Loga.vn
  • Khóa học
  • Trắc nghiệm
    • Câu hỏi
    • Đề thi
    • Phòng thi trực tuyến
    • Đề tạo tự động
  • Bài viết
  • Hỏi đáp
  • Giải BT
  • Tài liệu
    • Đề thi - Kiểm tra
    • Giáo án
  • Games
  • Đăng nhập / Đăng ký
Loga.vn
  • Khóa học
  • Đề thi
  • Phòng thi trực tuyến
  • Đề tạo tự động
  • Bài viết
  • Câu hỏi
  • Hỏi đáp
  • Giải bài tập
  • Tài liệu
  • Games
  • Nạp thẻ
  • Đăng nhập / Đăng ký
Trang chủ / Tài liệu / Cõi người ta (Antoine de Saint-Exupery)

Cõi người ta (Antoine de Saint-Exupery)

ctvtoan5 ctvtoan5 7 năm trước 210 lượt xem 2 lượt tải

Chào các quý thầy cô, hôm nay LogaVN gửi tới quý thầy cô giáo án "Cõi người ta (Antoine de Saint-Exupery)". Hi vọng sẽ giúp ích cho các quý thầy cô giảng dạy.

 

Cõi người ta

Antoine de Saint-Exupery

MỤC LỤC

TIỂU SỬ SAINT – EXUPÉRY

Saint – Exupéry sinh năm 1990, mất năm 1944 (ông lớn hơn Albert Camus 16 tuổi). Nhà – văn – phi – công đại tài, trở thành trứ danh với cuốn Bay đêm (Vol De Nuit), giải thưởng Fémina, 1931; trước đó Thơ về Nam (Courrier Sud). Tiếp theo sau là Phi công thời chiến (Pilote de Guerre), Hoàng tử bé (Petit Prime), Cõi người ta (Terre Des Hommes)…

Những kỉ niệm của ông trong cuộc sống ở Sahara làm phấn phát tinh thần ông, linh cảm ông, và xui ông chọn lựa sa mạc như chỗ đồng nhất quy lai của cái chốn, nơi ông đi về.

Quy tụ toàn thể tự niệm tư tưởng suốt bình sinh – một bình sinh chịu tử diệt để hồi sinh giúp đồng bào thiên hạ nhận thấy chốn đi về của mọi hoạt thể lao tứ, lao tâm.

Cõi người ta

Antoine de Saint-Exupery

Chia sẻ ebook: http://www.downloadsach.com

Follow us on Facebook: https://www.facebook.com/caphebuoitoi

MỤC LỤC

TIỂU SỬ SAINT – EXUPÉRY

TỰA

I

DẶM ĐƯỜNG BAY

II

BẠN ĐỒNG NGHIỆP

1

2

III

PHI CƠ

IV

TÀU BAY VÀ TRÁI ĐẤT

1

2

3

4

V

MÀU XANH SA MẠC

VI

TRONG SA MẠC

1

2

3

4

5

6

7

VII

GIỮA LÒNG SA MẠC

1

2

3

4

5

6

7

VIII

NGƯỜI TA

1

2

3

4

TIỂU SỬ SAINT – EXUPÉRY

Saint – Exupéry sinh năm 1990, mất năm 1944 (ông lớn hơn Albert

Camus 16 tuổi). Nhà – văn – phi – công đại tài, trở thành trứ danh với cuốn

Bay đêm (Vol De Nuit), giải thưởng Fémina, 1931; trước đó đ~ có ra T{u Thơ

về Nam (Courrier Sud). Tiếp theo sau là Phi công thời chiến (Pilote de

Guerre), Hoàng tử bé (Petit Prime), Cõi người ta (Terre Des Hommes)…

Những kỉ niệm của ông trong cuộc sống ở Sahara làm phấn phát tinh

thần ông, linh cảm ông, và xui ông chọn lựa sa mạc như l{ chỗ đồng nhất quy

lai của cái chốn, c|i nơi ông đi về.

Quy tụ toàn thể tự niệm tư tưởng suốt bình sinh – một bình sinh chịu tử

diệt để hồi sinh giúp đồng bào thiên hạ nhận thấy đ}u l{ chốn đi về của mọi

hoạt thể lao tứ, lao tâm. – “Gia đình, nh{ cửa, nghề nghiệp, lao động, cuộc hòa

đồng của nhân loại, và cuộc gắng gổ vô cùng tận để đạt tới một sự đồng cảm

vượt xa cuộc hì hục bình sinh của mỗi c| nh}n…”

Tính cách nhân bản lạ lùng của ông đ~ giúp cho mọi người trong “bốn

biển một nh{” bằng linh cảm (dự cảm) của tâm linh, nhận ra đ}u l{ cứu cách

tuyệt đối của những “c|nh hồng bay bổng tuyệt vời…”

Cuộc tán loạn lưu ly x~ hội Âu Châu giữa trận hung t{n Đệ Nhị Thế

Chiến, những khốc liệt m{ ông đ~ chứng kiến ngay trên xứ sở ông, những biến cố kỳ lạ ông đ~ chứng gi|m ngay trên đất Huê Kỳ, đ~ có t|c dụng chuyển

hướng những tư niệm của ông. Ông sang Huê Kỳ năm 1940 (th|ng Chạp).

Ông rời New York đầu năm 1941… đi về California chữa bịnh… Trở về New

York… Ông tiếp tục làm việc – ghi vào trong Hoàng tử bé bằng một ngôn ngữ

tượng trưng – thơ mộng vô cùng, và xa thẳm vô cùng – Tất cả cái tiếng Hót

của con Thiên Nga trước khi lìa cõi đời vĩnh viễn… (Có lẽ, nếu hoàn cảnh cho

phép, chúng ta sẽ gặp lại Saint – Exupéry trong một vài tác phẩm khác) –

Những tài liệu trên đ}y đều góp nhặt từ nhà Gallimard.

Bùi Giáng

1995

TỰA

Câu chuyện kể, là chuyện phi công v{ phi cơ.

Nhưng giọng người là giọng trần gian đi tìm linh hồn mình giữa non

nước quạnh.

Văn minh, văn hóa đương phiêu bồng đợi giờ thành tựu. Những xế

chiều ký niệm đương linh cảm sương v{ng bình minh.

Saint-Exupéry đ~ đi mất từ l}u, nhưng tiếng ngân dài trong suốt vẫn

xuyên vào trong giấc chiêm bao thương nhớ của những người ở lại.

Kẻ trước, người sau, xin “dịch” đi, dịch lại những lời… Dịch, biến làm

chuyển dịch cho tương giao. Bất cứ nhìn ai cắm cúi dịch Saint-Exupéry, ta

h~y xem như đó l{ chuyện chung của những con người rủ nhau ghé vào bờ

mộng. “Ở giữa lòng một v{i đêm th}u lục nhạt, tôi đ~ nhìn những tia lửa

băng trời thành một đường rẽ vút như một làn gió dài dàn rộng giữa muôn

sao”.

SAINT-EXUPÉRY

Theo dõi giấc mộng dài của Saint-Exupéry, lại gọi ngôn ngữ Việt Nam

về hạ tứ, nhiều phen phải b{ng ho{ng: Chúng ta đứng trước mấy lần hiểm

họa của màu sắc lục hồng cứ trùng điệp rủ nhau bay, tung lên và phủ xuống.

“Phi hồng trường phát phi kiên. Ôi mùa tích lục phi tuyền lên cao”.

René Char còn bảo: “Ne regardez qu’une fois la vague jeter I’ancre dans

la mer. Hãy nhìn chỉ một lần thôi, làn sóng thả neo vào lòng biển”.

Dịch văn – sao cứ gọi là dịch? – dịch văn biến thành câu chuyện: vừa

bay lên, vừa lặn xuống, vừa nối liền hai bờ ngôn ngữ quá xa nhau. Thật vừa

vui, vừa mệt mỏi.

Ngôn ngữ đa }m đòi hỏi lối phiên dịch như thế nào qua ngôn ngữ đơn

}m? Đó l{ điều đ|ng xui chúng ta tư lự đăm chiêu.

Vì lẽ: tiết điệu đa }m có một phong thái dồi d{o đương yêu cầu được

tái hiện. Đ}y l{ trường hợp: ở bên kia từ ngữ, tiết nhịp của ngôn ngữ đương

nói rất nhiều.

May sao, Việt ngữ đơn }m lại giàu sang âm vận. Nhưng không phải: ở

mọi cơ hội, đều giản dị giàu sang. Do đó cần thêm một chút chuyển giao thỏa

đ|ng, thì lời dịch sẽ tái lập được “cung bậc” gieo v{ng của nguyên ngôn. Mà

nguyên ngôn Saint-Exupéry lại chứa chan những thơ mộng khi u trầm,

ngậm ngùi, lúc lộng lẫy. Cái điệu nói la cà diệu vợi, vừa chát chát vừa hắt

hiu, lúc nhắc tình bạn hữu, lúc gợi tiếng U già, lúc chuyện trò với gái trên

nhịp cầu hai cõi hoang vu. “Tả nhi nữ tư tình, đ~ng khí hồi trường. Tả anh

hùng sự tích, nghĩa bạc v}n tiêu”.

Hai điếu xì gà của một ông bạn cho tôi hôm qua, tôi vừa hút xong hết

cả. Vậy xin kết thúc.

B.G.

T.B. Trong bản dịch, có mấy chỗ tôi thêm vài lời, ấy là gắng đưa ngôn

ngữ đơn }m đuổi theo tiết điệu ngôn ngữ đa }m. Thỉnh thoảng lại bớt vài lời,

ấy là bởi: Việt ngữ mang nhiều tính chất parataxique, trong khi Pháp ngữ lại

triệt để là một ngôn ngữ Syntaxique.

Đất dạy ta hiểu hơn mọi sách vở. Vì đất cưỡng kháng lại ta. Con người

tự kh|m ph| ra mình l{ lúc đọ sức với trở ngại. Nhưng muốn đạt tới, cần

phải có một dụng cụ. Cần một cái bào, hoặc một cái cày. Trong cuộc cày bừa,

người nông dân dần d{ cướp giật được của thiên nhiên một vài bí nhiệm, và

ch}n lý anh tìm được cũng l{ ch}n lý suốt cõi muôn năm. Phi cơ cũng vậy:

dụng cụ h{ng không kia, cũng đặt con người trở lại trong những vấn đề cũ.

Trước nhãn quan của mình, tôi luôn nhìn thấy lại chuyến bay đêm lần

đầu tại Argentine, một đêm tăm tối, nhìn xuống bình nguyên chỉ thấy một vài

|nh s|ng cô đơn lấp l|nh thưa thớt như những vì sao.

Trong bóng tối bao la mờ mịt, mỗi |nh đèn b|o biểu mỗi hiện diện

huyền diệu của mỗi tâm linh. Chốn n{y, người ta đang xem s|ch, người ta

đang suy tưởng, người ta đang thổ lộ t}m tư. Nơi kia có lẽ người ta đang dò

dẫm không gian, người ta đang mỏi mòn trước những con số, tính toán mãi

về tinh vân Andromède. Chốn nọ, người ta đang yêu đương. Đó đ}y, l|c đ|c

trên c|nh đồng, những ánh lửa đang đòi hỏi được nuôi dưỡng, giữ gìn. Cho

đến cả những |nh đèn kín đ|o nhất, của nh{ thơ, của nhà giáo, của người thợ

mộc. Nhưng giữa đ|m sao r{n rạt sống động kia còn biết bao cánh cửa kín

bưng, biết bao tinh cầu tắt lịm, biết bao con người ngủ say.

Phải gắng làm sao tiếp ứng nhau.

Phải gắng thử tương giao với một v{i đốm lửa đang thưa thớt cháy

trong c|nh đồng bình lặng dưới kia.

I

DẶM ĐƯỜNGBAY

Thủa ấy, v{o năm 1926. Tôi vừa được tuyển dụng làm tập sự phi công

đường dài của h~ng Latécoère. H~ng n{y, trước Air-France và Aéropostale,

từng chuyên trách liên lạc hàng không giữa Toulouse và Dakar. Tôi học

nghề tại đó. Cũng như mọi đồng nghiệp kh|c, đến lượt tôi phải chịu những

đợt thử thách dành cho những phi công tập sự trước lúc nhận cái vinh dự

lái những chuyến chở thư tín. Những cuộc tập dượt lái thử các kiểu phi cơ,

những lần di chuyển giữa Toulouse và Perpignan, những bài học buồn thiu

về khí tượng ở tận một căn phòng s}u hút trong một xưởng gi| băng. Chúng

tôi sống trong mối e ngại những d~y núi T}y Ban Nha m{ mình chưa được

biết, và sống trong niềm tín phục, tôn kính những bạn đồng nghiệp lão

thành.

Các vị này, chúng tôi vẫn thường gặp lại trong tiệm ăn. Họ khó tính và

cách biệt. Khuyên bảo đ{n em với giọng điệu kẻ cả kiêu kỳ. Mỗi khi có một

người trong bọn họ từ Alicante hoặc từ Casablance về chậm, áo choàng da

đẫm nước, nếu trong bọn chúng tôi có kẻ rụt rè hỏi thăm về chuyến bay ấy,

thì những lời đ|p cộc lốc của họ cùng với cảnh trời giông b~o, đ~ tạo cho

chúng tôi một thế giới hoang đường, một thế giới đầy những cạm bẫy hiểm

nghèo, những gian nan bất trắc, những v|ch đ| sừng sững đột ngột hiện ra,

những cơn lốc cuồng loạn cơ hồ muốn lật nhào cổ thụ, bật rễ tùng b|ch như

chơi. Thế giới của những con hắc long khổng lồ đứng chặn lối vào thung

lũng, của những tràng chớp động vây bọc đầu non. Các bạn kỳ cựu kia đ~

khéo nuôi dưỡng lòng kính phục của chúng tôi. Và thỉnh thoảng trong đ|m

người ấy có một kẻ bay đi không thấy trở về, thì ông trở thành thiên thu khả

kính.

Cùng với những kỷ niệm kia, tôi nhớ lại chuyến trở về của Bury, người

mà về sau sẽ tử nạn tại Corbières. Anh phi công lão thành này vừa ngồi vào

giữa bọn chúng tôi v{ đang mệt nhọc dùng bữa, không nói một lời, hai vai

còn nặng trĩu những cố gắng đ~ chịu đựng trong chuyến bay. Đó l{ v{o tối

một ngày trời xấu, một trong những ngày mà suốt con đường hàng không

trời m}y đen kịt tối sầm, núi rừng trùng điệp trước mắt phi công cùng theo

nhau cuồn cuộn trôi trong một màu mực đen ngòm, giống như những khẩu thần công đứt mấu ầm ỹ lăn lông lốc trên boong chiếc tàu buồm thuở xưa.

Tôi nhìn Bury, tôi nuốt nước bọt, và cuối cùng đ|nh bạo xin hỏi liều

xem cho biết chuyến bay của anh vừa rồi có phải gian nan lắm không.

Bury dường như không nghe tiếng tôi hỏi, anh nhíu trán, cúi gằm đầu

trên đĩa ăn. Trên những chiếc máy bay trần, gặp trời xấu, người ta thò đầu

ra ngoài kính cửa để nhìn cho rõ cảnh vật, thì gió lạnh tạt vào tai, rít lùng

bùng trong đó m~i… Chợt Bury ngẩng đầu, như có vẻ đ~ nghe ra c}u tôi hỏi,

như có vẻ sực nhớ lại, v{ đột ngột buông tiếng cười rộ. Tiếng cười tuyệt

diệu, Bury vốn rất ít khi cười, c|i cười ngắn ngủi làm rạng ngời cơn nhọc

mệt của anh. Anh không giải thích gì thêm nữa về sự đắc thắng của mình,

anh nghiêng đầu lặng lẽ tiếp tục nhai. Nhưng trong phòng ăn x|m xịt, ngồi

giữa đ|m công chức nhỏ đang gắng gượng tìm c|ch quên đi những nhọc

mệt rời r~ ban ng{y, thì người bạn có đôi vai nặng trĩu kia mang một vẻ cao

nhã lạ thường. Qua cái bề ngoài cục mịch, ta nhìn thấy rõ vị thiên thần ảo

diệu đ~ nhiếp phục con rồng đen.

Rồi tới ng{y đến lượt tôi được gọi v{o phòng ông gi|m đốc.

Ông điềm nhiên bảo:

- Ng{y mai anh đi.

Tôi đứng yên, chờ ông cho phép lui gót. Nhưng im lặng một lúc, ông

nói thêm:

- Anh đ~ rõ c|c chỉ thị rồi chứ?

