai thế hệ giao nhau.
V{ người ta cảm thấy một niềm thanh thản bàng bạc khi nghe tiếng chuông
mừng một b{ l~o đi về trong lòng đất yên vui.
Cái gì chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác, chậm r~i như sự tiến
triển của một thân cây? Ấy là cuộc sống m{ cũng l{ ý thức tâm linh. Một tiến
triển thăng cao huyền bí! Từ một phún thạch hỏa sơn nung nấu, từ một chất
dẻo tinh tú, từ một tế b{o sinh động huyền diệu nảy mầm, chúng ta thoát
thai và dần dà, tiến triển tuyệt vời cho tới lúc viết những bản dao ca, v{ ước
lượng những giải ngân hà.
Bà mẹ không những chỉ truyền cuộc sống cho con: bà mẹ còn dạy cho
con học một ngôn ngữ, ký thác cho con gói hành tranh thu nhặt bao ngày
trải qua bao thế kỷ, cái kho di sản tinh thần m{ b{ đ~ đón nhận, gồm những
truyền thống, những khái niệm, những truyền kỳ, tất cả những gì làm nên
sự chia biệt giữa Newton, Shakespeare v{ con người thái cổ ở trong hang
tối.
C|i điều ta cảm thấy lúc ta đói, c|i cơn đói của khát vọng đ~ giục
những người lính Tây Ban Nha lướt qua lửa đạn mà học bài thực vật, cái
cơn đói đ~ xui Mermoz bay qua Nam Đại T}y Dương, hoặc khiến kẻ nọ tới
gạ gẫm với n{ng thơ, c|i điều ta cảm thấy đó l{: cuộc phôi dựng chưa ho{n
tất, và chúng ta còn phải ý thức về mình và về vũ trụ. Chúng ta phải bắc cầu
gieo nhịp trong đêm tăm. Những kẻ không biết tới điều đó, l{ riêng những
kẻ thờ ơ vị kỷ mà làm nề nếp cho lối sống họ tưởng là khôn ngoan, là minh trí. Nhưng khôn ngoan đó l{ khôn vặt. Thảy thảy trong đời đều chối bỏ cái
loại khôn kia. Ô, những bạn hữu, những bạn hữu thân mến của tôi, xin các
anh làm chứng giúp: chúng ta thật sự cảm thấy sung sướng là những lúc
nào?
4
Và tới đ}y, tại trang cuối cuốn sách này, tôi nhớ lại những công chức
gi{ đ~ “th|p tùng” tôi, buổi bình minh chuyến thư đầu tiên nọ, thuở may
mắn được chọn đi, chúng tôi soạn sửa lột x|c để nên người. Họ vẫn rất
giống chúng tôi, nhưng lại không biết rằng mình đói.
Quá nhiều l{ c|i đ|m người mà thiên hạ để ngủ yên.
C|ch đ}y mấy năm, nh}n một chuyến viễn du bằng xe lửa, tôi có ý
muốn viếng c|i quê hương đang chạy trên đường rầy, trong đó tôi giam
mình ba ngày, chịu đựng ba ngày cái tiếng sào sạo bên tai. Tôi đứng dậy. Tôi
đi dọc suốt con t{u đêm, từ đầu tới cuối, khoảng một giờ khuya. Những toa
giường ngủ, trống vắng cả. Những toa hạng nhất cũng trống vắng.
Nhưng những toa hạng ba thì chứa ngổn ngang h{ng trăm thợ thuyền
Ba Lan mất việc làm tại đất Pháp phải tìm về quê hương. Tôi dọc theo hành
lanh tiến lên, bước qua thân mình những người nằm ngủ. Tôi dừng lại nhìn.
Đứng dưới những ngọn đèn t{u, nhìn v{o toa chung chạ giống một phòng
ngủ công cộng, nghe nồng hơi đồn binh hoặc cảnh sát cục, tôi thấy cả một
đ|m người hỗn độn nằm ngửa ngang mặc cho tàu tốc hành dồi dập. Cả một
lũ người đắm trong ác mộng, đang quay về cõi khốn cùng. Những cái đầu to
cạo trọc gối bừa bãi trên thành gỗ những băng d{i. Đ{n ông, đ{n b{, con nít,
lăn lộn từ phải sang tr|i, như bị dày vò bởi tiếng xe chạy ì ầm, những rung
chuyển nhồi xóc hăm dạo mãi không nguôi. Họ tìm không ra chỗ yên thân
trong giấc ngủ.
Và tôi thấy dường như họ đ~ mất hết nửa tính chất con người, bị xô
đẩy trôi dạt từ đầu này tới cuối nọ châu Âu bởi những cuồng lưu kinh tế, bị
đ|nh bật ra khỏi căn nh{ phương Bắc, ra khỏi khu vườn bé bỏng với ba
chậu phong lữ thảo m{ ng{y xưa tôi đ~ từng có dịp ngắm xem tại khung cửa
sổ những nhà thợ mỏ Ba Lan. Họ chỉ gom góp mang theo những đồ dùng
bếp núc, những chăn m{n, gói trong những cái bọc cột bó lôi thôi luộm thuộm. Còn những gì họ đ~ ve vuốt thân yêu, những gì họ đ~ nuôi dưỡng
thuần thục, chăm sóc }n cần suốt bốn năm hay năm năm lưu trú tại đất
Pháp, con mèo, con chó và chậu phong lữ thảo, họ đ{nh phải hy sinh bỏ lại,
chỉ mang theo những nồi niêu nấu nướng.