Máy bay thời đó không đảm bảo như m|y bay ng{y nay. Nhiều lúc tự

nhiên phát-động-cơ đột ngột vỡ toang, loảng xoảng phá-liệt hệt như tiếng

chén dĩa bể. Mình lại đương đi về hướng vùng núi T}y Ban Nha, nơi không

một chỗ hạ cánh tị nạn. “Ở đ}y, khi m|y hỏng, thì phút chốc hỡi ôi! Phi cơ

hỏng theo liền”, chúng tôi tự bảo mình như vậy. Nhưng một chiếc phi cơ

hỏng, thay thế có khó gì. Điều cần yếu l{ đừng có dại dột mù qu|ng lao đầu

bừa xuống núi. Vì thế cho nên mệnh lệnh ban ra nhất thiết cấm ngặt chúng

tôi (nếu bất tuân, sẽ bị phạt rất nặng) không được bay qua các vùng biển

mây mù mịt vây phủ các vùng núi non. Lúc máy hỏng, nếu phi công đang len lỏi bay giữa những dải mây trắng xóa, thôi chỉ còn có thể đ}m đầu vào núi

mà không biết, không hay.

Thế nên chị đêm ấy, một giọng nói chậm r~i đ~ nhấn mạnh vào những

mệnh lệnh phải theo.

- Cái việc dùng địa bàn mà bay, giữa những biển mây xứ Tây Ban Nha,

hừ, bảnh thật. Nhưng…

Giọng nói càng chậm r~i hơn:

- … Nhưng chớ nên quên rằng bên dưới những biển mây kia là ngàn

năm ngủ mãi.

Bỗng dưng c|i bình lặng phẳng lì đơn giản ta kh|m ph| được mỗi khi

nhô lên khỏi các tầng mây, bỗng dưng đối với tôi, cái thế giới đó đ~ mang

một ý nghĩa lạ. Cái dịu dàng biến thành cạm bẫy. Tôi hình dung cái cạm bẫy

bát ngát trắng phau kia đương nằm duỗi thân dàn trải ngay dưới bước chân

mình; dưới kia, không như thiên hạ tưởng, dưới kia chẳng hề có nô nức của

lo{i người, dập dìu của phố thị: dưới kia chỉ có lặng lẽ thiên thu, im lìm vạn

thuở. Cái khoảnh tròn cuồn cuộn, trắng phau kia đ~ biến thành biên giới

giữa hai cõi thực v{ hư, giữa hai bờ chân và ảo. V{ tôi đ~ linh cảm một điều:

một cảnh tượng chỉ có ý nghĩa n{o l{; được nhìn qua một nền văn minh,

một nghề nghiệp, người dân miền núi cũng nhìn mãi những biển mây,

nhưng họ không nhìn ra cái tấm m{n hoang đường kỳ diệu kia trong đó.

Lúc ra khỏi phòng ông gi|m đốc, tôi cảm thấy một niềm kiêu h~nh thơ

ngây. Tảng s|ng ng{y mai đ}y, tới lượt tôi lên đường, mang trách nhiệm về

một số hành khách, mang trách nhiệm về chuyến thư tín sang Phi Ch}u,

nhưng đồng thời cũng thấy tự thẹn. Tôi nhận ra quả thật mình chưa chuẩn

bị được chu đ|o. T}y Ban Nha không có nhiều nơi l|nh nạn; gặp khi máy

hỏng, biết tìm đ}u một thửa ruộng để thoát thân. Trên bản đồ khô khan tôi

cắm cúi tìm nhưng chẳng thấy một vài chỉ dẫn tôi đương cần. Lòng vừa ngại

ngùng vừa kiêu hãnh, tôi tới phòng anh bạn Guillaumet để qua c|i đêm trầm

trọng. Guillaumet đ~ quen đi lại con đường ấy trước tôi. Guillaumet hẳn là

phải biết nhiều bí quyết để nắm lấy chìa khóa mở ngõ Tây Ban Nha, tôi cần

gặp Guillaumet để xin thụ nghệ.

Vừa tới phòng anh, anh tươi cười hỏi:

- Tôi biết tin rồi. Anh hài lòng chứ?

Anh mở tủ lấy chai rượu mạnh và hai cái cốc quay lại, vẫn tươi cười:

- Ta uống rượu mừng. Anh biết đó nhé, mọi sự trôi chảy êm ru.

Anh ta gieo niềm tin tưởng hồn nhiên như đèn tỏa ánh sáng, anh chính

l{ người về sau sẽ phá kỷ lục l|i t{u thư tín tại vùng Codillère des Andes và

Nam Đại T}y Dương. Tối hôm ấy, mặc sơ mi trần, khoanh tay mỉm cười

dưới ánh đèn, c|i nụ cười hiền hậu bao dung, anh bảo tôi mấy lời giản dị:

“B~o t|p, sương mù, tuyết lạnh, thỉnh thoảng chúng sẽ làm khổ thân anh.

H~y nghĩ tới những người trước anh đ~ từng gặp những chuyện ấy rồi, và

hãy hân hoan tự nhủ: chuyện gì thiên hạ l{m được, thì bao giờ ta cũng có

thể l{m nên”. Tuy nhiên, tôi vẫn mở địa đồ ra và nhờ anh dù sao cũng nên

cùng tôi xét lại cuộc h{nh trình. V{ nghiêng th}n dưới |nh đèn, tựa lên vai

người bạn, tôi sống lại một phút giây bình thản của đời sống học sinh ngày

cũ.

Nhưng b{i học địa dư tối hôm ấy quả là một bài học dị thường. Anh

Guillaumet không dạy tôi học về Tây Ban Nha; anh biến Tây Ban Nha thành

một người bạn thân ái của tôi. Anh không hề nói qua về những song ngòi, về

dân chúng, về súc vật xứ này. Anh không nói đến th{nh Guadix, nhưng lại

nói tới ba cây cam quanh một c|nh đồng gần th{nh Guadix: “Anh phải lưu ý

tới ba cây cam ấy, phải coi chừng, ghi chúng vào bản đồ đi…” Từ đó, ba c}y

cam kia chiếm nhiều chỗ trên tấm bản đồ hơn rặng núi Sierra Nevada. Anh

Guillaumet không nói gì về th{nh Lorca, nhưng lại nói về một cái nông trại

nhỏ ở gần Lorca. Một nông trại sống. Một nông trại linh hoạt. V{ người chủ

trại. Và vợ người chủ trại. Thế là bỗng dưng cặp vợ chồng này mang một ý

nghĩa vô cùng hệ trọng đối với tôi – một cặp vợ chồng sống ở đ}u đ}u, c|ch

biệt tôi một ng{n rưỡi cây số, lẩn bóng mơ hồ giữa không gian. Sống yên ổn

nơi sườn non biệt lập, giống như những kẻ coi giữ hải đăng, cặp vợ chồng

này sẵn sàng chạy đi tiếp cứu mọi kẻ lâm nguy.

Bài học tối hôm đó đ~ đ|nh thức những gì? Từ cõi lãng quên, từ miền

xa vắng, từ những xứ cách biệt nghìn trùng, chúng tôi đ~ lôi ra v{ dựng dậy

những hình hài, những ủy khúc chi li mà không một nh{ địa lý học nào ở khắp thế giới có thể biết ra. Đối với một nh{ địa dư học, thì con sông Ebre

mới l{ đ|ng chú ý, vì nó chảy qua nhiều vùng đô thị lớn. Họ lưu t}m l{m gì

tới cái khe nhỏ len lỏi giấu thân trong lá cỏ ở phía Tây thành Motril? Bất quá

nó chỉ nuôi dưỡng được vài ba chục đóa hoa m{ thôi. “Anh phải coi chừng

cái khe cỏn con đó nhé. C|nh đồng mủm mỉm, chỉ tại nó mà trở nên đ|ng

sợ… Ghi v{o ngay bản đồ đi”. A! Tôi sẽ ghi nhớ nhiều ngày cái con rắn thành

Motril! Nó lập lòe tí tẹo, trông chả ra cái dạng gì gì nhiều cho lắm, thì với

tiếng nước chảy xè xè, nó mê hoặc say sưa v{i con ễnh ương ếch nhái,

nhưng kỳ thật là tối ư nguy hiểm: nó giả vờ vô sự, nó duỗi thân thiu thiu

ngủ, và nhắm mắt chỉ nửa con ngươi. Giữa thiên đường c|nh đồng tế độ vớt

trầm luân, nó duỗi dài mình mẩy dưới cỏ hoa, nằm chờ tôi cách chỗ tôi ngồi

đ}y ngót hai nghìn cây số. Chỉ gặp nó một lần! Thôi cũng đủ tan rã mất thịt

xương…

[1]

Tôi vẫn xin sẵn sàng chờ đợi những ba chục con cừu dàn trận sẵn nơi

kia, bên sườn đồi sắp mở cuộc đ|nh úp: “Anh tưởng c|nh đồng cỏ yên lành,

vù một cái! Ba chục con cừu bỗng loạn cuồng tung vó ngay dưới bánh phi

cơ…”. V{ tôi chỉ đ|p bằng một nụ cười đê mê kinh dị, trước sự hăm dọa

hiểm ác kỳ tuyệt như thế kia.

Cứ từ từ như vậy, dưới |nh đèn chong, xứ Tây Ban Nha trong tấm bản

đồ của tôi, cứ dần dà biến thành xứ sở của những chuyện thần tiên. Tôi vạch

dấu chữ thập những nơi tị nạn, và những chỗ cạm bẫy. Tôi ghi dấu chỗ nông

trại, chỗ ba mươi con cừu, chỗ dòng khe ẩn dạng. Tôi ghi thật đúng chỗ, cái

vị trí của bà chủ trại, m{ c|c nh{ địa dư học đ~ bỏ qua.

Lúc từ giã Guillaumet, tôi cảm thấy hai chân cần bước đi, trong c|i

đêm đông gi| buốt này. Tôi kéo cổ áo choàng lên và giữa đ|m người qua lại

vô tình, tôi triền miên nghe m|u tim mình tươi vui vỗ nhịp. Len lỏi sát nách

những người không quen, tôi hân hoan với niềm riêng tâm sự. Họ không

biết tôi, những người “du di man rợ” ấy, nhưng những ưu tư của họ, nhưng

những hưng phấn ân tình của họ, chính tôi là kẻ được họ gửi gắm sớm hôm

sau, lúc trời hồng dậy, tôi lên đường với những bọc thư tín mang theo.

Chính trong tay tôi là chỗ của mộng đời họ ký thác. Cuộn thân mình trong

chiếc áo choàng ấm |p, tôi bước đi theo nhịp bao dung của linh hồn lãnh tụ,

nhưng n{o họ có biết gì về tấm lòng tôi ân cần “hạ cố đến nhau” đ}u.

Họ cũng chẳng hề lưu ý tới những lời nhắn gửi của đêm đông vì đ}u

mà hạ tứ gieo vàng cho riêng lòng lãnh tụ mông }n. V}ng, c|i đêm tĩnh mịch

này có liên can tới thịt xương của tôi đó. V{ cơn b~o tố n{o đương soạn sửa,

và sẽ gây rối rắm cho cuộc viễn du thứ nhất này, nào ai biết tới đ}u. Tinh tú

mờ dần, lần lượt tắt đi, những người qua đường hồn nhiên dạo gót, làm sao

mà nhìn thấy cho ra? Tôi một mình cùng ngàn sao tâm sự. Tôi một mình

đón nhận những lời ban báo về vị trí qu}n thù, trước khi mở cuộc đấu

tranh…

Tuy nhiên những khẩu lệnh trầm trọng liên can tới đời tôi, thật ra tôi

đ~ thọ lãnh bên cạnh những tủ gương s|ng chiếu, rạng ngời những quà lễ

Giáng Sinh. Trong những tủ h{ng kia, dường như đ~ phơi b{y, trong một

đêm mùa đông kỳ vọng, tất cả những kho tang của mặt đất, v{ tôi đ~ đê mê

hưởng thụ niềm thanh lạc của con người chực từ khước hết để ra đi. Tôi l{

một chiến binh đương bị hăm dọa: tôi lưu luyến làm gì những chuỗi hạt

thủy tinh dùng để trang hoàng những buổi hội, tôi nặng tình chi nữa với

những chụp đèn, với những quyển s|ch kia. Đứng tại đ}y, m{ hình h{i thể

ph|ch đ~ ký th|c v{o những mù sương v}y phủ, những mây kéo tối sầm;

đứng ở đ}y m{ hồn phi công nghìn dặm đ~ nhấm thấy trước rồi, các vị chát

những đêm bay.

Tôi được đ|nh thức dậy lúc ba giờ s|ng. Tôi đẩy mạnh cánh cửa chớp,

nhận thấy trời đang mưa trên phố, tôi trang nghiêm mặc áo quần.

Nửa giờ sau, ở vệ đường, ngồi bên chiếc va ly nhỏ, tôi chờ chiếc xe

buýt đến. Biết bao bạn đồng nghiệp trước tôi, trong ng{y được chuẩn nhận

vào nghề, cũng đ~ từng ngóng đợi như tôi, lòng se se lại.

Từ góc đường, chiếc xe thời cũ đ~ nhô ra, tiếng kêu rầm rộ. Đến bây

giờ tới lượt mình, tôi cũng như c|c bạn đồng nghiệp cũ, được quyền ngồi

trên chiếc ghế băng d{i, chen giữa một ông ký nh{ đoan chưa tỉnh ngủ và

một vài công chức khác. Chiếc xe hôi mùi mốc, là hình ảnh những công sở

bụi bặm, những bàn giấy cũ mòn, những cuộc đời tàn lụi. Cứ khoảng năm

trăm thước, chiếc xe lại dừng, để chở thêm một thầy ký, một nh{ đoan, một

ông thanh tra nào nữa. Kẻ mới bước lên, buông tiếng chào, xen vào ghế; kẻ

đ~ ngồi từ trước, chớm ngủ thiu thiu, cằn nhằn gù gật. Rồi mọi người cùng

lần lượt lịm vào giấc thiu thiu. Trên các chặng đường trải đ| gồ ghề phố

Toulouse, chiếc xe đi, thật l{ điều ảo n~o… V{ người phi công dặm trường ngồi chen trong đ|m công chức, thoạt tiên, chẳng có gì phân biệt hết…

Nhưng những cột đèn cứ nối tiếp chạy d{i, nhưng phi trường cứ càng gần

thêm mãi, và chiếc xe chở kh|ch cũ kỹ lắt lay kia chỉ còn là cái kén mốc, và

con người từ trong đó lột x|c bước ra.

Mỗi bạn đồng nghiệp cũng từng đ~ như tôi, một sớm mai tương tự, đ~

từng cảm thấy tại thân mình, trong hình hài kẻ thuộc hạ dễ bị tổn thương,

chịu quyền uy của viên thanh tra cau có, bất chợt nảy nở ra con người mang

trách nhiệm chuyến t{u thư đi T}y Ban Nha v{ Phi ch}u; bất chợt nảy ra con

người lát nữa, giữa loạn cuồng sấm chớp, sẽ đương đầu với rặng núi

Hospitalet nằm đen ngòm như một con hắc long… ba giờ sau, ấy thế; bốn

giờ sau, lúc đ~ chiến thắng con rồng đen, người ấy sẽ hoàn toàn tự do tự

mình định đoạt nên bay vòng eo biển hay nhào thẳng tới tấn công dãy núi

Alcoy, đem gan liền ra thi t{i đấu sức với bão tố, với biển rộng, rừng sâu.

Mỗi bạn đồng nghiệp lẫn lộn trong đ|m phi công vô danh dưới vòm

trời đông đen kịt Toulouse, đ~ từng cảm thấy, dưới một buổi mai tương tự

buổi mai này, cứ như lớn rộng mãi trong thân mình một vị chúa tối thượng

năm giờ sau sẽ khởi sự tiện gió cất lìa dặm khơi, thả cánh bằng, nhằm phố

Alicante mà hạ xuống, trong nắng hè chói rực ngày hạ huy hoàng, bỏ lại sau

lưng cả một mùa đông phương Bắc, với mưa sầu tuyết hận phía sau…

Chiếc xe h{ng cũ kỹ biến mất rồi, nhưng vẻ khắc khổ, điệu ì ạch gập

ghềnh kia, tôi còn giữ nguyên trong kỷ niệm. Nó tượng trưng đầy đủ sự

chuẩn bị, rèn luyện cần thiết để thâm cảm một niềm vui trong khổ nhọc của

nghề mình. Mọi sự trong nghề n{y đều đơn giản một cách hãi hùng. Trong

cõi đó, ba năm sau, tôi đ~ nhận được tin anh phi công Lécrivain chết, mà lời

trao đổi không quá hai câu; Lécrivain, một trong số một trăm bạn đồng

nghiệp trên một con đường bay, một ng{y sương hoặc một đêm mù tối, đ~

đi vào cõi yên nghỉ thiên thu.

Lúc ấy vào khoảng ba giờ s|ng, cũng canh chầy tĩnh mịch, bỗng nghe

trong bóng tối vị gi|m đốc lên tiếng hỏi viên thanh tra:

- Tối nay Lécrivain không thấy hạ cánh xuống Casablanca.

- A! Hả?

V{ như sực tỉnh mộng dài, anh gắng cho tỉnh t|o để tỏ lòng sốt sắng,

anh hỏi thêm:

- A! Thế ư? Y không qua được? Y quay về?

Từ cuối chuyến xe khách, vẳng lên một lời đ|p gọn lỏn: “Không”.

Chúng tôi chờ nghe tiếp, nhưng không một tiếng nào thêm. Và giây khắc

qua, giây khắc biến, càng rõ rằng cái tiếng “không” kia, l{ tuyệt-đối-tiếng-

không; rằng không là không những Lécrivain đ~ không hạ cánh xuống

Casablanca, m{ cũng không bao giờ anh sẽ còn hạ cánh xuống bất cứ một

nơi n{o được nữa.

Buổi mai đó, buổi mai mở màn chuyến bay đầu tiên của tôi, tôi cũng

như c|c bạn đồng nghiệp, xin khuất mình nhận đủ các nghi tiết thiêng liêng

của nghề nghiệp, và cảm thấy thiếu mất tự tin, lúc nhìn ra bên ngoài thấy

con đường trải đ| lấp loáng phản chiếu bóng đèn lồng. Trên đường, những

vũng nước đọng, từng đợt gió bay qua l{m lăn tăn mặt nước. V{ tôi nghĩ:

“Đ}y chuyến bay đầu… thật tình… ta không may mắn lắm.” Tôi ngẩng nhìn

viên thanh tra: “Thế này có phải là xấu trời chăng?” Viên thanh tra mỏi mệt

nhìn ra cửa kính: “Đ}u có chắc gì?” Giọng ông cằn nhằn. Tôi tự hỏi: bằng dấu

hiệu nào mới biết được trời xấu? Tối hôm qua, riêng với một nụ cười, anh

Guillaumet đ~ xóa hết mọi triệu chứng không hay mà các bạn kỳ cựu đ~ l{m

chúng tôi e sợ, nhưng b}y giờ tôi nhớ hết: “Kẻ nào không thuộc đường

mình, thuộc từng đường sỏi, nếu y gặp một trận bão tuyết… thật đ|ng

thương thay! A! V}ng! Thật đ|ng thương thay!...” Họ buộc lòng phải giữ thể

diện với đ{n em, họ lắc đầu nhìn chúng tôi chòng chọc với một lòng thương

hại đ|ng bực phần n{o, như chừng họ ái ngại nơi chúng tôi những lỡ lầm

quá hồn nhiên dại dột.

Và thật vậy, đối với bao nhiêu kẻ trong chúng tôi, chuyến xe “buýt”

n{y l{ nơi tị nạn cuối? S|u mươi? Hay t|m mươi người rồi? Cũng đ~ từng

được chở đi do một tài xế lặng lẽ, một buổi mai mưa nhiều. Tôi nhìn quanh:

lốm đốm sáng trong đêm, những chấm đỏ đầu điếu thuốc như điểm nhịp

hồn tư lự. Những tư lự nhỏ nhoi giản dị của những công chức về già. Với bao

nhiêu người trong bọn tôi, những bạn đồng h{nh n{y đ~ đóng vai những kẻ

tiễn đưa lần cuối?

Tôi bắt gặp những câu tâm sự người ta thủ thỉ trao nhau. Tâm sự về

bịnh tật, tiền tài, về những quẩn quanh gia đình cơ cực. Chúng cho thấy

những v|ch tường tù ngục tẻ lạnh vây hãm những tấm thân kia. Và bất

thình lình hiện ra trước mắt tôi khuôn mặt định mệnh.

Hỡi người công chức già, người bạn hiện diện nơi đ}y, chưa bao giờ có

ai giúp anh lối tho|t, anh cũng không chịu trách nhiệm gì về việc đó. Anh đ~

xây dựng cuộc sống bình thản của mình bằng cách trám kín mọi ngõ nhìn ra

ánh sáng. Gió không thể đi về, vì mọi lối đều bị bít bởi xi măng. Anh giống

như những con mối. Anh cuộn tròn trong ổn định túc mãn của anh, trong

những tập tục cũ mòn, trong những thói lề ngột ngạt của cuộc sống địa

phương, anh dựng bức thành u tối che lấp lối đi về của gió rộng trùng khơi,

của sương hồng tinh tú. Anh không muốn bận lòng vì những vấn đề trọng

đại, anh đ~ khó nhọc nhiều mới quên lãng thân phận con người anh. Anh

không phải là một người cư trú trên một tinh cầu xê dịch, anh không tự nêu

ra với mình những câu hỏi o|i oăm: anh l{ người trưởng giả trung lưu phố

Toulouse. Không ai nắm lấy hai vai anh m{ đẩy mạnh, khi còn kịp lúc. Đến

bây giờ, thì đ~ muộn. Thể chất đ~ khô, nguồn tim đ~ cạn, xương khớp cứng

rắn rồi; kể tự bây giờ, không ai còn có thể đ|nh thức dậy trong người anh,

ấy hồn nhạc sĩ, ấy mộng thi nhân, ấy nh{ thiên văn học của thuở ban đầu,

chắc chắn đ~ có lần từng cư trú trong con người của anh.

Tôi không phàn nàn gì về những cơn mưa nữa. Nghề nghiệp ảo diệu

này mở rộng cho tôi một thế giới kh|c thường, và chỉ lát nữa thôi, tôi sẽ đọ

mặt với những con rồng đen, v{ những đầu non với những làn chớp xanh về

vây quyện. Vâng, một thế giới m{ lúc đêm tối về, tôi được tho|t ly v{ đọc

thấy phương hướng mình trong ánh vàng tinh tú.

Chúng tôi vào nghề theo lối đó, v{ khởi sự viễn du. Những cuộc hành

trình, thường thường chẳng xảy ra chuyện gì cho lắm. Chúng tôi tiến sâu

dần, sâu mãi vào những tầng thâm viễn của lĩnh vực mình, cũng như những

kẻ lặn nước lành nghề lao mình lặn sâu xuống biển. Ng{y nay thì lĩnh vực đó

được khai phá kỹ c{ng. Người phi công, người thợ m|y, người chuyên môn

vô tuyến, không còn là những kẻ mạo hiểm phiêu lưu; họ khép mình ở trong

phòng thí nghiệm. Họ tuân theo những trò xõa lộng của kim quay, họ không

còn thuận theo tiết điệu linh hoạt phiêu bồng mở phơi trong nhịp hồn

phong cảnh. Ở bên ngo{i, núi non chìm trong tăm tối, nhưng chúng không

còn là núi non nữa. Chúng trở thành những sức mạnh vô hình, cần phải được tính to|n độ gần xa. Người chuyên vô tuyến, dưới bóng đèn, ngồi im

ngoan ngoãn ghi những con số; người thợ máy dò hỏi bản đồ, người phi

công sửa chữa lại tay l|i cho đúng theo đường nếu những rặng núi xê xích,

nếu những đỉnh núi n{o anh đ~ định vượt qua bên phía sườn tả, bỗng chợt

thấy hiện ra sừng sững trước mặt anh, trong lặng lẽ bí mật như một cuộc

động binh quân sự. Còn những người chuyên vô tuyến canh phòng dưới đất,

họ cũng ngoan ngo~n ghi chép trong cuốn sổ riêng, cũng trong phút gi}y ấy,

chính những điều mà bạn đồng nghiệp trên phi cơ đọc ra: “Nửa đêm qu|

bốn mươi phút. Đường đi theo độ 230. Trên tàu yên ổn cả.”

C|c đội phi h{nh ng{y nay đều bay như vậy đó. Họ không có cảm giác

l{ mình đang chuyển dịch. Như giữa biển ban đêm họ không dựa v{o đ}u để

định hướng. Nhưng c|c m|y móc đ~ đưa v{o tr{n ngập gian phòng sáng

trưng n{y một rung động đều đều làm biến thể bản chất của nó đi. Nhưng

giờ phút quay. Nhưng cả một pháp thuật vô hình cứ liên tiếp diễn ra trên

các mặt kính, trong từng ngọn đèn vô tuyến, và trong các kim. Từng phút,

từng giây, những cử chỉ ẩn mật, những tiếng nói chìm tắt, sự chú ý cẩn trọng

kia, còn dọn đường đi cho huyền nhiệm tới. Và lúc giờ đ~ đến, người phi

công hẳn nhiên là có thể d|n đầu vào mặt kính m{ đưa mắt nhìn ra. Từ hư

vô, ho{ng kim đ~ nảy hột; nó chói vàng rạng rỡ trong những ánh lửa nồng:

trạm nghỉ tới rồi đ}y.

Ấy thế tuy nhiên chúng tôi ai cũng từng có biết những chuyến đi, m{

bỗng dưng, dưới ánh sáng một quan điểm riêng biệt, lúc chỉ còn cách trạm

nghỉ không xa, chúng tôi chợt thấy chơ vơ… còn đ|ng ngậm ngùi hơn thấy

mình lạc lo{i đất xa xôi Ấn Độ. Như cả cuộc đời mất đi. Mong gì ng{y trở lại.

Trường hợp đó, Mermoz đ~ gặp vào lần thứ nhất anh bay qua Nam

Đại T}y Dương bằng thủy phi cơ. Chiều hôm đó, anh tiến vào vùng Pot-au-

Noir. Anh nhìn thấy trước mặt những cơn gió biển từng trận nổi lên tung

bão tố, từng vòi cứ quấn siết chặt lại từng phút từng gi}y, như nhìn thấy

một bức th{nh đương dựng lên, rồi bóng đêm phủ xuống che dấu mất. Một

giờ sau, anh len lỏi bay qua những đ|m m}y, v{ bước vào trong một cõi bờ

huyền hoặc.

Những vòi nước biển dựng đứng lên, cơn b~o dồn dập cuốn lấy, quấn

siết, đứng sừng sững như những cột trụ đen đủi khổng lồ của một điện đ{i.

Chúng to ra ở hai đầu, chịu đựng sức nặng của vòm bão giông âm u thấp tịt đè xuống. Nhưng, xuyên qua những đường nứt nẻ của vòm đen giông gió,

|nh s|ng đổ xuống từng loạt long lanh, và vừng trăng tròn trịa bỗng sáng

ngời lên giữa những cột trụ, vằng vặc soi trên mặt biển gi| băng. Mermoz

tiếp tục bay qua những đền đ{i hoang phế này, xuyên ngang, duỗi dọc,

chếch chếch hướng từ đường |nh s|ng n{y đến đường ánh sáng kia, vòng

quanh những cột trụ khổng lồ, nghe hải triều cuồng nộ dấy lên ì ầm không

dứt, anh bay suốt bốn giờ, dọc theo những lạch trăng lai l|ng, tìm hướng

thoát ra khỏi điện đ{i. Cảnh tượng ấy đồ sộ hùng vĩ đến nỗi Mermoz khi

thoát ra khỏi vùng Pot-au-Noir, mới chợt nhận thấy rằng, lúc còn lăn lóc

“cuộc chơi” mình quên cả sợ.

Tôi cũng nhớ lại một trong những giờ vượt biên thùy cõi thực: những

tin tức vô tuyến ở những trạm hàng không ven sa mạc Sahara, tối hôm ấy

hoàn toàn sai bét cả, và gây nhầm lẫn một cách thật trầm trọng cho tôi và

anh chuyên viên vô tuyến Néri. Cho đến lúc chợt nhìn thấy m{u nước biển

lấp loáng ở dưới kia, phía sau một hố sa mù, tôi vội bẻ lái quay về bờ đột

ngột, mà chẳng rõ mình đ~ đ}m đầu lạc nẻo ra biển khơi tự bao lâu.

Chúng tôi không còn dám chắc mình có thể vào kịp được bờ, rất có thể

dầu xăng sẽ thiếu. Mà vào cập đất liền, cũng còn phải tìm lại trạm hàng

không. Thật là bối rối. Mặt trăng lại tới giờ sắp lặn mất. Tin tức không có,

không nghe được gì, chúng tôi chịu điếc, bây giờ sắp phải chịu đui. Vừng

trăng tắt lịm hẳn, như một đốm lửa tàn chìm trong sa mù giống như một dãi

tuyết. Vòm trời, trên cao, tới lượt bị m}y đen v}y phủ, và từ đó chúng tôi

đ{nh phải bay giữa những đ|m m}y sa mù, trên dưới mông mông, trong

một cõi bờ mù mịt, không một ánh sáng, không một sắc hình…

Những trạm h{ng không, đ|p lại tiếng gọi của chúng tôi, chả chỉ dẫn

cho chúng tôi được chút gì cả: “Không thể tường kê phương hướng…” bởi vì

tiếng gọi của chúng tôi họ nghe từ khắp nơi tới, và chẳng biết thật chính tự

chỗ nào.

Bất thình lình, lúc chúng tôi tuyệt vô hi vọng, bỗng thấy ló ra một

chấm sáng ở chân trời, về phía tả. Một niềm vui tràn ngập, Néri nghiêng

mình xuống bên tôi, và tôi nghe anh hát. Nhất định đó l{ trạm nghỉ, nhất

định đó l{ |nh ngọn đèn pha, bởi vì b~i Sahara đêm tới thì tối mò mò, suốt

xứ nằm chết lịm, l{m gì có |nh s|ng. Nhưng |nh s|ng chỉ lấp lánh một tí, đ~ tắt ngay.

Hỡi ôi! Chúng tôi đ~ nhằm một vì sao mà bay tới. Một vì sao sắp lặn,

nên thấy hiện ở chân trời, hiện ra chỉ trong vài phút, giữa mây mờ, sương

bạc.

Rồi từ đó, chúng tôi cứ thấy lần lượt xuất hiện những đốm ánh sáng

khác, lại cứ xoay hướng nhằm theo, khắc khoải trong mơ hồ hy vọng. Thấy

đốm lửa s|ng hơi l}u, liền thử xem có thật chăng đó l{ lối sống. Néri gọi

trạm Cisneros: “Thấy lửa rồi; các bạn hãy tắt ngọn lửa pha đi v{ thắp lại ba

lần.”

Trạm Cisneros chớp ngọn lửa pha của họ ba lần, nhưng đốm ánh sáng

chúng tôi đuổi theo thì vẫn cứ lửng lơ, không nh|y; lại một vì sao, làm sao

lung lạc được.

Xăng đ~ cạn, nhưng mỗi lúc thấy chiếc mồi vàng, chúng tôi lại đuổi

theo m{ đớp; mỗi lần thấy đích thị là trạm nghỉ ch}n, l{ con đường sống, rồi

lại đ{nh đích thị bỏ rơi v{ đuổi theo một vì sao khác.

Từ đó chúng tôi cảm thấy lạc lõng chìm ngập trong khoảng rộng liên

h{nh tinh, chơi vơi giữa h{ng trăm tinh cầu xa hút, biền biệt đuổi theo riêng

một tinh cầu thiết thực, tinh cầu của riêng đời sống chúng tôi, chứa đựng

những phong cảnh đầm ấm quen thân, những căn nh{ bậu bạn, những

luyến ái dịu dàng.

Của riêng một tinh cầu chứa đựng… Tôi sẽ nói cùng các anh về cái

hình ảnh đ~ hiện ra trước mắt tôi, và có lẽ các anh sẽ xem là ngây dại.

Nhưng nằm giữa lòng hiểm họa, con người ta vẫn còn mãi những đòi hỏi,

những yêu sách của con người, và tôi thấy đói, v{ tôi thấy khát. Nếu tìm ra

được Cisneros chúng tôi sẽ hạ cánh xuống lấy thêm xăng, v{ tiếp tục lên

đường bay tới Casablanca, hạ cánh giữa cảnh bình minh mát mẻ. Tuy còn

sớm, nhiều qu|n rượu cũng đ~ mở cửa rồi… Néri v{ tôi sẽ ngồi vào bàn,

bình yên vui vẻ nhắc lại đêm qua m{ cười thỏa thuê, trước những chiếc

bánh nóng hổi và tách cà phê sữa thơm. Néri v{ tôi sẽ đón nhận tặng vật

bình minh kia của cuộc sống. Bà già nhà quê chỉ gặp đấng Chí Cao của mình

qua một hình ảnh vẽ, một chiếc mề đay, một tràng chuỗi hạt: chúng tôi cũng

vậy, muốn được chúng tôi hiểu ra, thì thiên hạ hãy nói lên bằng ngôn ngữ đơn giản. Đối với tôi, niềm vui sống dồn tụ hết vào trong miếng ăn đầu tiên

nọ, thơm tho nóng hổi, trong tách sữa pha cà phê bột mình do đó con người

ta mới cảm thong được với những vườn cỏ yên lành, với những đồn điền xa

lạ, với những ngày mùa nô nức, với mặt đất ưu tư… Giữa bao nhiêu tinh cầu,

chỉ có một tinh cầu cung cấp cho chúng tôi cái bát thức ăn thơm tho buổi

sáng.

Nhưng éo le thay những nghìn trùng nước thẳm đương chồng chất

giữa con tàu chúng tôi và miền đất th}n yêu đó. Tất cả của cải trần gian nằm

gọn trong hột bụi lạc loài giữa hằng hà sa số ngôi sao. V{ nh{ thiên văn học

Néri muốn tìm ra hột bụi đó, vẫn phải đ{nh van khấn mãi những vì sao.