Một đứa bé ôm vú mẹ m{ bú, người mẹ mỏi mệt qu|, trông như
đương ngủ. Cuộc sống đang chuyền nhau trong hỗn độn thê thảm của
chuyến đi kia. Tôi nhìn người cha. Một cái sọ trơn trụi nặng nề như một hòn
đ|. Một thân thể gập lại trong giấc ngủ nham nhở, bọc trong lớp áo quần lao
động, lồi lõm nhấp nhô. Con người anh giống như một khối đất sét. Là thế
đó, trong đêm tăm, những vật lênh đênh trôi dạt tấp bừa tại đ}y, không ra
cái hình thù gì cả. V{ tôi nghĩ: vấn đề không nằm trong hoàn cảnh khốn cùng
nọ, trong dơ bẩn nọ, trong xấu xí hỗn độn nọ. Nhưng chính người đ{n ông
đó, chính người đ{n b{ đó, một ng{y xưa ngẫu nhĩ gặp nhau, v{ người đ{n
ông chắc đ~ mỉm cười nhìn người đ{n b{: sau buổi làm việc, chắc hẳn anh ta
có mang hoa tới tặng nàng. Nhút nhát vụng về, có lẽ anh đ~ run như cầy sấy
vì sợ bị từ khước. Nhưng người đ{n b{, vốn bản chất tự nhiên l{ đong đưa
l{m đỏm, người đ{n b{ tin chắc ở cái duyên hấp dẫn của mình, có lẽ n{ng đ~
thích đùa rỡn để ch{ng đ}m lo cưới. Và anh chàng ngày nay chỉ còn là cái
m|y để cuốc đất, để đập đe bửa củi, anh chàng ấy xưa kia đ~ từng biết rung
động bàng hoàng trong mối khắc khoải êm dịu làm sao. Chỗ huyền bí, là
những kẻ đó đ~ biến thành những đống đất sét nọ. Họ đ~ chịu qua cái khuôn
đúc |c nghiệt n{o, như một thứ m|y d|t, đ~ tạc ra hình thù oan uổng thế
này? Một con vật già, còn giữ c|i duyên gi{ lưu lại cho cái duyên trẻ. Thì tại
sao cái chất đất thó tốt đẹp của con người lại chịu hủy hoại như điêu đứng
thế kia?
Tôi tiếp tục đi tuần du giữa c|i đ|m người ngủ hắt hiu thấp thỏm nọ,
như n~o nùng l{ chốn… Một tiếng ồn mơ hồ thoang thoảng gồm những
giọng ngáy ồ ồ, những than thở âm u, những tiếng giày thô cọ vào gỗ, của
những kẻ thân xác rã một bên, trằn trọc tìm lăn sang bên kh|c. V{ m~i m~i
vẫn âm thầm gõ nhịp là cái tiếng động liên miên ì ầm của con t{u nghe như
tiếng sỏi bị sóng vỗ bật trên bãi biển.
Tôi ngồi đối diện với một cặp vợ chồng. Giữa người cha v{ người mẹ,
đứa con thu hình chen ở giữa mà ngủ. Trong giấc ngủ, nó trở mình, và
gương mặt nó hiện ra dưới bóng đèn. A! Một gương mặt thật đ|ng yêu. Cặp
vợ chồng kia đ~ đẻ ra một thứ tr|i tươi óng ả. Từ những khối luộm thuộm nặng nề r|ch rưới kia, đ~ nảy ra một thành tựu viên mãn duyên dáng yêu
kiều. Tôi nghiêng mình nhìn vầng tr|n trơn tru, c|i miệng phụng phịu núng
nính, tôi tự nhủ: đ}y l{ khuôn mặt nhạc sĩ, đ}y l{ Mozart lúc nhỏ, đ}y l{ một
hứa hẹn đẹp đẽ của đời sống. Những hoàng tử thơ dại trong những câu
chuyện thần tiên, cũng vậy mà thôi: Nếu được che chở, nâng niu, bồi dưỡng,
nó sẽ th{nh đạt vô chừng! Khi trong vườn có một đóa hồng nở do nhiều
giống ghép thành, một đóa thanh t}n, thôi thì c|c b|c l{m vườn thi nhau
trầm trồ không ngớt tiếng. Người ta để riêng nó ra, người ta chăm sóc, hậu
đ~i. Nhưng không có kẻ l{m vườn chăm sóc cho con người ta. Chú Mozart
bé n{y cũng như bao đứa bé khác, sẽ không thoát khỏi cái máy dát gọt.
Mozart sẽ tìm thấy những khoái cảm tuyệt vời trong thứ âm nhạc thối tha:
giữa xú khí những h{ng c{ phê khiêu vũ, Mozart bị lên án mất rồi.
Tôi quay trở về toa mình. Tôi tự nhủ: những người kia không hề đau
đớn với thân phận họ. V{ đ}y không phải lòng b|c |i đang xui tôi bứt rứt.