Thình lình nắm tay anh chạm mạnh vào vai tôi. Trên tờ giấy anh trao,

tôi đọc: “Mọi sự tốt đẹp, tôi vừa nhận được một điện tín huy ho{ng…” Tim

đập mạnh, tôi chờ anh chép xong năm s|u chữ sắp cứu thoát chúng tôi. Rồi

tôi đón nhận tặng vật vô giá của nhà trời.

Từ Casablanca đ|nh tới, l{ nơi chúng tôi từ biệt đêm hôm qua. Vì tống

đạt chậm trễ, tới bây giờ bỗng đột ngột nó v{o tay chúng tôi, đi xa hai nghìn

cây số, giữa mây và mù, lạc lõng trên biển khơi. Điện tín đó do viên đại diện

chính phủ tại phi trường Casablanca đ|nh tới. Tôi đọc: “Thưa ông Saint-

Exupéry, tôi buộc lòng phải yêu cầu Ba Lê phạt ông, ông đ~ bay qu| s|t c|c

nhà chứa, lúc khởi hành tại Casablanca.” Quả thật tôi có bay quá sát các nhà

chứa. Quả thật nữa ấy l{ ông đại diện kia ph{n n{n cũng chỉ do trách nhiệm

nghề nghiệp. Nếu đứng tại phòng giấy một phi trường, ắt l{ tôi đã xấu hổ

nghe lời quở tr|ch đó. Nhưng nó lại tìm tới chúng tôi ở chính một nơi nó

không có quyền tìm tới.

Nó lên điệu sai bét, cả giọng cả lời, giữa những ngôi sao quá lẻ tẻ, giữa

sương mù giăng mắc, giữa những hương vị hãi hùng của biển khơi. Chúng

tôi nắm trong tay mình vận mệnh mình, vận mệnh chuyến thư v{ vận mệnh

con tàu; cầm tay l|i m{ tìm phương hướng sống, kể cũng đ~ khổ nhọc lắm

thay, thế mà kẻ kia còn đuổi theo trút hận! Nhưng chúng tôi không hề phát

cáu, trái lại, Néri và tôi lại còn khoái chí vui cười hể hả khôn xiết. Ở đ}y

chúng tôi là chúa tể, lời đe dọa kia vụt giúp chúng tôi kh|m ph| ra điều ấy.

Anh cai này há không biết rằng chúng tôi đ~ l{ đại úy hay sao? Anh ta phá

rối giấc mơ của chúng tôi, giữa lúc chúng tôi còn bận bách bộ từ sao Bắc đẩu

tới Nhân mã cung, giữa lúc cái việc duy nhất ngang tầm chúng tôi và xui chúng tôi bận bịu, là sự phản bội kia của vừng nguyệt…

Bổn phận cấp bách, bổn phận duy nhất của quả h{nh tinh nơi con

người kia phát lộ, ấy là làm thế nào cung cấp cho chúng tôi những con số

chính xác giúp chúng tôi tính toán với các vì sao. Thế mà những con số kia

lại sai bét cả. Ngoài việc ấy ra, tạm thời tr|i đất chỉ nên câm miệng. Và Néri

viết: “Đ~ lẽ họ tìm cách dẫn ta về hơn l{ l{m c|i trò khỉ ấy”. “Họ” đối với

Néri, tóm thâu mọi dân tộc địa cầu, với c|c thượng hạ nghị viện, với c|c đội

hải lục qu}n v{ ho{ng đế của họ. V{ đọc lại bức điện tín của một tên cuồng

muốn gây sự với chúng tôi, chúng tôi bẻ lái con tàu về phía sao Mercure.

Một ngẫu nhiên hết sức kỳ lạ bỗng cứu thoát chúng tôi: tới lúc không

còn chút hy vọng tìm ra trạm Casneros, buộc lòng phải bay đ}m ngang v{o

bờ biển, tôi đ{nh quyết định giữ m~i hướng đó m{ bay cho tới khi cạn hết

xăng. Như vậy họa chăng may ra có khỏi rơi chìm trong đ|y biển. Tai hại

thay, những ngọn đèn pha phỉnh phờ đ~ lôi tôi tới đ}u, có trời mà biết! Tai

hại thay, sa mù dằng dặc buộc chúng tôi dấn liền trong đêm tối căm căm,

chắc gì sẽ cho phép chúng tôi hạ c|nh vuông tròn nơi đất liền mà không tai

nạn! Nhưng đến nước này còn nói chi nữa chuyện chọn lựa hơn thua.

Cảnh huống đ~ qu| rõ rệt, tôi chỉ biết nhún vai lúc Néri chuyền cho tôi

xem một điện tín, một điện tín nếu đến sớm một giờ, ắt đ~ cứu thoát chúng

tôi: “Cisneros b}y giờ mới chịu cho biết vị trí chúng ta. Cisneros chỉ: khoảng

chừng hai trăm mười sáu khả nghi…” Cisneros không còn chìm trong tăm

tối heo hút. Cisneros đ~ hiện ra rõ r{ng, đích thực, ở phía tả của chúng tôi.

V}ng, nhưng c|ch bao xa? Hai đứa chúng tôi trao đổi nhau vài tiếng. Chậm

mất rồi. Cả hai cùng một ý: còn lo lắng tìm tới Cisneros, là còn làm trầm

trọng thêm mối nguy cơ không v{o kịp đất liền. V{ Néri đ|p: “Chỉ còn một

giờ xăng bay, phải theo hướng chin mươi bốn.”

Trong khi đó, c|c trạm hàng không lần lượt thức giấc. Trong đối thoại

giữa chúng tôi, giờ xen thêm những “giọng nói” của Agadir, của Casablanca,

của Dakar. Đ{i vô tuyến của các thành phố đ~ b|o tin cấp cứu cho các phi

trường. Những gi|m đốc c|c phi trường đ~ b|o tin cho anh em biết. Thế là

lần lượt họ xúm quanh chúng tôi như quanh giường người bệnh. Sốt sắng

vô ích rồi, dù sao cũng l{ sốt sắng. Ân cần khuyên bảo cũng ho{i thôi, nhưng

sao mà thân ái thế!

Bất thình lình Toulouse xen tới. Toulouse, đầu đường; Toulouse, khởi

điểm; Toulouse, cách bốn nghìn cây số heo hút ở cuối trời. Toulouse vụt

chen vào trong câu chuyện, không kèn không trống, hỏi ngay: “M|y của các

anh có phải là chiếc F… (tôi quên số hiệu) – Đúng thế. – Vậy c|c anh còn đủ

hai giờ xăng nữa. Bình chứa xăng n{y không phải là thứ thông thường. Bay

về Cisneros đi.”

Thế đó, những cần thiết do nghề nghiệp nêu ra, đ~ biến dạng cho cõi

đời chuyển hình, cho cuộc sống mỗi ng{y c{ng phong phú thêm. V{ đ|o

cùng, cũng chẳng cần chi tới những đêm bay đặc biệt như thế này mới mở

ra trước nhãn giới phi công đường trường một ý nghĩa t}n kỳ ở giữa lòng

những cảnh tượng cũ. C|i phong cảnh thông thường đều đặn, không thay

không đổi, vốn từng gây nhàm chán cho khách bộ h{nh, đối với đội phi công

cũng đ~ biến hình khác hẳn. Cái khối mây bàng bạc chắn ngang chân trời,

đối với phi công không còn là cảnh trí: nó sắp sửa liên can tới bắp thịt, khớp

xương người lái máy, nó sắp nêu lên cho phi công nhiều vấn đề cần giải đ|p.

Phi công phải lưu ý tới tự ban đầu, phi công phải ước độ, cân nhắc; một

ngôn ngữ riêng biệt đương kết buộc đôi bên. N{y đ}y mõm núi, tuy đó còn

xa: nó sắp mang khuôn mặt nào thế? Dưới trời trăng s|ng, nó l{ c|i mốc

định phương hướng thuận tiện. Nhưng nếu phi công phải bay trong đêm

tăm, giữa sa mù vây bọc, hướng sai đường mà khó chữa lại phương, m{

hoang mang không rõ được vị trí mình, thì mõm núi kia lại biến thành thuốc

nổ, suốt đêm d{i hăm dọa, như hệt một quả mìn nằm ng}m trong nước biển

trôi dạt bình bồng, biến biển khơi th{nh nguy cơ mọi nẻo.

Trùng khơi cũng thiên hình vạn trạng. Đối với hành khách ngồi im thu

hình trên ghế, thì bão tố thế nào, họ có thấy ra đ}u: từ trên cao chín tầng

nhìn xuống, sóng trùng trông phẳng phiu phớt phớt, lớp lớp mù sa bình yên

bất động. Thấy gì chăng nữa, là những đợt rộng m{u nước trắng phau phau

trải như những cánh quạt khổng lồ, với những đường g}n mơ hồ khía bọt,

như đông th{nh băng gi| thế thôi. Đối với đội phi công, mọi sự khác hẳn. Họ

nhận ra rằng những chốn đó l{ chỗ đất cấm ngăn, không bao giờ được hạ

cánh. Những tàn lá quạt kia không khác gì những cánh hoa chứa đầy nhựa

độc.

Cho dẫu h{nh trình sau trước vẫn bình yên, người phi công yên dặm

bay n{o đó, cũng không hề nhìn phong cảnh như ngắm cảnh tượng trước

nhãn quan. Những sắc màu trên mây, những sắc m{u dưới đất, những dấu vết gió dàn trên mặt biển, những bóng hoàng vân hoặc r|ng đỏ chiều hôm,

đ}u có phải để cho mình thưởng ngoạn, chính l{ để cho người suy tưởng, ưu

tư. Cũng như thể người nông d}n đi xem xét ruộng đồng, còn phải chú ý

đo|n xem thời tiết, coi chừng qua trăm nghìn tiên triệu, nhịp động của xuân

đi, xu}n đến, của băng gi| hăm dọa đương về, của mưa dầm đương tới, thì

phi công cũng vậy, cũng phải xem dò dấu hiệu m{ đo bước tuyết về, mù sa

sắp phủ, hoặc đêm sắp tới sẽ hạnh phúc hồng v{ng…

M|y móc ban sơ tưởng như chừng xui anh lìa xa những vấn đề thiên

nhiên lớn rộng, thật ra lại buộc người quy phục v{o đó một cách nghiêm

mật hơn. Một mình giữa tòa án mênh mông mở ra một cơn b~o dậy, người

phi công phải binh vực khối thư tín của mình trước lời kết tội của ba hung

thần sơ thủy: non ngàn, biển thẳm và bão giông.

II

BẠN ĐỒNG NGHIỆP

1

V{i người bạn anh em, có Mermoz trong đó, đ~ thiết lập con đường

Pháp từ Casablanca tới Dakar, xuyên qua Sahara chưa quy phục. Máy thời

đó không vững chắc, một lần máy hỏng, Mermoz lọt v{o tay người Maures;

họ do dự không giết anh, cầm tù anh mười lăm hôm, rồi cho chuộc tiền.

Mermoz thoát nạn, lại tiếp tục l|i m|y bay thư tín ngang qua những khu vực

cũ.

Khi con đường hàng không Mỹ mở ra, Mermoz luôn luôn tiên phong,

được giao phó việc nghiên cứu qu~ng đường từ Buenos-Aires tới Santiago,

v{ con đường vượt Sahara, anh còn phải thiết lập một đường bay ngang dãy

Andes. Người ta giao anh sử dụng một phi cơ chỉ bay tới độ cao năm ng{n

hai trăm thước. Nhưng những ngọn Codilère lại cao tới bảy ng{n thước. Và

cất cánh bay tìm những khoảng thấp khả dĩ cho phép phi cơ băng qua. Sau

những ngày dạn dày sinh tử với cát, giờ tới lượt Mermoz phải liều thân thi

gan với núi, với những mõm nhọn tung từng đợt tuyết trong gió bay, với

những bóng mờ cảnh vật trước lúc bão giông, với những cơn lốc cuốn cờ ác

liệt thổi cuồng giữa hai v|ch tường non gi|p trĩ, đụng độ một lần, là một lần

rút dao nhọn xáp lá cà thập tử nhất sinh. Mermoz hồn nhiên lao mình vào

những trận đấu ấy, chả cần biết chút gì về phía địch, chả cần ngẫm lại xem

con người còn có thể sống còn, sau cuộc siết, cơn ôm.

Mermoz chỉ biết thử dọn đường giùm kẻ khác.

Rồi một bận, vì mê mải dọn đường giùm, chàng bất chợt thấy mình

làm tên tù cho dãy Andes vây hãm.

Hạ cánh trên một vùng cao bốn nghìn thước, bốn mặt tứ vi l{ th{nh đ|

dựng, suốt hai ngày liền, anh v{ người thợ máy cố tìm lối tho|t th}n. Nhưng

vô hiệu. Mọi nẻo bí đường. Chỉ còn liều ván chót với rủi may chơi c|i nước

“nhứt chín nhì bù” với ngẫu nhĩ, thử lao phi cơ v{o khoảng trống, cứ cho nó

lăn trên mặt đất gồ ghề, lướt tới vực sâu mà lao bừa xuống. Trong cơn lông

lốc đó, phi cơ đạt tốc độ đủ để tu}n theo tay l|i điều khiển. Mermoz liền lật ngược hướng phi cơ lên đối diện với một mõm núi nhô, chạm v{o, lướt qua,

v{ bao nhiêu nước chảy ra đầy ứ các ống dẫn, phi cơ sau bảy phút bay đ~

trở lại làm nủng, nguy rồi, thì bỗng nhiên trước mắt Mermoz c|nh đồng

Chili dàn rộng dưới kia, man m|c như bờ cõi Thiên đường.

Qua ngày hôm sau, Mermoz lại xoay chiều trở lại, khởi sự lần nữa liều

lĩnh vẫy vùng.

Lúc d~y Andes đ~ ho{n to{n chịu khuất phục, khi những cồn cao, mô

thấp đ~ được lướt qua, điểm lại, kỹ thuật của chữ, của nghề, trong ngoài bảy

t|m, đ~ nắm vững tỏ tường, thì Mermoz liền đem giao lại qu~ng đường tròn

trịa trơn tru cho bạn Guillaumet, rồi lo tới việc khai phá lối đi những hoa

nguyệt n~o nùng trong c|ch điệu bay đêm.

Những trạm hàng không thuở ấy chưa tổ chức hoàn hảo c|ch đốt đèn

soi tỏ lối đi nẻo về cho lữ kh|ch đi đêm, v{ ở các phi cảng u u, lúc khách biên

đình Mermoz ghé lại, thường chỉ thấy lơ l|o v{i ngọn lửa xăng gầy guộc đón

người.

Tuy vậy, người vẫn chu toàn cho cuộc, và mở được con đường cho êm

dịu giao hoan.

Lúc bờ cõi bóng đêm đ~ ho{n to{n quy thuận, Mermoz lại giũ |o lên

đường ra biển gạ gẫm với trùng khơi. Nhờ đó m{ lần đầu tiên năm 1931,

thư tín đ~ dập dìu được chuyên chở trong bốn ngày, bay rộng cánh từ

Toulouse tới Buenos-Aires. Chuyến trở về lần nọ, Mermoz bị hết xăng giữa

Nam Đại T}y Dương, đ{nh hạ cánh trên dặm khơi dậy sóng. Một con tàu

thủy đến cứu anh, cứu bạn đồng đội, v{ thư tín vẹn toàn.

Thế đó, Mermoz đ~ lần lượt khai phá từ sa mạc, tới núi non, từ đêm

tăm tới biển lộng. Hơn một lần rơi trên c|t, trên non, trong bóng đêm v{

trên mặt biển. Và mỗi lúc thoát hiểm quay về, l{ m~i m~i để trở lại ra đi.

Sau mười hai năm nghề nghiệp ngang dọc, một lần nữa anh lại vượt

qua Nam Đại T}y Dương, rồi một tin điển vắn vủn đ|nh về, báo cho anh em

hay rằng anh bị hỏng máy ở tay phải, phía sau. Rồi thôi, chỉ còn lặng lẽ.

C|i tin nghe không có gì đ|ng ngại, nhưng sau mười phút im lặng, tất

cả c|c đ{i vô tuyến trên đường từ Paris tới Buenos-Aires cùng khởi sự

ngóng tìm, khắc khoải. Bởi vì nếu trong cuộc sống hằng ng{y, mười phút

chậm trễ chẳng có nghĩa mấy thì ở đ}y, đối với chiếc phi cơ thư tín, mười

phút trễ tràng mang một ý nghĩa trầm trọng vô song. Ở giữa lòng khoảng

thời gian lặng câm vắn vủn nọ, có khép tròn một biến cố, cho tới bây giờ

không ai rõ sự việc xảy ra sao. Dù không đ}u, dù thê thảm, biến cố kia cũng

đ~ xảy ra rồi. Đ~ đi v{o qu| v~ng. Định mệnh đ~ đưa lời phán quyết bất khả

vãn hồi: một bàn tay sắt đ~ buộc đội phi hành hạ cách xuống biển, hoặc

chẳng hề gì, hoặc chịu tan hoang. Nhưng bản án kia không tuyên bố ra cho

những kẻ chờ mong được biết.

Ai trong chúng ta chẳng từng rõ những hy vọng cứ mong manh dần,

cái lặng lẽ câm nín cứ trầm trọng từng phút từng gi}y, như một cơn bệnh

hãi hùng. Chúng ta hy vọng, nhưng giờ khắc trôi, và tới lúc thôi thế! Mọi sự

muộn cả rồi. Những bạn hữu đ~ đi, đ~ không về được nữa, đ~ đ{nh yên nghỉ

thiên thu trong lòng biển khơi một Nam Đại T}y Dương kia đ~ bao lần

ngẩng mặt nhìn ai trên trời cao vạch đường ngang lối dọc. Mermoz hẳn đ~

nằm giấu thân ở trong vòng sự nghiệp, giống như người thợ gặt kết bó xong

xuôi lượm lúa, ngả người nằm xuống ngủ giữa đồng.

Mỗi lần một bạn hữu tử nạn theo lối đó, c|i chết của anh thoạt xem ra

cũng chỉ là một chuyện thường tình, trong vòng nghề nghiệp; và thoạt tiên,

có lẽ không xui lòng ta khó chịu bằng một cái lối chết khác. Vâng, anh bạn đ~

ra đi, xa dời mất tích, anh đ~ chịu đón nhận sự biến thể cuối cùng của trạm

nghỉ nghịch lữ nh}n gian; nhưng sự hiện diện của anh từ đ}y vắng thiếu,

dẫu sao cũng chưa l{m ta n~o lòng trong s}u thẳm tâm linh bằng sự thiết

thân thiếu cơm thiếu áo. Có lẽ… v}ng…

Vì chúng ta vốn sống trong thói quen chờ mong lâu ngày những tao

ngộ. Nhưng vì những bạn hữu dặm dài, ở rải rác khắp nơi, từ Paris tới

Santiago xứ Chili, biệt lập nhau có phần như những người lính canh không

cùng nhau hỏi chuyện. Cần trận ngẫu nhĩ những cuộc viễn du, mới bất ngờ

tụ họp đ}u đó những phần tử rải rác của đại gia đình nghề nghiệp. Quanh

chiếc b{n ăn một chiều tối, tại Casablanca, tại Dakar, tại Buenos-Aires, hằng

hằng những năm tròn im lặng, người ta khơi trở dậy những câu chuyện bỏ

dở ng{y xưa, người ta thắt trở lại những mối dây ràng buộc mình vào trong

những kỷ niệm. Rồi lại ra đi. Mặt đất tròn té ra kể ra cũng l{ vừa hoang tiêu vừa phong phú. Phong phú vì những khu vườn ẩn kín, giấu thân, khó lui vào

mà viếng, mà vẫn luôn luôn nằm đợi đó chờ lúc nghề nghiệp sẽ luôn luôn

còn cơ hội dắt dẫn ta về, một chiều xuân dâng, một thu hồng tạ. Các bạn

hữu, xa ta vì đời xô đẩy, xa ta vì cuộc sống không cho phép ta nghĩ tới họ

nhiều, nhưng họ vẫn còn ở tại một nơi n{o đó chẳng biết, lặng lẽ và bị lãng

quên, nhưng xiết bao trung thành chung thủy! Và nếu trên đường đi chợt

gặp, họ còn nắm lấy vai ta lắc mạnh, vồ vập vui mừng! Vâng, vâng, quả thế,

chúng ta quen mong đợi chầy ng{y…

Nhưng dần dà chợt thấy rằng cái tiếng cười trong trẻo của kẻ kia

không bao giờ ta nghe trở lại nữa, ta chợt thấy rằng khu vườn êm dịu nọ sẽ

muôn đời l{ vườn cấm với ta. Tới lúc bấy giờ, mối đau lòng mới trỗi dậy

niềm tang tóc thật sự mới khởi đầu. Không da diết, đoạn trường, nhưng pha

mùi chát chát.

Thật vậy, không có gì thay thế nổi người bạn đường đ~ bỏ đi. Người ta

không tự tạo được cho mình những bạn già thân ái. Không có gì sánh kịp cái

kho tàng những kỉ niệm chia nhau, những ngày giờ cùng chung hoạn nạn,

những cằn nhằn gây gổ, những thành thật giải hòa, những chân tình ở trong

nhịp tim máu. Mất đi, l{m sao tạo ra trở lại. Trồng một cây sồi, cây phong,

cây bồ đề, và mong sắp được nằm mơ dưới bóng l| nay mai, đó l{ ảo mộng.

Đời vốn đi như thế. Ban đầu vào cuộc sống, chúng ta giàu, giàu nhiều,

giàu nữa; trong bao năm, chúng ta trồng cây, tỉa hột, nhưng ng{y th|ng trôi,

năm sầu lại: thời gian phá vỡ mất công trình; cây rừng bị chặt; bạn hữu

từng người rơi rụng mất. Bóng tùng quân nghìn tầm xiêu đổ, c|i con người

trơ trụi sẽ còn nghe rõ trong hoang lieu mối ngậm ngùi xuân xanh xa mất.

Đó l{ b{i học của Mermoz và những bạn kh|c đ~ dạy tôi. Sự cao quý

của một nghề có lẽ trước tiên là: kết hợp con người lại; chỉ một điều hòa

hoa quý trọng, ấy là tình bạn trong giao tế trần gian.

Nếu làm việc chỉ nhằm riêng những mục đích vật chất, chúng ta sẽ tự

xây tù ngục cho mình. Chúng ta khép mình cô đơn trong đó, với những đống

tiền, đống bạc tàn lụi như tro than, chẳng thể nào mang lại chút sinh thú nào

có nghĩa cho sự sống.

Nếu tôi tìm lại trong kỷ niệm mình những hình ảnh nào ghi tạc sâu xa,

nếu tôi dò tính lại những ngày giờ n{o đ|ng kể, thì chắc chắn rằng tôi sẽ tìm

thấy được những gì không một thứ tiền của nào tạo nổi. Người ta không thể

mua được những tình bạn Mermoz, của một bạn đường mà riêng những giờ

kham khổ sống chung đ~ gắn chặt họ v{o đời ta mãi mãi.

C|i đêm bay ng{y nọ, với những tinh tú trên trời, cái niềm thanh thản

trong vương quyền chúa tể bát ngát vài giờ, l{m sao đem bạc tiền mà mua

cho được.

Cái hình sắc tân kỳ của cõi sống hiện ra sau dặm đường trắc trở,

những cây cối kia, những hoa lá nọ, những thân hình phụ nữ với những nụ

cười tươi m|t nồng thắm yêu đời, cái cuộc đời vừa được trao lại chúng tôi

v{o lúc sương hồng mai sớm, bản hòa âm dìu dặt của hằng hằng sự vật nhỏ

nhoi đương trao chúng tôi một phần thưởng, một tặng vật vô song, bạc tiền

không mua được.

V{ không mua được c|i đêm sống giữa những người không đề huề

giao hảo tôi còn nhớ lại bữa nay.

Chúng tôi gồm ba đội phi cơ của hãng Aéropostale chịu bí lối tại bờ

Rio de Oro, lúc trời sắp tối. Anh bạn Riguelle hạ c|nh trước hết, vì gãy trục;

một bạn kh|c, Bourgat, bay đến để đón phi đội Riguelle về, nhưng m|y anh

cũng bị hỏng luôn. Tuy hỏng nhẹ, nhưng cũng đủ gắn chặt anh tại mặt đất.

Tôi đến sau cùng nhưng vừa hạ cánh, thì trời vừa tối. Chúng tôi quyết định

phải cứu phi cơ anh Bourgat, v{ muốn nên việc, phải đ{nh chờ mai sáng.

Một năm trước, hai bạn Gourp và Erable hỏng máy tại đ}y, bị bọn

người phiến loạn giết chết. Chúng tôi biết rằng ngày nay bọn phiến loạn tụ

tập được ba trăm tay súng đang đóng trại gần xa đ}y đó tại Bojador. Ba lần

hạ cánh xuống đ}y, tất từ xa chúng tôi đ~ bị họ trông thấy, và có lẽ đêm nay

l{ đêm cuối cùng chúng tôi thức cũng nên.

Chúng tôi sắp đặt cẩn thận để qua đêm. Chúng tôi mang năm, s|u

thùng chứa hàng xuống, trút bỏ hàng ra rồi xếp các thùng trống thành vòng

tròn, và trong mỗi đ|y thùng, chúng tôi thắp một ngọn nến nhỏ, giống như

thắp ở đ|y chòi lính canh. Gió thổi qua vẫn làm cho lay lắt. Giữa lòng sa mạc,

trên lớp vỏ trơ trụi của địa cầu, chúng tôi đ~ thiết lập một khu làng, giữa sự cô tịch giống thuở sơ khai vắng vẻ.

Tụ họp nghỉ qua đêm nơi địa điểm lớn rộng khu làng nọ, nơi d~i đất

cát với những ánh lửa nến leo lét, chúng tôi chờ đợi. Chúng tôi chờ đợi.

Chúng tôi chờ đợi, chờ đợi bình minh, hoặc chờ đợi người Maures đến. Tôi

không hiểu vì đ}u c|i đêm đó lại phảng phất hương vị một đêm Noel. Chúng

tôi kể cho nhau nghe những kỷ niệm, chúng tôi nô đùa, chúng tôi ca h|t.

Chúng tôi đ~ hưởng được chính c|i mùi hương ôn nhiệt thiêng liêng

nhè nhẹ phảng phất giữa lòng một buổi lễ phong phú vui tươi. Ấy thế,

nhưng thật ra chúng tôi nghèo vô hạn. N{o có gì đ}u. Gió, c|t v{ sao trên

trời. Đúng l{ thể điệu khắc khổ của kẻ tu h{nh. Nhưng trên thảm cát ánh

sáng lờ mờ kia, sáu bảy người với những bàn tay trắng, đ~ chia nhau không

biết bao nhiêu của quý vô hình.

V}ng, chúng tôi đ~ gặp trở lại nhau rồi. Trong bao l}u, người ta bước

đi s|t c|nh nhau, nhưng mỗi người im lìm mỗi cõi, có nói cũng chỉ nói

những tiếng vu vơ. Nhưng giờ đ}y, hiểm họa đến. Vai kề vai chung gánh. Ta

chợt thấy mình cùng nhau ở chung một đo{n thể. Hồn mở rộng do khám

phá những hồn kh|c bên mình. Nhìn nhau môi cười rộng r~i. Như tên tù nọ

được giải phóng đương ng}y ngất nhìn mặt biển bao la.

2

Guillaumet, tôi xin nói đôi lời về anh, nhưng sẽ không làm phiền anh

mà vụng về nhắc mãi tới lòng can trường hoặc t{i năng nghề nghiệp của

anh. Tôi sẽ nói tới những gì khác kia, khi kể lại cuộc phiêu liêu đẹp nhất của

anh.

Có một đức tính không tên. Gọi l{ tính “trang trọng”, có lẽ cũng được,

nhưng chưa đủ. Vì đức tính này còn có thể đi đôi với sự tươi cười hồn nhiên

vui hứng nữa. Chính đó cũng l{ đức tính của anh thợ l{m sườn nhà, lúc anh

ngồi trước mảnh gỗ như ngồi trước một người bạn đồng đẳng, ngang vai,

rồi anh sờ mó, nắn nót, ước độ chiều dọc chiều ngang, anh không đối xử nó

theo lối khinh bạc, anh thu hết khả năng, t{i sức của mình ra sử dụng.

Guillaumet ạ, trước đ}y tôi có đọc một câu chuyện người ta kể về anh

để ca tụng chuyện phiêu lưu mạo hiểm của anh, và tôi thấy cần phải đính chính lại cái hình ảnh lệch lạc về anh đó. Trong c}u chuyện ấy, người ta thấy

anh bướng bỉnh tung nhiều c}u nói có điệu “ba gai”, tuồng như người ta

tưởng lòng can trường là phải biết hạ mình chế giễu nhau theo lối nhạo

báng của học sinh nghịch ngợm. Người ta không hiểu anh, Guillaumet ạ.

Nhạo báng những địch thủ của anh, trước khi đương đầu với họ, đó l{ điều

anh thấy không cần thiết gì hết. Đối diện một cơn giông b~o, anh nhận xét:

“Đ}y l{ một cơn giông b~o”. Anh chấp thuận nó, anh ước độ lực lượng của

nó.

Tôi xin đưa ra đ}y những kỷ niệm của mình để làm chứng cho anh.

Suốt năm mươi giờ đồng hồ, anh biệt tích, trong một mùa đông, nh}n

một chuyến bay qua dãy núi Andes. Từ Patagonie về, tôi vội vã theo phi

công Deley đi Mendoza. Suốt năm ng{y liền, hai chúng tôi bay sục sạo khắp

vùng núi non trùng điệp, mà chẳng tìm thấy gì cả. Hai chiếc phi cơ không

thể đủ được. Chúng tôi tưởng rằng một trăm đội phi cơ, bay suốt một trăm

năm, vị tất đ~ bay hết các ngõ ngách mà sưu tầm đầy đủ trong các dãy núi

khổng lồ này, với những ngọn cao tới bảy nghìn thước. Chúng tôi mất hết hy

vọng. Bọn cướp buôn lậu tại vùng này, gan lì dữ tợn là thế, chỉ đưa cho năm

quan tiền là khiến chúng giết người như ngóe, thế m{ chúng đ~ từ nan

không chịu mạo hiểm l{m đo{n cứu trợ, dấn thân vào những triền núi

chênh vênh này. Chúng bảo: “Chúng tôi sẽ mất mạng. D~y Andes mùa đông

không thả một ai về.” Lúc Deley v{ tôi hạ cánh tại Santiago, c|c sĩ quan

người Chili cũng khuyên chúng tôi nên đình chỉ việc tìm kiếm. “B}y giờ là

mùa đông. Người bạn của các anh rớt xuống núi cho dẫu có may mắn khỏi

giập th}n, cũng không t{i n{o chống nổi với cái lạnh ban đêm. Ở trên đó, c|i

lạnh ban đêm vừa chạm v{o người, lập tức biến th}n người th{nh băng đ|.”

Và khi tôi cất cánh bay lần nữa, xuyên qua các bờ tường dựng đứng và

những cột trụ khổng lồ trong dãy Andes, thì tôi có cảm tưởng như chừng

mình không còn đi tìm kiếm anh nữa, m{ đương lặng lẽ canh giữ, chăm sóc

tấm th}n anh đương nằm đ}u đó trong một ngôi nhà thờ tuyết băng.

Sau cùng, qua ngày thứ Bảy, trong lúc tôi dùng bữa giữa hai chuyến

bay nơi một qu|n ăn tại Mendoza, bỗng có người đẩy cửa kêu. Ồ! Chỉ vài

tiếng thôi:

- Guillaumet… còn sống!

Và tất cả những người lạ mặt ngồi tại đó cũng mừng rỡ ôm nhau hôn.

Mười phút sau, tôi cất cánh, chở theo hai anh thợ máy, Lefebvre và

Abri. Bốn mươi phút sau, tôi hạ cánh dọc theo một qu~ng đường vì nhận ra,

chẳng rõ vì sao lại nhận ra, cái chiếc xe đương chở anh đi chẳng rõ đi đ}u,

nhưng hướng về phía San Raphael. Một sự tao ngộ kỳ diệu lạ lùng, chúng tôi

cùng khóc, chúng tôi ôm giập anh trong tay mình, anh còn sống đó, anh

được tái sinh, anh tự mình ban cho mình phép lạ. Chính sau đó, anh nói một

c}u, c}u đầu tiên có đầu đuôi sau những cơn mê man bất tỉnh, một câu biểu

diễn một tinh thần con người bất khuất: “C|i điều tôi đ~ l{m, tôi xin thề với

các anh, không bao giờ một con vật n{o đ~ l{m cả.”

[2]

Về sau, anh kể lại tai nạn cho chúng tôi nghe.

Một trận bão trút xuống, suốt bốn mươi t|m tiếng đồng hồ, một lớp

tuyết d{y năm thước trên triền núi Andes ngó qua địa phận Chili, lớp tuyết

lấp kín khung trời, những người Mỹ hãng Pan-Air đ~ quay về hết. Nhưng

anh thì vẫn cất cánh bay tìm một kẽ hở trên không. Xế về phía Nam, anh tìm

ra nó, cái cạm bẫy kia, và lờ lững bay trên từng cao s|u nghìn năm trăm

thước, anh cưỡi trên mây mù chỉ cao s|u nghìn thước v{ để ló ra riêng

những chóp núi thật cao, anh bay, hướng về chân trời Argentine.