Đ}y không phải việc lân mẫn xót xa trên một vết thương thiên thu còn chảy
máu trở lại. Những kẻ mang vết thương kia không hề cảm thấy mình bị
thương. Bị tổn thương, bị xúc phạm tại đ}y, dường như l{ to{n thể nhân
loại, chứ không phải là một cá nhân. Tôi không tin ở lòng thương hại. Cái xui
tôi bứt rứt l{ quan điểm kẻ l{m vườn. Điều xui tôi bứt rứt không phải là sự
khốn cùng kia, vì con người ta dù sao rồi cũng nằm yên trong đó được như
bọn lười biếng ôm bồng c|i “con lười biếng” m{ nằm yên. Bao nhiêu thế hệ
người Đông Phương sống trong hẩm hiu hiu hắt mà vẫn h{i lòng. Điều xui
tôi bứt rứt, những tổ chức tô cháo bình dân không giải tỏa được. Điều xui
tôi bứt rứt, không phải chuyện đói r|ch lồi lõm đó, không phải cảnh xấu xa
tồi t{n đó. Điều xui tôi bứt rứt là trong mỗi con người kia, có một Mozart bị
giết hại.
Chỉ có Tinh Thần thổi qua đất thó, là có thể tạo nên con Người.
[1]
cf. Nguyễn Du:
“Ai ngờ một phút tan tành thịt xương”
Biển mây vùng vẫy ngang tang.
Dẫn mình đi bỏ suối v{ng như không.
[2]
André Malraux, trong Les Voix du Silence, ở cuối tập, trang 639, có tỏ ý không hài lòng
với câu này. Malraux chắc l{ không đọc cuốn sách Saint-Exupéry, nên lầm nghĩa lời nói; tách
rời khỏi tiết mạch câu chuyện dị thường, lời nói cô lập chơ vơ, mất hết chân trời viễn vọng.
Một kẻ vào sinh ra tử, vừa thoát tay thần chết mở môi nói lời đó lúc nhìn thấy mặt bạn bên
mình, bình diện lập tức ở về phía-bên-kia. Nghĩa l{?
- “Anh Saint-Exupréry, anh thấy đó chứ? Bạn anh đ}y, tôi giỏi hơn con vật “một chút”, anh hài lòng vì thằng
bạn của anh đi. Không bao giờ một con vật làm cái việc tôi đ~ l{m. Vậy mọi con người h~y h}n hoan h{i hòa đi
chứ.” Nếu đẩy sang bình diện lập luận trí thức, ắt là cái tinh thần vừa bi tráng, vừa tươi vui kia sẽ bị tổn thương,
hoặc biến mất.
Camus cũng cuộc sống một lần bác một câu nói của Saint-Exupréry (xem L’Été). Nhưng do một phép lập
ngôn của trường hợp yêu sách. Vốn hoàn toàn chấp thuận nhau, m{ người tư tưởng đôi khi phải giả vờ bác
nhau trước mặt mọi người. Điệu bài bác kia không hề hiểm độc. Trái lại, nó phơi mở những chân trời giúp kẻ
kh|c lên đường tư tưởng nhận định lại phương hướng, phương vị của mình.
[3]
Cước chú
Đến đ}y tôi cảm thấy cần trở lại với cước chú ở trong trang 57. André Malraux viết như thế này:
“Nh}n bản chủ nghĩa, không phải l{ nói: “C|i điều tôi đ~ l{m, không một con vật nào ắt đ~ l{m”; nh}n bản
chủ nghĩa, l{ nói: “Chúng tôi đ~ khước từ cái mà con thú vật trong chúng tôi đ~ muốn, và chúng tôi muốn tìm
thấy trở lại con người ở mọi nơi n{o chúng tôi đ~ tìm thấy những gì ch{ đạp nó”.
Nguyên văn: L’ humanisme, ce n’est pas dire: “Ce que j’ai fait, aucun animal ne l’aurait fait”, c’est dire:
“Nous avons refusé ce que voulait en nous la bête, et nous voulons retrouve l’homme partout où nous avons
tronvé ce qui L’écrase”.
“C|i điều tôi đ~ l{m, không một con vật nào ắt đ~ l{m”, c}u đó, lúc Malraux trích dẫn, ông bỏ bớt vài lời
không cần yếu. Số là Saint-Exupéry viết trong Terre des Hommes thế n{y: “Ce que j’ai fait, je te le jure, jamais
aucune bête ne l’éaurait fait” (trang 51). V{ tới trang 59, ông bỏ bớt chữ “te” (Ce que j’ai fait, je le jure, jamais
aucune bête ne l’aurait fait).
Kể ra, danh từ “nhân bản chủ nghĩa” cũng l{ một danh từ nên tr|nh, vì cũng như tiếng “giá trị”, nó đ~ bị
đầu độc bởi biết bao nhiêu thế kỷ triết học T}y Phương (Xem Martin Heidegger – Lettre sur l’Humanisme).
Nhưng muốn dùng chơi, cũng chẳng sao. Miễn là dùng trong một dòng suy tư xa thẳm hơn về cỗi nguồn.