Những luồng không khí thổi xuống thường gây cho phi công một cảm

giác khó chịu dị thường. Máy vẫn quay đều, nhưng phi cơ bị dìm xuống mãi.

Ta cố gượng hướng tàu trở lên để giữ vững độ cao, phi cơ mất tốc lực, yếu

đi dần dần: ta cứ bị nhận chìm xuống m~i. Ta đ{nh phải lơi tay, ngại rằng

khi n~y đ~ hướng mũi lên qu| trớn, bây giờ ta lại phải thả lỏng cho xê xích

qua tả, qua hữu, nép vào bên những đỉnh núi thuận tiện, nương v{o những

sườn non nào vừa cản gió vừa đưa đ{, nhưng ta vẫn tuần tự bị dìm xuống.

Nghe chừng như cả cõi trời cùng đề hều hạ thấp xuống một phen. Ta cảm

thấy như mình bị mắc nghẹn trong một tai nạn càn khôn. Hết đường trớ

tránh. Ta luống cuống cố gắng quay trở lui, mong tìm gặp những khu vực

nào ở phía sau mà không khí sẽ nâng mình lên vững chắc v{ tròn đầy như

một cột trụ. Nhưng còn cột trụ n{o đ}u. Mọi vật rã tan, cả đất trời cùng rủ

nhau băng hoại, v{ ta lướt qua giữa tàn phế, hướng về một l{n m}y đương

nhu thuận dâng lên, mềm mỏng lại bên mình và yểu điệu quyện lấy thân ta

vào ở giữa.

Anh bảo: “Tôi suýt chịu bó tay, đ{nh buông mình cho nó h~m, nhưng

còn chút cứng đầu chưa chịu tin thuận đ}u. Ta gặp những luồng khí trút

xuống ở phía trên những đ|m m}y xem có bề bất động, ấy chỉ vì cùng một

độ cao như nhau, chúng ôm lấy nhau tụ lại nghỉ yên triền miên bất tận. Mọi

sự sao mà kỳ dị thế ở những vùng non cao.”

Ôi những đ|m m}y! Sao m{ bướng bỉnh!

“Vừa mắc nghẽn trong đó, tôi liền thả lơi tay l|i, bấu chặt vào ghế để

khỏi bị bắn tung ra ngo{i. Phi cơ rít lên, lắc mạnh, dày vò thân tôi, những sợi

nịt da gặm vào thịt vai, v{ suýt đứt. Sương gi| đổ tràn bụi trắng, tôi mất hết

mọi khả năng điều khiển, quay tròn như chiếc nón chơi vơi, xoay tít từ cao

sáu nghìn xuống ba nghìn thước rưỡi.

Xuống tới ba nghìn thước rưỡi, tôi chợt thấy một khối đen bằng

phẳng, giúp tôi lấy lại thăng bằng cho phi cơ. Đó l{ một mặt hồ, tôi kịp nhận

ra: hồ Laguna Diamante. Tôi từng biết hồ kia nằm khoanh trong đ|y hố, đ|y

hang một thung lũng phiêu bồng, mà một phía sườn lại nép bên ngọn hỏa

sơn Maipu cao s|u nghìn chín trăm thước. Tuy thoát khỏi đ|m m}y, tôi vẫn

còn choáng váng quáng lòa vì những cơn lốc tuyết d{y đặc, và không thể rời

mặt hồ thân ái mà khỏi đ}u đầu vào một trong c|c sườn núi bọc quanh

hang. Tôi đ{nh bay vòng quanh hồ, ở độ cao ba chục thước, cho tới lúc kiệt

xăng. Sau hai giờ loanh quanh lăn lóc, tôi hạ c|nh đậu lại, và phi cơ lật úp.

Tôi thoát ra khỏi tàu thì bão tố đ|nh tôi ng~ ngữa. Tôi lồm cồm gượng dậy

trên hai chân, thì bão tố đ|nh tôi nh{o sấp.

Không còn cách gì nữa, tôi đ{nh lui cui chui v{o dưới sườn tàu, và moi

một lỗ hổng trong màu tuyết lạnh để trú thân. Tuyết ơi, hãy ôm thân ta cho

ấm nhé. Rồi tôi cuộn quanh mình những bao chứa thư tín, v{ suốt bốn mươi

tiếng đồng hồ tôi nằm đó chờ đợi, nghe mùi tuyết bốc hơi.

Sau đó, b~o im, gió lặng, tôi bắt đầu bước. Bước đi năm ng{y bốn

đêm…”

Nhưng còn chi l{ tấm thân anh nữa! Guillaumet? Anh trở về gặp lại

chúng tôi, nhưng hình h{i g{y đét như vôi khô, teo th}n như một bà lão.

Ngay chiều hôm đó, tôi đưa anh lên phi cơ chở anh về lại Mendoza, những

chăn nệm trắng tinh phủ ngập th}n anh như ôm ấp. Nhưng không l{m sao cho anh lành lại được. Anh lóng cóng trong tấm hình hài mệt mỏi, trằn qua

trở lại mãi vẫn không giúp nó ngủ yên. Tấm th}n anh không quên được đ|

và tuyết. Chúng đ~ ghi tạc dấu vết nơi th}n anh rồi. Tôi nhìn khuôn mặt anh

đen sạm, sưng vù giống như một trái ủng bị bóp bầm dập. Anh xấu quá, và

khốn khổ vô chừng, anh mất những khí cụ huy ho{ng để làm việc, anh sử

dụng chúng thế nào: hai bàn tay cứng đờ, và lúc muốn hô hấp anh ngồi dậy

bên giường, thì hai b{n ch}n cóng đờ thõng xuống như hai khối thịt thừa.

Cuộc hành trình của anh, vẫn chưa kết liễu, anh còn hổn hển hồi hộp thở, và

mỗi khi anh trở đầu trên gối để tìm nguôi lãng, thì một chuỗi dài hình ảnh

liên tiếp tới, anh không ngăn được, những hình ảnh rập rình bí mật đ}u đó,

bỗng ùa vào ngập cả đầu óc anh. Diễn ra, diễn ra mãi. Anh phải đấu đi, chọi

lại mãi hàng mấy chục lần với những quân thù cứ chết đi, sống lại.

Tôi đổ thuốc cho anh:

- Gắng uống đi, bạn!

- Điều khiến tôi ngạc nhiên nhất nhất… anh biết…

Võ sĩ thắng cuộc, nhưng bị những đòn qu| nặng, anh sống trở lại cuộc

phiêu lưu kỳ dị của mình. Anh cởi gỡ ra từng đoạn một. Và trong câu chuyện

đêm d{i bữa nọ, tôi đ~ nhìn thấy anh lầm lũi bước đi, không gậy chống,

không d}y r{ng, không lương thực, lần mò theo mãi những truông đèo, dốc

dựng, năm nghìn thước rưỡi cao, hoặc dò dẫm vòng theo những th{nh đ|

đứng sững, ch}n anh rướm m|u, đầu gối rã, tay trầy, trong cơn lạnh bốn

mươi độ đêm khuya. Dần dần máu hao, sức kiệt, hồn mòn, anh bước đi,

nhẫn nại, kiên gan như con kiến, quay giật lùi tìm lối kh|c để bọc quanh

những trở ngại gồ ghề, té xuống, đứng lên, leo trở lại, cố vượt qua những

dốc ác hại đưa tới hố sâu, không chịu ban cho mình một phút nghỉ ngơi, vì

anh biết rõ: nằm một lần xuống bên tuyết, l{ vĩnh viễn không còn dịp đứng

lên.

Mỗi lần trượt dốc, anh phải vội v~ đứng lên để khỏi biến thân thành

đ|. C|i lạnh dị thường cứ mỗi phút giây làm anh cóng lại, v{ lúc trượt chân

té, nếu chần chờ thở một chút cho cam, thì sau đó, hỡi ôi! còn muốn đứng

lên, thì thịt xương đ~ chết cứng.

Anh chống lại mọi cám dỗ. Anh bảo: nằm ở trong lòng tuyết, con người

ta mất tuốt hết linh tính tự vệ. Đi suốt hai, ba, bốn ng{y đường, con người

chỉ còn có cầu mong giấc ngủ. Tôi cũng ước mong được ngủ. Nhưng tự nghĩ:

vợ tôi, nếu tin là tôi còn sống, ắt tin l{ tôi đương đi. Bạn hữu tôi, cũng tin

rằng tôi đương đi. Mọi người cùng tin cậy nơi tôi. Tôi l{ một thằng tồi nếu

tôi dừng bước lại.”

V{ anh bước đi, v{ anh lấy mũi dao con rạch da giày, mỗi ngày rạch

thêm chút nữa, nhân vì hai bàn chân anh cóng giá phồng ra, cần rạch giày

cho nới ra, bàn chân mới nằm yên trong đó được.

Anh kể cho tôi nghe tâm sự kỳ lạ này:

“Tới ngày thứ hai, anh thấy chứ, cái công việc lớn nhất phải làm, ấy là

ngăn không cho mình suy nghĩ. Tôi đau đớn quá, và tình cảnh qu| }m u. Để

còn đủ can đảm bước đi, tôi không được nhìn vào tình cảnh nữa. Khốn thay,

khó mà kiểm soát khối óc mình, nó làm việc như c|i b|nh xe quay. Nhưng

tôi cũng có thể chọn cho nó một vài hình ảnh. Tôi xô óc mình vào một cuộc

phim, bắt nó suy ngẫm về một cuốn sách. Và phim với sách cứ vùn vụt sổ

tung ra. Chẳng mấy chốc mà hết trụi, tôi lại rơi trở vào tình trạng trước mắt.

Không còn c|ch gì kh|c được. Lại lao đầu vào những kỷ niệm kh|c…”

Tuy nhiên, có một lần, trượt chân anh té nằm quay trên tuyết, úp thân

vào dán chặt đó, anh bỏ cuộc, không muốn đứng lên. Anh như người võ sĩ,

kiệt tận linh hồn vì một cú đấm, rời rã hết thiết tha, nằm nghe từng tiếng

đếm, từng gi}y rơi trong một thế giới nào xa lạ, cho tới tiếng mười là tiếng

chung cục, hết phân bua.

“Tôi đ~ l{m những gì tôi có thể l{m được, mà lòng tôi không còn hy

vọng nữa, vì lẽ gì còn nằng nặc kéo dài cuộc khổ hình cho thêm tội, l{m chi?”

Anh chỉ cần khép hai mắt lại, là hòa giải yên vui hết với đời. Là xóa hết giữa

đời, những đ| nhọn, tuyết băng. Chớm khép xong hai làn mi huyền diệu,

diễm ảo về rồi: hết b~o giông đ|nh ng~, hết trượt chân té xuống, hết da thịt

nát nhừ, hết nghiệp chướng tiền oan trong tấm thân mang lê lết khối đời

quá nặng, th}n bước như con bò, m{ khối nặng hơn xe. Thôi rồi, cái lạnh hãi

hùng là thuốc độc, anh đ~ nhấm phải rồi, và bây giờ lòng phơi phới nghe ma

túy ngấm v{o xương. Cuộc sống của anh dồn quanh quả tim m|u đập. Một

thứ gì êm dịu quý giá vô ngần đương thu mình nép ở trung t}m cơ thể. Tâm thức anh bắt đầu lìa bỏ dần dần những miền xa xôi quá ở trong thân, trong

tấm hình hài hỗn mang là thú vật, chở tr{n đầy oan khổ ngập vai, giờ đ}y đ~

bước vào cõi vô minh hững hờ của Vân thạch.

Những hoang mang thắc mắc cũng dịu rồi. Tiếng gọi của chúng tôi,

anh không còn nghe nữa, đúng hơn, anh nghe vọng về như tiếng gọi chiêm

bao. Trong nhịp bước chiêm bao, anh h{i lòng đ|p lại, h}n hoan bước rộng

theo về, nhìn trước mặt mình rạng rỡ những lạc thú phơi xanh. Êm |i l{m

sao! Anh lướt đi trong cõi đó; miền xứ mộng, với thân mình, dìu dặt chuyển

như ru! Guillaumet, anh nhất quyết rồi, không bằng lòng nghe chúng tôi kêu

gọi nữa. Anh keo kiết, anh khước từ, không trở về họp mặt nữa với anh em.

Nhưng }n hận về từ đ|y thẳm t}m tư. Trong cơn mơ, bỗng dưng anh

thốt những lời, nêu nhiều chi tiết tỉ mỉ: “Tôi đ~ nghĩ tới vợ tôi. Tiền bảo

hiểm của tôi, chắc sẽ giúp em khỏi đói khổ. Chắc vậy, nhưng… nhưng việc

bảo hiểm…”

Trường hợp một phi công mất tích luật pháp chỉ xem anh chết thật sự,

là bốn năm sau. Chi tiết đó đập mạnh vào trí anh, xóa tan mọi hình ảnh khác.

Anh nằm duỗi dài úp sấp trên một sườn dốc tuyết. Mùa hè tới, thân anh sẽ

theo bùn cuốn trôi đi, vùi s}u dưới một u cốc nào trong dãy núi. Anh biết

thế. Nhưng anh cũng biết rằng ở phía trước anh chừng năm mươi thước, có

một mõm đ| nhô lên: “Tôi nghĩ, nếu mình gắng đứng lên, chắc sẽ bò tới

được mõm đ| ấy. Nếu mình kê x|c mình v{o mõm đ| thì mùa hè tới, người

ta sẽ tìm ra được x|c mình ngay.”

Đứng lên rồi, anh bước đi, đi trong hai đêm, hai ng{y.

Nhưng anh không nghĩ l{ mình sẽ đi được xa.

“Nhiều dấu hiệu cho tôi biết sắp tận số rồi. Đ}y là một. Anh biết, cứ hai

giờ một lượt, tôi phải dừng ch}n để xẻ da giày cho nới rộng ra, để lấy tuyết

xoa bóp hai b{n ch}n sưng vù, hoặc để cho trái tim nghỉ ngơi một chút.

Nhưng đến những ngày chót, tôi mất hẳn trí nhớ. Tôi đứng lên đi trở lại,

cũng kh| l}u rồi, bỗng chợt nhớ: mỗi một lần, mình đ~ bỏ quên lại một vật

gì. Lần thứ nhất, bỏ quên chiếc găng tay, đó không phải là chuyện chơi được

giữa cái giá lạnh n{y. Tôi đ~ th|o ra, đặt ở trước mặt mình, v{ đứng lên đi

mà quên không nhặt. Rồi tới lượt c|i đồng hồ. Rồi con dao. Rồi c|i địa bàn. Mỗi lần nghỉ chân, mỗi lần mất m|t…

“C|i gì cứu thoát, chỉ còn l{ bước ch}n đi. Thêm một bước. Luôn luôn

vẫn là một bước, một bước, bước, bước trở lại ho{i ho{i…”

“Điều tôi đ~ l{m, tôi thề với anh, không bao giờ một con vật làm thế.”

Câu nói cao cả nhất tôi được nghe trong đời mình, c}u nói ph}n định vị trí

con người, thiết lập danh dự con người, xếp đặt lại những trật tự tôn ti

chính thực, c}u nói đó, lại trở về trong ký ức tôi. Anh đ~ ngủ yên, tâm linh

đ~ bay bổng, tâm trí vùi lấp, nhưng từ mảnh hình hài rời rạc, tan rã, cháy

ran kia, tâm linh sắp về trở lại mỗi lần anh thức giấc, và lại chế ngự tấm

thân. Vậy thì, tấm thân chỉ là một dụng cụ tốt, tấm thân chỉ là một tên giúp

việc mà thôi. Và niềm kiêu hãnh của người sử dụng khí cụ tốt, anh cũng biết

diễn tả đ{ng ho{ng, Guillaumet ạ.

“Thiếu lương thực, anh biết đó, ng{y thứ ba… tim m|u tôi chẳng thể

còn đập mạnh nữa… V{ đ}y! Dọc theo một bờ dốc đứng, tôi bu bám leo

quanh, chới với giữa khoảng không nhìn xuống hố thẳm, moi từng lỗ hổng

trong đất để đặt nắm tay vào, thì bỗng nghe như tim mình tan r~. Nó ngần

ngừ như sắp ngất, nó đập thêm. Nó đập ngẩn ngơ loạn nhịp. Tôi cảm thấy

rằng nếu nó dùng dằng thêm tí nữa, một giây nữa thôi là tôi buông tay bỏ

cuộc. Tôi không nhúc nhích nữa, tôi lắng nghe nhịp thở trong mình. Chưa

bao giờ, anh biết đó, chưa bao giờ trên phi cơ tôi từng đ~ cảm thấy mình kết

chặt v{o động cơ nhiều như lần nọ tôi cảm thấy mình gắn chặt vào trái tim

mình, trong vài phút, mật thiết vô song. Tôi bảo trái tim tôi: Nào! Hãy gắng

lên chút nữa. Gắng đập nữa đi… A! Quả là một trái tim làm bằng chất tốt! Nó

do dự đôi chút, rồi đập trở lại như thường… Anh biết không, tôi tự hào vì

trái tim tôi nhiều lắm!”