Tuy nhiên, c|i điều đ|ng tr|ch Malraux nhất là ở chỗ: câu nói của ông đưa ra ho{n to{n đúng – cái mới
chết! – đúng theo tinh thần của chính Saint-Exupéry nữa, nhưng lại không thể đúng với một linh hồn thuần phác
anh-dũng-sơ nguyên như Guillaumet, đương vùng vẫy chống với Tử Thần vì tinh thần trách nhiệm. Và chính
Saint-Exupéry mến phục tuyệt đối người bạn chí thiết của mình, cũng l{ bởi lẽ đó.
Còn Camus? Ông không thuận nghe theo câu nói của Saint-Exupéry? Ông viết theo điệu nào?
… “Je hais mon époque”, écrivait avant sa mort Saint-Exupéry, pour des raisons qui ne sont pas très
éloignées de celles don’t j’ai parlé. Mais, si bouleversant que se soit ce cri, venant de lui qui a aimé les homes dans
ce qui’ils ont d’admirable, nous ne le prendrons pas { notre compte. Quelle tentation, pourtan, { certaines heures, de se détourner de ce monde morne et décharné! Mais cette époque est la nôtre et nous ne pouvons vivre en nous
haissant”.
(L’ÉTÉ – trang 117)
Xin dịch:
… “Tôi thù ghét thời đại tôi”, không bao l}u trước ngày ông chết, Saint-Exupéry đ~ viết thế, vì những lý do
không quá xa biệt với những lý do tôi vừa nói tới. Nhưng, cho dẫu tiếng kêu kia xui cảm kích bàng hoàng thảng
thốt bao nhiêu đi nữa, tiếng kêu vọng tới từ ông ta, là kẻ đ~ yêu thương con người trong những gì đ|ng kính
phục nhất nơi con người, tiếng kêu kia chúng ta vẫn sẽ không nhận về phần mình được. Tuy nhiên, quyến rũ xiết
bao l{, đôi giờ đôi lúc, niềm mong muốn quay mặt lánh xa cái cõi trần u buồn v{ xương xẩu đến cỗi cằn này!
Nhưng thời đại này là thời đại chúng ta và chúng ta không thể sống m{ căm thù, đầy đọa nhau”.
Camus nhìn nhận sự cao nhã hoằng viễn của Saint-Exupéry, nhưng ông phải buộc lòng viết câu cuối – thể
theo một phép lập ngôn mà trạng huống thời đại nọ ở Âu Ch}u đương đòi hỏi thiết tha, sau những cuộc đau đớn
của Saint-Exupéry, của Nietzsche… đ~ đ{nh lòng chịu mang tất cả những nguyền rủa của nhân gian – để cho
trong nh}n gian, con người còn có thể sống trở lại.
Đó chính l{ c|i phần Im-pensé (Ungedachte) trong tác phẩm của nh{ tư tưởng sâu rộng. Đó cũng chính l{
cái chỗ xui nh{ tư tưởng đau lòng: “Il n’est pas une vérité qui ne porte avec elle son amertume”. (Camus): không
một chân lý nào không mang theo với mình niềm cay đắng của nó.
Còn đối với những người lơ đễnh, không bao giờ chịu chậm r~i tư lự, thì chúng ta có thể lý luận theo lối trực
tiếp này – v{ như vậy, đ{nh phải cay đắng làm tổn thương Camus một cách tối ư bất công:
Chẳng hạn, ta thử nói thế n{y: “Ông Camus nghe lộn rồi. Ông bảo: “Nous ne pouvons vivre en haissant”.
Chúng ta không thể căm thù đ{y đọa nhau mà sống được. Nhưng Saint-Exupéry có căm thù ai đ}u. Ông căm thù
cái thời đại ông đ~ xui con người n{y, con người nọ biến thành những sài lang. Mà những thị, phi, đen, trắng đều
bị xô đẩy lộn phèo đi tất cả. Kẻ vô tội phải vào tù. Kẻ giết người lại lên |n người khác sát nhân. Nếu thỉnh thoảng
Saint-Exupéry có công kích kịch liệt một vài kẻ, cũng l{ với tinh thần nọ, ở tầng thâm viễn nọ. Ông không hề căm
giận con người”.
Nhưng lý luận như vậy là lý luận theo lối hời hợt thông thường trên bình diện tục tĩu, rất cần thiết đối với
số đông – v{ cũng l{m tổn thương ch}n lý không phải ít. Vì chân lý uyên viễn bao giờ cũng phải hiện ra trong
tính chất bội nhị, hàm hỗn – đó l{ c|i m{ người T}y Phương gọi l{: La Duplicité de l’Être: tính chất bội nhị của
Tồn Thể.
Vì sao như vậy? Đó không phải l{ điều có thể giải đ|p tại đ}y. Vì vội vã giải đ|p tại đ}y l{ phản bội câu hỏi
ngay – ngay từ trên cơ sở, suy tư vậy. C}u đ|p, nó nằm tại trong suy gẫm lặng lẽ của từng người soạn sửa tương
ứng về sau.