Trong căn phòng tại Mendoza bữa đó, tôi chăm sóc anh, cuối cùng anh

ngủ một giấc mê man hổn hển. Tôi nghĩ thầm: nếu có người nói anh can

đảm, thì anh sẽ nhún vai. V{ người ta vẫn cứ phụ anh hoài, nếu người ta ca

ngợi anh khiêm tốn. Anh đứng xa vời biên kia, biệt lập hẳn c|i đức tính từ

tốn tầm thường nọ! Và nếu anh nhún vai, ấy chỉ vì anh mang niềm phóng

khoáng của con người thấu hiểu lẽ đời trên mặt đất thị phi. Anh biết rằng

một khi sa vào vòng biến cố, con người bỗng nhiên hết sợ h~i. Con người chỉ

kinh ho{ng trước cái lạ lùng khôn dò. Nhưng một phen chạm mặt nó rồi, nó

không còn là lạ lùng bất trắc nữa. Nhất là khi dò xét nó với sự trầm trọng sáng suốt kia. Lòng can đảm của Guillaumet, trước hết, là hiệu quả của lòng

cương trực.

Đức tính thật sự của anh lại không phải l{ đó. Sự cao cả của anh, ấy là

tự cảm thấy mình mang trách nhiệm. Trách nhiệm với mình, với bao thư tín,

trách nhiệm đối với những bạn hữu hoài mong. Anh cầm trong tay những

vui buồn của họ. Trách nhiệm đối với những gì mới mẻ đang được xây dựng

dưới kia, nơi chốn của nhân gian sinh hoạt, mà dù cách biệt, anh vẫn phải

dự phần. Trách nhiệm chút ít đối với định mệnh con người, trong vòng khả

năng của anh trên công việc.

Anh thuộc thành phần những sinh vật rộng, hài lòng chấp thuận đưa

vòm lá cành mình, che phủ giúp những ch}n m}y. L{m người, ấy là nhận

trách nhiệm. Ấy là biết tủi thẹn trước những khốn cùng, khổ lụy, không do

mình mà ra. Ấy là biết kiêu hãnh vì một chiến thắng của bạn mình thu

hoạch. Ấy l{, lúc đặt tảng đ| của riêng mình, mà cảm thấy góp phần xây

dựng một cõi chung.

Người ta cứ muốn lẫn lộn hạng người đó với những tay đấu bò, hoặc

với những kẻ lăn lóc cuộc chơi. Người ta ca tụng lòng dũng cảm dám chết

của họ. Nhưng tôi xem nhẹ lòng khinh thường sự chết. Nếu nó không bắt

nguồn từ một ý thức về trách nhiệm phải mang và mình chấp thuận, thì sự

xem thường cái chết chỉ là dấu hiệu cằn cỗi của tinh thần, hoặc ngông cuồng

của tuổi trẻ. Tôi có biết một ch{ng trai đ~ tự sát. Tôi chẳng biết cuộc tình

duyên lỡ dở n{o đ~ xui giục anh cẩn thận cho một viên đạn vào tim. Tôi

không biết anh nghe theo tiếng gọi lãng mạn văn chương n{o c|m dỗ mà lại

tỉ mỉ mang găng trắng v{o tay, nhưng tôi nhớ rằng cái cảnh tượng chán

chường kia, đ~ g}y cho tôi một cảm giác khó chịu; không có gì cao cả, chỉ là

tầm thường khốn đốn mà thôi. Thế thì, phía sau gương mặt dễ thương nọ,

bên trong khối óc người trai kia, trước đ}y chả có gì r|o. Có chăng chỉ là

hình ảnh một cô gái nhỏ nào ngốc nghếch giống như trăm vạn cô khác mà

thôi.

Trước một phận số lai rai nghèo n{n như vậy, tôi bỗng nghĩ tới một

cái chết đích đ|ng của con người. Cái chết của một kẻ l{m vườn, kẻ từng bảo

tôi: “Ông biết chứ… đôi lúc xới đất, mồ hôi ra như tắm. Tôi bị chứng đau

xương, nên ống chân khổ lắm, tôi rủa thầm công việc đ{y đọa này. Ấy thế,

mà hôm nay, tôi lại muốn xới đất, xới đất hôm nay, xới vào lòng đất… Xới đất, ha! Thật là tuyệt! Còn gì tự do bằng lúc miệt mài xới đất! Nhưng rồi, ai

sẽ xén tỉa cây cối của tôi đ}y?” Ông bỏ lại một khu vườn hoang phế. Ông bỏ

lại một địa cầu hoang phế. Ông đ~ gửi gắm hết tình yêu cho xiết bao miền

đất, và trút hết tâm hồn cho tất cả cây cối trần gian. Chính ông ta l{ người

phóng khoáng, là kẻ h{o hoa, đại nhân quân tử vậy. Chính ông ta là y hệt

Guillaumet, con người dũng cảm, lúc ông ta nhân danh Tạo Vật của mình mà

liều thân chống lại thần chết.

III

PHI CƠ

Sá gì, Guillaumet ạ, sá gì những chuyện đó: ng{y ng{y, đêm đêm, nếu

công việc anh làm là quẩn quanh xem xét bên những m|y đo sức ép, là giữ

thăng bằng trên những tuyến chuyển nghi, l{ thăm chừng tiếng chạy của

động cơ, l{ phải liệu đảm đương trên hai vai mình mười hai tấn kim khí:

những vấn đề được đặt ra với anh, đ|o cùng, vẫn là những vấn đề con người

ta, và thoắt thôi, anh bước ngang nhiên vào giữa cõi cao cả tót vời của người

dân miền núi. Không thua gì một thi sĩ, anh cũng biết thưởng thức màu

sương trắng giục bình minh. Từ đ|y th}m u những đêm bay bất trắc, anh đ~

từng mong đợi màu hoa mộng mờ ảo hiện ra như chùm bông man m|c, c|i

ánh lạ tuôn từ lòng đất tối, lên trào ngập cõi đông. C|i mạch nước giếng

ngầm diễm ảo đó, đôi lần ở ngay trước mặt, đ~ chan hòa rất chậm r~i, v{ đ~

cứu sống anh lúc anh tưởng rằng mình đương chết.

Việc sử dụng một khí cụ khoa học vẫn không thể biến anh thành một

gã chuyên môn khô cỗi. Tôi tưởng rằng những kẻ qu| kinh h~i trước những

tiến bộ của ngành khoa học chuyên môn, chắc là họ đ~ nhầm lẫn không

phân biệt rõ phương tiện và cứu cánh. Kẻ n{o đấu tranh trong hy vọng duy

nhất nhằm vào những kết quả vật chất tiện nghi, hẳn nhiên là không thu

hoạch được chút gì đ|ng gi| cho cuộc sống. Nhưng m|y móc không phải là

cứu c|nh. Phi cơ không phải là cứu cánh: nó chỉ là một dụng cụ. Một dụng cụ

cũng như c|i c{y.

Nếu ta tưởng rằng m|y móc l{m hư n|t con người, ấy có lẽ rằng chúng

ta thiếu thời gian để lui gót ra sau và nhìn rõ lại, v{ xét đo|n về những ảnh

hưởng, những tác dụng của biến dịch nhanh chóng như những biến dịch

chúng ta đ~ trải qua. Có nghĩa gì mấy đ}u, một trăm năm của lịch sử máy

móc đem so ra với hai trăm ng{n năm lịch sử của lo{i người. Quả thật chúng

ta chỉ mới chớm khởi sự ngồi v{o cư trú trong gian nh{ mới mẻ, mà quả

thật l{ chưa được xây dựng hoàn thành. Mọi sự quanh ta, đổi thay quá

chóng: giao tế giữa đời, giao dịch l{m ăn, điều kiện công việc, thói nhà,

phong tục… T}m lý của chúng ta cũng bị tơi bời điên đảo, ngay tận trong cơ

sở u trầm nhất. Những ý niệm về biệt ly, về xa vắng, về cách trở, về trùng lai,

không mang chứa những thực cũ, mặc dù từ ngữ diễn đạt vẫn là từ ngữ xưa.

Để lĩnh hội cõi sống ngày nay, chúng ta dùng một ngôn ngữ thiết lập vì cõi sống hôm qua. V{ đời sống của quá khứ dường như tương ứng với bản chất

của chúng ta hơn, chỉ riêng vì một lẽ: nó đ|p lại đúng lời, cho cái ngôn ngữ

chúng ta.

Mỗi tiến bộ một ngày, mỗi đẩy xa chúng ta một chút, xa dời mãi những

tập quán chúng ta vừa chớm bén quen hơi, v{ quả thật chúng ta làm những

kẻ thiên di trên đất trích, chưa ho{n th{nh được cái tổ quốc chung.

Tất cả chúng ta là kẻ man di, mà những đồ chơi mới đương l{m ngất

ngây choáng mắt. Những cuộc tung c|nh phi cơ không có ý nghĩa n{o kh|c.

Cái nọ bay cao hơn c|i kia một chút, cái kia chạy chóng hơn c|i nớ một

phần. Vậy chúng ta quên mất c|i do lai xui chúng ta lao đầu mà xô cho máy

chạy. Tạm thời là thế, cái cuộc chạy tưng bừng, nó che lấp c|i đối tượng là

cứu cánh, hoặc do lai. Mãi mãi than ôi vẫn rồi ra rứa. Đối với người thực dân

đi x}y trời đế quốc, c|i ý nghĩa cuộc đời là chinh phục cho mau. Người quân

nh}n khinh thường kẻ thực d}n. Nhưng c|i mục đích cuộc chinh phục kia,

há là chẳng đắp xây của gã thực d}n được thành tựu? Và thế đó, trong niềm

phấn phát hứng thú trước những tiến triển của mình, chúng ta xô con người

vào phục dịch công cuộc thiết lập đường rầy, cất cao nh{ m|y, khơi hầm đ{o

mỏ, xẻ giếng dầu hôi. Chúng ta có quên đi chút ít một điều: những xây dựng

kia, cốt là phụng sự con người. Đức lý của chúng ta, trong thời gian chinh

phục là một đức lý quân nh}n. Nhưng b}y giờ, chúng ta phải đóng vai trò

đúng điệu thực dân. Chúng ta phải l{m sao cho c|i căn nh{ mới mẻ, chưa ra

hình dạng rõ ràng, phải làm sao cho nó thành sống động. Chân lý, với kẻ

này, là thiết lập; chân lý, với kẻ kia, l{ cư trú.

Ngôi nhà của chúng ta hẳn là lần hồi sẽ thân thiết với con người hơn.

Cả m|y móc cũng vậy, máy móc càng tinh xảo, máy móc càng nép mặt ở

phía sau c|i vai trò mình đóng; m|y móc c{ng ho{n bị, máy móc càng xóa

mình thin thít ở bên kia cái công dụng mình đưa ra. Dường như mọi cố gắng

kỹ nghệ của con người, mọi bài toán chi ly, những bao đêm d{i thao thức chỉ

nhằm tới một điều l{ đạt tới chỗ đơn sơ, như tuồng cần phải qua kinh

nghiệm hằng hằng của nghìn nghìn thế hệ, mới có thể khơi dẫn dần dần

đường cong cây cột, nét nhịp mạn tàu, thân liễu yếu phi cơ tròn xinh như

thể… như thể một lần là cho tới tột cõi nguyên trinh mà trả về cho ban sơ

c|i đường cong đồi vú, c|i đ{i c|c đôi vai. Tưởng chừng cái việc làm của kĩ

sư, của thợ vẽ, của các viên cán sự trong phòng nghiên cứu, chỉ như hình l{

m{i giũa v{ xóa bôi, cho nhẹ nhàng nảy ra cái then cài, cái chốt cọ, cho thăng bằng uyển chuyển cái cánh mộng phi cơ, cho đến chỗ l{m sao cho người ta

không ngờ ra được nữa, cho người ta ngó nhìn mà không thấy cái chắp víu

đôi bên, l{ mép thân, là miền cánh, làm sao cho thiên hạ phiêu bồng trước

hình thể mở phơi, lai l|ng l{m sao như giờ đ}y mới thật là thoát tục, láng

như ngời, như ngẫu nhĩ chung đôi tuyết bạch trơn tru như mịn m{ng đầu

gió, duy nhất hiện hình l{ đặc tính của thi ca. Tuồng như c|i tuyệt vời hảo

hợp chỉ đạt tới một lần là không phải lúc chẳng cần thêm, mà chính ra là cái

khi không còn chi để rứt bớt ra một phần n{o được nữa. Ở tột cùng tiến

triển, hồn m|y móc đ~ mờ xóa phiêu du.

Tuyệt hảo của ph|t minh cũng lăm le về chỗ quên mình là minh phát.

V{, cũng như trong khí cụ, mọi cái gì máy móc hiện thể bên ngo{i đ~ dần dà

xóa bóng, v{ có đến với ta cũng tự nhiên như ngẫu sinh là một hòn sỏi biển

trơn tròn, m{ ngẫu sinh lại sinh từ sóng rộng, thì cũng vậy, cái tuyệt vời

đ|ng nên t|n tụng, là cái máy ta dùng, chính trong lần được dịch sử, đ~ dần

dà tự biến dạng để người quên.

Xưa kia chúng ta tiếp xúc với phi cơ như chạm vào hồn phức tạp.

Nhưng ng{y nay quen nết, ta quên mất mình đang gửi nhịp với một động cơ

sầu tỏa đương quay. Thế là tới đ}y, nó đ~ đ|p ứng với chức vụ của mình, là

quay vù, quay tít, như tim đập trong lồng, v{ cũng vậy, nào ai biết bên phổi

mình đang có một quả tim quay. Ai lưu t}m lưu ý tới. Khí cụ ta dùng thân

thuộc, đ~ mất hút lưu t}m. Ở bên kia khí cụ, và xuyên qua khí cụ, là ấy cõi sơ

khai thiên nhiên sơ thủy ta tìm về bắt gặp lại, đó trùng lai – cõi thiên nhiên

của ch{ng l{m vườn, của chú hàng hải, của bác thi nhân.

Ấy rằng với nước, ấy rằng với hơi, ấy rằng với không khí, là ấy của

người phi công cất cánh tiếp xúc đề huề. Lúc động cơ tung nhịp, lúc con tàu

đ~ rạch sóng biển khơi, triều nước dâng, vỗ vào mạn tàu rột rột như rập

rình chiêng dậy, quân nhạc ng}n theo, thì con người có thể dõi theo việc làm

kia bằng c|ch đo cật gan mình động đậy. Nó chấn động thế n{o, thì ta cũng

cảm rõ được từng phút, từng giây, chiếc thủy phi cơ c{ng tăng tốc độ, càng

thu nhập thêm uy quyền trên l{n sóng ph}n v}n. Người phi công cảm thấy,

trong cái khối mười lăm tấn kim khí kia, đang soạn sửa một hương nồng

thuần thục, sắp dậy trào đưa to{n khối bay lên. Người phi công đưa tay nắm

chặt thêm các tay lái, và dần dà thu nhập hết quyền hành nọ, như đón về

một tặng vật ai trao. Nắm được tặng vật rồi, thì mọi bộ phận tay lái tự biến

thành những sứ giả của quyền uy. Lúc quyền uy đ~ thục, người phi công chỉ cần làm một cử động nhẹ như chơi, nhẹ hơn vịn tay vào cành hái quả, là quá

đủ để tách rời khỏi sóng nước cái thân con tàu yểu điệu, v{ đưa nó lên bầu

trời dàn mộng giữa thương khung.

IV

TÀU BAY VÀ TRÁI ĐẤT

1

Đ~ đ{nh t{u bay l{ m|y móc nhưng cũng l{ một khí cụ phân tích tuyệt

hảo. Khí cụ đó giúp ta kh|m ph| khuôn mặt thật của địa cầu. Trải bao thế

kỷ, đường sá quả thật đ~ đ|nh lừa chúng ta. Chúng ta nằm trong tình trạng

vị Nữ Vương xưa kia từng muốn viếng con d}n để xem trăm họ có hân hoan

an cư lạc nghiệp dưới sự trị vì của mình không. Nhưng bọn triều thần muốn

lừa dối Nữ Vương, bèn sắp đặt vài khung cảnh tốt đẹp dọc đường trên lối

Nữ Vương đi, v{ thuê bọn ca sĩ chờ sẵn để múa khúc. Trừ hai vệ đường

mỏng manh như sợi chỉ nhiếp dẫn thị quan, Nữ Vương chẳng còn nhìn thấy

gì khác nữa, chẳng hay biết thêm chút gì khác nữa về vương quốc của mình,

và không ngờ rằng nơi vùng đồng không mông quạnh xa xa, nhân dân lầm

than đói rét đang nguyền rủa bà.