V{ trường hợp: một lời cước chú mà phải chia ra làm hai đoạn, ấy cũng l{ trong tinh thần tôn trọng tính
cách bội nhị của Tồn Thể trường lưu vậy. Nhưng c|i “vậy” lặp lại hai lần, ba lượt, bốn phen, năm trận, chưa chắc
gì đ~ đúng l{ c|i “hệt”. Vì sao như vậy? Xin bỏ lửng lời đ|p. Vì: c}u hỏi, tự trong tinh thể của nó đ~ mang ý nghĩa
một lời đ|p – theo nghĩa một tặng vật hàm hỗn vô song cánh mây khép mở.
Nói vậy nghe chừng không hợp lý. Nhưng c|i Lý nguyên sơ trong tình thế của nó l{ gì? Khi c|i lý nguyên sơ
biến thành luận lý hoặc nh{ trường (logique) rồi cái luận lý học nh{ trường biến thành tiểu luận lý nhà trại
(logistique) – thì chúng ta sa ngay vào giữa mê hồn trận ngày nay.
Tôi xin đưa một thí dụ cụ thể, cho thấy cái luận lý nó có thể đưa ta tới Ngõ Cụt nào của lý luận:
Ông Jésus, ông Lão Tử, cũng nhận thấy và nhìn ra rằng trẻ con là Thánh, trẻ con theo cho nghĩa con trẻ, chứ
không phải trẻ con là ù lì trẻ con. Mà thánh là kẻ “dạy” người. Vậy thì trẻ con phải dạy người. Ngược lại, người
n{o đòi dạy trẻ con l{ người đó l{m loạn xã hội, cần phải bài trừ. Muốn bài trừ bọn người đông đảo đó, cần phải
tổ chức những đo{n thể lớn, những đảng phái mạnh thì mới có cơ chống nổi và bài trừ. Bài trừ ai? Những kẻ dạy trẻ con. Những kẻ đó l{ ai? L{ gi|o sư vậy. Gi|o sư ở đ}u? Ở tại c|c nh{ trường. L{m sao rúc v{o trường để bài
trừ họ? Trước tiên, phải đập ph| nh{ trường!!!
Hỡi ôi! Đó l{ luận lý! Buồn thay!
Jean Walh b{i b|c Heidegger cũng lý luận gần giống như vậy, Sartre b{i b|c Camus cũng giống như vậy.
Xin cử ra một thí dụ đơn sơ hơn nữa:
Dịch văn thơ bao giờ cũng phải tôn trọng nguyên tác tận trong mạch ngầm tinh thể của tinh thần nó. Vậy
bản dịch đúng tất nhiên phải là bản dịch phơi mở được mọi tinh túy của nguyên tác trên mọi bình diện nó di
chuyển ở mọi chốn, mọi nơi. V{ do đó mọi bản dịch đúng về một tác phẩm phải có một nội dung hình thể giống
hệt như nhau. Nhưng xét ra, tự cổ chí kim, chưa hề có hai bản dịch nào, lại giống hệt nhau về cả nội dung lẫn
hình thức. Vậy biết làm sao mà nhìn cho ra cái bản dịch đúng. Vì c|i đúng, c|i ch}n x|c bao giờ cũng l{ chỗ để
mọi c|i “phải” chịu đồng quy. M{ như ta thấy, trong hàng triệu bản dịch chẳng có bản n{o l{ đồng quy cho một
bản nào. Vậy tất nhiên mọi bản đều sai be bét cả. Đ~ sai, còn giữ làm gì. Phải nên vội v~ đốt hết một cách thật
hấp tấp. Không còn một bản dịch nào còn lý do để tồn tại.
Hỡi ôi! Đó l{ luận lý! Thật đ|ng buồn thay.
Bởi đ}u m{ có tình huống thảm thê nọ? Nguyên do có lẽ bởi vì: chúng ta quên suy gẫm về tiếng tồn tại. Tồn
tại không hẳn là tồn lưu. Chúng ta quên suy gẫm về tiếng lý do. Lý (lý) do không hẳn là Do Lý. Chúng ta quên suy
gẫm về tiếng “hấp tấp vội v~”. Vội vã không hẳn là vội vàng. Chúng ta quên suy gẫm về tiếng sai và tiếng đúng.
Sai không hẳn là quấy; đúng không hẳn là chính xác; chính xác không hẳn là xác thực; xác thực không hẳn là
nghiêm mật – nghĩa l{ lầm lẫn một cách tai hại hai tiếng: l’exactitude v{ la pensée. L’exactitude scientifique
không phải là la rigueur de la pensée, chúng cùng thiết yếu ở lĩnh vực mình, nhưng ho{n to{n không có gì gần
nhau – từ trong bản chất. Hai tiếng đó ho{n to{n biệt lập nhau. Tại sao vậy? Có lẽ tại vì bấy l}u nay người ta
thấy chúng gần nhau quá! Và có lẽ nhất, là tại nh{ tư tưởng biến thành triết học gia. Mà triết-học-gia là quên
mất “gia” l{ “nh{”, m{ chỉ còn nhớ “b|c” l{ “học”. Triết gia biến làm bác học giả. Và cả học giả, cả triết gia cũng
có mặc cảm tự-ti-điên-đảo trước khoa học. Như vậy vừa phụ mình lại vừa phụ khoa học. Nhưng khoa học hoằng
viễn tự buộc mình phải chọn lĩnh vực mình, mà vẫn nguyện cầu cho nh{ tư tưởng phải trưởng thành mà thành
tựu cho tư tưởng để cùng nhau góp sức giải cứu con người trong hiểm họa về sau, để cùng mong sớm có ngày
trùng ngộ bắt tay nhau qua bốn biển giữa một nh{. Nhưng nh{ tan v{ biển mất. Vâng. Mọi nhà khoa học hoằng
viễn hẳn phải nguyện cầu chừng đó. Ngờ đ}u nh{ tư tưởng lại ưa l{m nô lệ ru rú theo đuổi khoa học: lúc nào
thấy tư tưởng có-vẻ-không-khoa-học, thì vội v~ cho đó không phải l{ tư tưởng. Do đó, cố công gắng sức làm sao
chứng minh cho rõ ràng rằng: tư tưởng của mình thật có tinh thần khoa học một cây! Rồi lại cố công chứng
minh một việc thừa, một việc ai ai cũng rõ: ph}n biệt khoa học và tinh thần khoa học!
Người tư tưởng triết gia nào, trong thời đại chúng ta, mang nặng mặc cảm nhiều nhất đối với khoa học? Ấy
không ngờ lại là Merleau-Ponty! Ông kh| hơn Sartre ở chỗ ông không có mauvaise foi. Ông thua hẳn Sartre về
cái thông minh và tài hoa. Cả hai ông cùng thiếu mất cái tinh thần – là cái cốt yếu của tư tưởng Phương Đông.
Phương Đông không hẳn là của riêng đông phương. Nerval, Hoelderlin vẫn là những thi nh}n tư tưởng Đông
Phương. Parménide, Héraclite, Homère, cũng vậy. Ngược lại người Đông Phương ng{y nay phần đông lại là
người nô lệ cho T}y Phương. Suốt đời viết tiếng Việt mà vẫn l{ văn sĩ Ph|p. Cũng như có kẻ suốt đời – tức là một
trăm năm – viết tiếng Pháp mà vẫn l{ văn sĩ Việt. Trở lại với Merleau-Ponty. Xem lại cái bài ông công kích
Einstein mà buồn cười vỡ mật. (Và phải bấm bụng nín cho khỏi cười). Và cái việc buồn cười nhất lại là: ông công
kích kịch liệt nhà khoa học Einstein, mà lại vô tình đưa những luận chứng do tinh thần khoa học hạ đẳng đ~
ngấm ngầm t|c động tâm linh ông ở tiềm thức, mặc dù bao lần ông vùng vẫy để tho|t ly. Trường hợp Sartre
cũng khó m{ phận biệt được l{ ông cũng qu| nhiều mauvaise foi (mauvaise foi không hẳn là ác ý) hoặc là ông ta
muốn mở một cuộc đùa (đùa không hẳn l{ chơi) hoặc chịu chơi trong nhất cuộc kỳ - vẫn một cuộc đùa đồ sộ
giữa mê hồn trận hiện đại – theo tinh thần ông gán cho một nhân vật: “Tại sao anh l{m điều xấu? Vì điều tốt,
thiên hạ đ~ l{m rồi”. Cái nguy nhất là tới đ}y, ta lại phải nêu câu hỏi: Biết đ}u chính Merleau-Ponty cũng lại thử đùa rỡn-một-
trận với tinh thần hùng vĩ của Einstein??? Nếu không thì tại sao ông lại lý luận như trẻ con, theo lối Platon bàn
việc Thi Ca???
Nêu được câu hỏi đó, l{ biết luận lý tồn lưu, theo nghĩa: luận lý về cái lý-Lô-Gô sơ nguyên ban thủy (nên nhớ
sơ, nguyên, ban, thủy, xin được hiểu mỗi tiếng theo hai nghĩa bội nhị khác nhau – hai nghĩa vừa xa vừa gần
nhau).
Có thể giải thích cụ thể hơn, rõ r{ng hơn nữa không? Về cái lối luận lý tồn lưu? Có thể lắm. Xin cử một thí dụ
cụ thể về cái lối luận lý tồn-lưu-phiêu-bồng vì rất mực cụ thể mà biến thành siêu thể:
Bấy l}u nay ta nghĩ rằng ta-tư-tưởng. Làm sao có thể tin như thế được? Bởi vì thật ra ta không tư tưởng,
m{ chính tư tưởng về với chúng ta. Vậy ư? Chính vậy. Ai chẳng thường kinh nghiệm điều này: nhiều lúc ta vò
đầu, bứt tóc, ngắt lông, m{ n{o có nghĩ ra c|i tư tưởng n{o đ}u. Bỗng một bình minh (theo nghĩa bóng: bình
minh có thể là hoàng hôn, có thể là nửa đêm g{ g|y bỗng dưng sau một giấc chiêm bao, từ đ}u chẳng rõ) ta – “A
ha! Gặp rồi! Nhận thấy rồi”. Thử hỏi: nếu tư tưởng không về với ta trong chiêm bao mà ứng mộng, theo lối Đạm
Tiên về với Kiều, thì làm sao ta lại thấy ra, m{ kêu to như thế? Lúc ta tìm thì nó không tới; ta tìm dữ, thì chính ta
điên đầu. Sau một giấc chiêm bao ta phiêu bồng theo cánh bướm, bỗng tư tưởng đến với ta như đ~ đến với
Trang Tử, hoặc lớn hơn đôi chút, theo c|nh bướm dìu về.
Người bị ảnh hưởng tâm lý học T}y Phương hạ đẳng, sẽ lôi những giải thích lai rai về tâm lý ra mà bác ý
kiến trên đ}y. Họ bảo: “Không thể nói l{ tư tưởng đến với ta. Chính l{ ta tìm ra tư tưởng. Bởi đ}u? Cứ thử luận lý
theo cái thí dụ anh nêu ra. Anh tưởng rằng khi anh ngủ, là anh triệt để ngủ nướng như l| cỏ? Không. Lúc anh
ngủ, tiềm thức anh vẫn tiếp tục làm việc một cách sâu thẳm mà minh mẫn vô cùng. Rồi tỉnh cơn ngủ, trở giấc
trút trận chiêm bao, anh tưởng rằng: bỗng dưng m{ tư tưởng đến? Không có thế đ}u. Vì anh đ~ từng nghĩ lui,
nghĩ tới, nghĩ tỉnh, nghĩ say, nghĩ miên man bồn chồn trong trận ngủ, rồi cuối cùng anh thu hoạch được kết quả,
chớ n{o đ}u có phải là tự dưng m{ tư tưởng đến với anh”.
Hỡi ôi. Lời ông bạn thật l{ chí lý. Nhưng có m{ quỷ sứ nó nghe. Bởi đ}u? Bởi rằng: hễ người đứng đắn mà
nghe c}u đó lọt được vào trong cái lỗ tai, thì té ra những lời ông Jésus, ông Lão Tử, tất nhiên phải là sai bét hết.
Lời nào của ông Lão, ông Jésus? Xin bỏ lửng lời đ|p vậy. Tại sao bỏ lửng? Vì trên đ}y cũng đ~ có bỏ lửng một
cách không bỏ lửng một chút nào rồi.
- Thôi đừng nói rỡn nữa chứ. Sự thật là thế nào? Có thật l{ tư tưởng tới với ta không? Hay thật là ta tư
tưởng tới?
Đ|p rằng: thật ra là thể (không phải thế) thật; thật ra là thể gọi, ta thưa; thật ra là ta tạm thể gọi, v{ tư
tưởng tồn thể đ|p lời; ta kêu, và tồn lưu gieo giọt; ta xin uống và tồn lưu ban khen ngọt cho. Vậy thì rõ ràng là
hai c|ch nói đều đúng cả, đúng mỗi bên một cách – là bội nhị tịch hạp song liêm. “Vì trong lẽ phải, có người có
ta” l{ vậy.
Và vì vậy, nên cái chỗ tối cao là vô ngôn, không lời. Hoặc có nói lời thì nói bi bô c{ lăm theo lối con trẻ không
trẻ con.
Để ý: Nên nhớ rằng ngạn ngữ Việt Nam có c}u: “Sai một con toán, bán một con tr}u”. Nên nhớ
thêm rằng: người phẩm bình mà chẻ lệch một chút con to|n, thì người tư tưởng phải bán
hai con trâu. Tôi không thể tự biết mình đ~ buộc những ông tư tưởng hiện đại phải b|n đi
mỗi ông là mấy chục con tr}u. Nhưng ai ai cũng phải nhận thấy rằng các nhà phê bình – dù
chấp nhận, dù kích bác – đ~ từng buộc tôi b|n đứng nhiều nhất là một triệu rưỡi con trâu
tồn lưu, v{ ít nhất là một phần tư con bò tồn thể. Suy rộng ra theo tinh thần đó, chúng ta
bỗng chợt thấy rằng từ lâu lắm, người Trung Hoa, người T}y Phương, cũng vì tính sai một
con toán tồn lưu, m{ Việt Nam và một số bạn hẩm hiu, đ~ phải bán thật là nhiều con trâu.
Đột nhiên tôi sực nhớ thêm điều n{y, nó cũng giúp nhiều cho cuộc tồn lưu tư tưởng: Đọc Saint-Exupéry, lúc
nào ta thấy ông nói nghe đúng, r{nh rẽ, ấy chính là chỗ ông phải buộc lòng hạ thấp tư tưởng của mình. Trái lại, lúc nào xem chừng ông viết có vẻ ba rơi hoặc ba gai ba góc, ấy chính l{ lúc tư tưởng lên tới tột cao tồn thể phiêu
bồng. Thí dụ? Như lúc ông nói về cứu c|nh v{ phương tiện l{ lúc tư tưởng xuống thấp tới mức thông thường.
Trái lại, lúc tư tưởng lên cao viễn nhất là lúc ông nói tới gái Sa Mạc, người Maure và Bonnafous. Vì sao? Vì
Maure đọc trại ra th{nh Mô. M{ “mô” có nghĩa là một câu hỏi tự tại, nghĩa l{ tự mình tìm ra lời đ|p ngay ở
trong mình. Bởi vì “mô” vừa có ý nghĩa nghi vấn (Mi ở mô?), vừa có nghĩa x|c định lẽ hư vô (Tôi có biết chi
mô!). Còn Bonnafous có nghĩa l{ Bon-à-faire-le-fou. Et comment est le fou? Leftou est foudroyant comme la
foudre est ondoyante. (Chấm dứt Cước chú).
[4]
Saint-Exupéry đưa ra c|i lý do duy nhất đ~ quyết định sự chọn lựa của ông. Đối với
chúng ta, câu hỏi nêu ra tại đ}y l{: vì sao c|i lý do kia lại đủ sức quyết định? Đ|p: chính bởi
lúc chọn lựa là nhắm mắt theo linh cảm, nghĩa l{: sự chọn lựa mang tính chất tin-yêu-không-
chọn-lựa. Nghĩa l{: c|i lý do sơ thủy đ~ bất chấp cái lý do của luận-lý-lý-trí eo hẹp nhà
trường..
Trên một bình diện tư tưởng kh|c, cũng rất âm thầm, cũng theo thể điệu chiêm bao mộng triệu ta lại nhận
thấy rằng trước kia, cách Saint-Exupéry một thế kỷ, Gérard de Nerval v{ Hoelderkin cũng đ~ từng linh cảm như
vậy… Ng{y nay, người T}y Phương tìm tới chúng ta, để xin một bài học tư tưởng, thì họ lại ngạc nhiên thấy
chúng ta không chịu đóng vai bậc thầy, lại cứ đòi theo đuôi họ, ở mọi lĩnh vực. Những chủ nghĩa, những học
thuyết của họ, họ vốn biết là cặn bã của văn minh T}y Phương đang điêu t{n, thì chúng ta o bế như đ{o tiên. Họ
tự hỏi: tại sao Đông Phương có một lực lượng tinh thần khủng khiếp trong truyền thống, lại không chịu sử dụng
nó để đ|nh lại chúng ta, thì không bao giờ người T}y Phương chúng ta chịu đầu hàng cả. Trái lại, nếu họ đưa
tinh thần Á Đông ra, thì lập tức chúng ta buông tay.
[5]
Trong võ hiệp tiểu thuyết của Kim Dung, thường thấy những nhân vật chính trong giờ bị khốn đốn, trong
nguy cơ thập tử nhất sinh, đột nhiên giác ngộ được thứ võ công gi|p trĩ thượng thừa, bước vào quai nhai cảnh
giới, tự giải phóng kinh mạch một cách huyền diệu, và thành tựu tinh thể của c|i đẹp Võ Công Siêu Đẳng.
[6]
Quê ngoại của Saint-Exupéry.
Bạn đọc cũng nên giở lại đoạn 4 chương IV (trang…) nhìn lại gương mặt U gi{… V{, một câu nói riêng biệt
của Saint-Exupéry: “Mon plus lointain souvenir? J’avais une gouvernante Tyrolienne, qui s’appelait Paula. Kỷ
niệm xa xôi xưa cũ nhất của tôi? Xưa kia tôi có một người vú già vốn quê quán ở Tyrol, và tên gọi là Paula ạ”.
[7]
Nons sommes embarqués – lời bất hủ của Pascal, có nghĩa l{: “chúng ta đáp tàu”, dù muốn dù không,
bị xô ra đời sống là suốt trăm năm phải lên đường, phiêu du trong cõi, phiêu dạt biển khơi, phiêu linh lục hải,
phiêu lạt thường hồ, phiêu bồng vào hố thẳm của Cực Chung.
[8]
Chắc là Saint-Exupéry rất quên và rất nhớ hai người con gái tại một Oasis xứ
Argentine, gần quận Concordia, tao phùng buổi nọ…(Xem lại chương V ở trước, trang 112-
113… )
[9]
Cước chú
Ý tại ngôn ngoại – hoặc ngôn tại ý ngoại – là ở tại đ}y. Xin bạn đọc đo|n ý chỗ ý tại ngôn ngoại trong câu
trên của Saint-Exupéry, theo viễn tượng Tồn Lưu T}y Phương.
“… Das zunaechst Befremdliche bleibt jedoch dies: Sein schickt sich uns zu, indem es zugleich sein Wesen
entzieht dieses im Entzug verbirgt”.
Dịch theo thông thường, thì rằng: “C|i đầu tiên đ|ng xui ngạc nhiên vẫn lại là cái này: Tồn Lưu tự trao thân
cho chúng ta, chính trong lúc mà Tinh Thể của nó, thì nó lại để vắng thiếu mất, nó che giấu Tinh Thể của nó
trong sự vắng bóng kia”.
Diễn dịch nghiêm mật ý đó theo những yêu sách của Ngôn Ngữ Việt thì rằng:
“Điều đầu tiên đ|ng ngạc nhiên
Ấy là cái vậy tuy nhiên thế này:
Tồn Lưu tự cấp hai tay
Hai hàng khép mở hai dày mỏng dâng
Tặng trao Tinh Thể ngại ngùng
Xuân Vân nép mặt, Thu Mồng dấu mi”.
Dịch sang H|n văn, thì rằng:
Ban sơ khả dĩ thị Lưu Tồn
Tự phó thân ban cấp tử tôn
Sa hợp tức phân hồn hướng hậu
Lộ nùng tinh thể ẩn tinh thôn.
Chia sẻ ebook: http://www.downloadsach.com
Follow us on Facebook: https://www.facebook.com/caphebuoitoi