Còn chúng ta? Chúng ta đi trên những dặm đường quanh co ngang

dọc. Đường đi vốn ưa tr|nh những vùng đất khô cỗi gập ghềnh, cát sỏi khô

khan. Đường thuận theo nhu cầu con người, đường nối liền những mạch

nguồn này với nguồn nước kh|c. Đường đưa dẫn bước chân nông phu từ

vựa lúa ra bờ ruộng xanh, đường đón súc vật mỗi chiều về chuồng yên nghỉ,

v{ đưa súc vật mỗi s|ng ra đồng cỏ non. Đường giao nối làng này với xóm

nọ, và trai gái hai miền g| nghĩa với nhau. Thảng hoặc có con đường nào

liều băng qua sa mạc, thì có phải rằng nó khôn khéo chạy ngoòng ngoèo để

gặp cho được những vùng có bóng dừa r}m m|t bên nước xanh?

Chúng ta bị đường sá phỉnh phờ, cũng như bị độ lượng của từ tâm lừa

dối. Những cuộc viễn du trải bao phen đi ngang qua những dải đất phì

nhiêu, những vườn hoa quả mật, những bãi cỏ xanh, và từ đó về sau, trong

bao ngày tháng, chúng ta hồn nhiên tô điểm cho lộng lẫy, cái ngục tù vây

h~m th}n ta. Tr|i đất n{y, chúng ta tưởng l{ êm đềm, dịu ngọt lắm.

Nhưng mắt ta bỗng sáng tỏ mất rồi. Một tiến bộ xót xa. Với phi cơ, ta

đi con đường thẳng. Vừa cất c|nh, ta đ~ rời xa những con đường đề huề

thung dung tìm giếng nước, tìm trại chăn nuôi, hoặc tung tăng từ đô thị này

đến đô thị khác. Từ nay tho|t vòng cương tỏa êm ấm, không cần men tới những bờ giếng nước gần gũi như xưa, chúng ta nhắm thẳng tới những mục

đích ở cuối trời. Bắt đầu từ đó, từ độ cao giữa thương khung lướt gió đi

thẳng tắp, chúng ta chợt nhận ra căn cớ cốt thiết ở hạ tầng, những đ|,

những cát, những muối, nơi đó đời sống đôi khi ngại ngùng liều nảy nở lác

đ|c đó đ}y, như một tí rêu bám vào những khe hở giữa gạch vụn điêu t{n.

Thế l{ chúng ta đ~ biến thành những nhà lý học hóa học, sinh vật học

đi khảo sát những nền văn minh đang trang ho{ng những góc mềm u cốc và

đôi lúc bất ngờ gặp chỗ phong khí tốt, bỗng mở phơi lộng lẫy dị thường. Thế

là chúng ta từ đó đứng trên tầm vũ trụ thương khung, m{ nghiên cứu con

người qua tấm kính tròn như qua những dụng cụ khảo sát. Thế là từ đó

chúng ta bắt đầu đọc trở lại pho lịch sử trần gian.

2

Nhằm phía eo bể Magellan, hơi xế một chút về phía Nam Rio Gallegos,

người phi công bay ngang qua một vùng phún thạch cũ. Những phún thạch

rã rời đó đè nặng trên c|nh đồng nơi đ}y, một lớp d{y hai mươi thước. Rồi

bay ngang một vùng phún thạch thứ hai như thế, rồi một vùng phún thạch

thứ ba, và từ đấy trở đi, mỗi mỏm đ| nhô, mỗi cồn cao gò thấp hai trăm

thước, cũng mang riêng một miệng lửa bên sườn. Không có gì giống những

hỏa sơn ngạo nghễ như ngọn Vésuve: chỉ là những miệng núi lửa mở ngay

giữa đồng bằng.

Nhưng ng{y nay, yên tĩnh đ~ trở về. Một yên tĩnh như xui ta ngạc

nhiên, giữa một khung cảnh lỗi nhịp. Xưa kia đ}y chính l{ nơi của hàng

nghìn ngọn núi rầm rộ đua nhau hút lửa từ đ|y thẳm để tung lên ì ầm. Mà

ngày nay chỉ còn một vùng vắng lặng, với nhiều đỉnh núi đen đủi, gi| băng.

Xa hơn nữa, có nhiều núi lửa xưa hơn đ~ bắt đầu phủ cỏ vàng óng.

Thỉnh thoảng lại thấy mọc một v{i c}y trong sũng núi, trông như một cành

hoa nở trong một chiếc chậu xưa. Dưới m{u |nh s|ng man m|c như t{

dương, dải đất bằng nhuốm vẻ xinh tươi, một lớp cỏ thấp phủ đều, trông

như một mảnh vườn có b{n tay chăm sóc. Mặt đất phẳng phiu, phải nhìn kỹ

mới thấy miệng lửa khổng lồ có nhô lên chút ít. Một con thỏ vụt chạy, một

con chim vỗ cánh, sự sống đ~ chiếm cứ một giải tinh cầu mới, vì đất ngọt đ~

bám vào.

Lúc sắp rời Punta Arenas, các miệng lửa cuối cùng hầu đ~ được lấp

cạn. Một dải cỏ phủ khắp nơi, uyển chuyển theo nhịp cong vòng của triền

núi lửa: từ nay phong cảnh chỉ còn giữ riêng một nét hòa ái, dịu dàng. Mỗi

khe hở, mỗi hang thô, được khâu vá trở lại bằng đường tơ trinh bạch thơm

lừng. Mặt đất mượt như nhung, những triền sương xuôi dốc, đó ai còn nhớ

ra nữa cái lai lịch hãi hùng. Cỏ tơ non mọc ở mép đồi, đ~ xóa nhòa những

âm u vết tích.

V{ đ}y, th{nh phố ở tận tít trời Nam tận cùng thế giới, nhân vì ngẫu

nhĩ gặp được chút linh khí của một chút bùn mềm, đ~ được thành lập phong

nhiêu giữa những phún thạch nguyên sơ v{ dương băng biển Nam heo hút.

Sát ngay cạnh những chất đ| đen sì, phồn hoa kia sao mà xui lòng xao

xuyến: huyền diệu của con người, dị thường của tao ngộ. Ta không biết vì

đ}u, ta không rõ bởi c|ch n{o người du khách nọ đến viếng những khu

vườn này, những khu vườn chỉ cho phép cư trú một thời gian quá ngắn, một

chu kỳ địa chất, bằng cách nào viễn khách về đ}y một ngày giữa thiên thu

nghe hồng }n chan rưới.

Tôi hạ cánh giữa tịch mịch chiều vàng. Punta Arenas! Hãy nhìn ta tựa

lưng v{o bờ giếng mà ngó gái giữa thanh xu}n. C|ch nhau hai bước, tôi càng

thấy rõ cái lẽ huyền nhiệm kiếp người… Trong một thế giới mà sự sống giao

tiếp dễ dàng với sự sống, mà những cành hoa giữa lòng gió hồn nhiên hôn

phối với những cành hoa, một thế giới m{ con thiên nga n{o cũng quen biết

mọi con thiên nga, trong thế giới đó, chỉ riêng con người là xây dựng căn lầu

mộng cô đơn.

Phần tinh anh còn cách biệt nhau nghìn trùng. Một giấc mộng “đầu

hoa ngang ngửa thắm” của g|i xu}n, c{ng chia xa nường biệt lập, tôi biết

làm sao mà tìm cái lối vào trong nẻo đó, ở trong kia? Làm sao hạnh ngộ?

Làm sao nghe ra, làm sao biết rõ những cơn man m|c trong nhịp bước gái

tơ đi, lững thững chiều hôm về căn nh{ cha mẹ, mắt lim dim khép mở hai

h{ng, hai môi m| núng đồng tiền mở nụ, một mình mỉm cười với gió đẩy tà

xiêm, một mình em hay, một mình em biết, một mình rộn lên những trận

viễn du khai phá, những mộng tưởng ph|t minh, nhưng u hương rập rình

quân nhạc dối nhau xiêu đình đổ qu|n… N{ng đ~ tự thiết lập một điện đ{i bí

ẩn trong một vương quốc rẽ riêng, bằng những gì của riêng ai đem lại, bằng

những gì g~ tình nh}n đăm chiêu tơ tưởng? Bằng điệu nói của chàng? Bằng

những lặng lẽ của anh? Từ đó về sau, đối với em, chỉ riêng chàng là hoàng tử chí tôn, ngo{i ch{ng ra, người người trong thiên hạ thảy thảy lưu manh man

dại côn đồ? Em khép thân ngà trong một cõi, kín đ|o hơn giấu vào một viễn

cách hành tinh, em che lấp đời riêng trong những lối đi về kiều diễm, trong

những thói nh{ băng tuyết, trong những âm vang dìu dặt của ký ức não

nùng phỉ phong. Sinh ra từ giữa lòng núi lửa, từ giữa lòng thảo hoa, từ giữa

chất muối trùng khơi thổi mặn, mới đó hôm qua, nay em đ~ th{nh Tiên Nữ.

Punta Arenas! Tôi tựa lưng v{o bờ giếng. Những người đ{n b{ gi{ nua

tới đ}y lấy nước. Trong tấn bi kịch đời họ, ngày mai tôi sẽ biết riêng chỉ một

cử động tôi đòi ấy thôi. Một bé con ngửa cổ v{o tường, khóc lặng lẽ. Ngày

mai trong kỷ niệm của tôi, sẽ chỉ còn ghi riêng hình ảnh một đứa bé lạc loài,

sầu khổ không nguôi. Tôi là kẻ lạ tới đ}y. Tôi không biết, không biết gì hết

cả. Thế giới họ, tôi không thể bước vào. Làm sao tôi dám nói.

Những yêu thương, những ganh ghét, những niềm vui của con người

cả một tấn tuồng rộng lớn đó diễn ra trong khung cảnh bé bỏng xiết bao. Từ

đ}u con người khơi dẫn được về cho mình nguồn khát vọng vô biên. Từ đ}u

con người vốn bị phó mặc cho rủi may, bị vất ra sống trên một miền đất mà

phún thạch hỏa sơn còn h}m hấp nóng, mà những trận bão cát sắp tới, mà

những cơn mưa tuyết sắp về, còn hăm dọa mãi! Nền văn minh của họ chỉ là

một lớp vàng mạ mỏng manh: Hỏa Sơn sẽ xóa, sẽ bôi. Một biển mới sẽ dâng

triều. Một cơn lốc cát.

Phố thị n{y tưởng như x}y trên một dải đất đai đích thực, tưởng

chừng lòng đất còn phong phiêu trong những chiều s}u độ thẳm như miền

đất Beauce. Người ta quên mất rằng, ở nơi n{y hay chốn khác, cuộc sống

vẫn là xa xỉ phẩm, và ở dưới bước chân của con người, không bao giờ có

một mảnh đất sâu dày nùng hậu, bất cứ nơi đ}u. Những điều đó được minh

chứng rõ rệt do một cái hồ tôi gặp được ở cách thành Punta Arenas vài ba

dặm đường. Nằm vây bọc giữa cây cối cằn cỗi và nhà cửa lè tè, trông thiểu

n~o như một cái ao con trong sân nông trại, vì lẽ gì nó lại tuân theo nhịp

động của thủy triều biển khơi, cũng hằng hằng dâng lên rút xuống. Giữa bao

nhiêu thực tại yên tĩnh quanh mình, những lau vàng trúc vỏ, những trẻ con

nô đùa, c|i hồ kia đêm ng{y kiên nhẫn kéo d{i hơi thở chậm chạp theo tiết

nhịp bốn bên, nhưng vẫn âm thầm tuân theo những định luật kh|c. Dưới

mặt nước bằng phẳng, dưới lớp băng gi| im lìm, dưới mái chèo của chiếc

ghe hư n|t duy nhất nơi đ}y – uy lực của mặt trăng đương }m thầm tác

động. Những xo|y nước lũ của hải triều đương ngấm ngầm thao túng khối nước đen ngòm n{y, tận trong đ|y thẳm thâm u, những tương ứng tiếp

thông dị thường đương tiếp tục cuộc phối hóa, từ vùng loanh quanh đó cho

tới tận eo biển Magellan, dưới làn cỏ hoa mỏng mảnh. Cái hồ kia rộng không

qu| trăm thước, nằm ở ngưỡng cửa lối đi v{o th{nh phố thiên hạ sống rất

bình an vững ch~i trong cõi đất con người. Vâng, cái hố kia đ~ phập phồng

đập theo nhịp múa tim đại hải.

3

Chúng ta cư trú trên một tinh cầu lưu ly chuyển dịch. Lâu lâu, nhờ

chiếc phi cơ vạch nẻo, tinh cầu bỗng phơi mở ngọn nguồn mình: một cái hồ

âm thầm liên lạc với mặt trăng đ~ biểu lộ những tương quan ẩn kín. Và tôi

còn biết những dấu hiệu khác.

Dọc bờ biển vây dọc dãy Sahara, từ Capjuby tới Cisneros, thỉnh thoảng

ta lại bay qua một vùng cao nguyên với những sầm lĩnh đột nham hình nón

cắt, mà bề rộng xê xích giữa khoảng v{i ba trăm thước tới v{i ba mươi c}y

số. Duy có điều đặc biệt là: bề cao của chúng lại suýt soát khoảng ba trăm

thước, không xê dịch chi nhiều. Lạ nữa là: không những chúng cao như

nhau, mà lại còn giống nhau về màu sắc, về chất đất và hình thù bờ dốc, mép

ghềnh. Cũng như thể những cột trụ một điện đ{i n{o xưa, nhô chơ vơ trên

mặt c|t còn như nhắc gợi cho ta nhớ rằng, xưa kia, tòa nh{ huy ho{ng thế

nào, mà giờ đ}y t{n phế, chỉ còn chút vết tích thế kia… thì, cũng vậy, những

đột nham, sầm lĩnh n{y cũng chứng minh với ta rằng xưa kia chúng hẳn

phải nằm chung trong một toàn thể của một vùng cao nguyên lớn rộng.

Thuở con đường Casablanca-Dakar mới mở, trong những năm đầu phi

cơ còn mong manh yếu ớt, thì chúng tôi thường, hoặc vì máy hỏng, hoặc

nh}n đi tìm kiếm, cứu trợ những phi cơ bay lạc, mà phải hạ cánh xuống

những vùng phiến loạn, thổ d}n không ôn hòa. Nhưng c|t, bản chất vẫn dối

tr|; ngó như l{ bền vững, đ}u ngờ có lúc phải sa lầy. Còn những giãi ruộng

muối xưa, tưởng đ}u rắn chắc như nhựa trải đường, tưởng đ}u cũng vang

động dòn d~ dưới gót ch}n đi, ngờ đ}u nó cũng lại thường lún mất dưới

vòng b|nh phi cơ. Lớp muối vỡ tan, mở rộng một gi~i bùn đen hôi h|m. Thế

nên chi, chúng tôi thà cam chịu hạ cánh trên những cao nguyên kia, mỗi khi

trường hợp cho phép; ấy chỉ vì chúng không bao giờ che dấu những cạm

bẫy bên trong.

Sự bảo đảm ấy, bởi đ}u m{ có? Ấy là nhờ một thứ cát trắng, rắn chắc,

nặng hạt do những vỏ hào, vỏ hến tí hon tụ hội, dồn ghép lại, làm thành

những đống đồ sộ đun ra. Trên mặt cao nguyên, những đống lài lài còn

nguyên vẹn mặt m{y, nhưng nếu ta lần theo triền dốc m{ đi xuống, sẽ thấy

có chỗ vỡ ra từng mảng, có chỗ ghép chặt lại nhau. Xuống tới chân dãy cao

nguyên, nơi c|c thứ vỏ ấy dồn tụ l}u năm nhất, thì còn thuần một chất đ|

vôi không pha trộn phiêu bồng.

Thuở hai anh bạn Reine và Serre bị những thổ dân bất hảo thộp được

cầm tù, tôi có dịp chở một sứ giả người Maure tới hạ cánh xuống một trong

những vùng n{y. Trước khi từ gi~ người đó, tôi cùng anh ấy lân la tìm xem

thử có con đường nào sẽ giúp anh ngày mai lần mò xuống được. Nhưng

khắp bốn mặt đều là những bức tường thẳng tắp đổ xuống hố thẳm, không

một lối nào khả dĩ cho phép tho|t th}n.

Tuy nhiên trước khi cất cánh bay tìm chốn khác, tôi còn nấn ná dò hỏi

nơi đ}y. Tôi cảm thấy trong mình một niềm vui – thơ ng}y có lẽ - một niềm

thích thú được dịp ngẫu nhĩ ghi dấu chân mình tại một mảnh đất mà có lẽ từ

thiên cổ tới nay, người cũng như vật, chưa bao giờ xâm nhập tới. Không một

người Maure người mọi nào có thể vượt tới gần cái chỗ doanh trại hoang

liêu này mà mở cuộc tấn công. Không một người Âu người Ấn n{o đ~ từng

đến thám hiểm khu vực n{y. Tôi bước đi trên một thứ cát tuyệt vời hoang

vắng, tuyệt diệu hoang trinh. Tôi là kẻ đầu tiên l{m con người thứ nhứt đ~

ngồi xuống đưa b{n tay m{ hốt thứ bụi vàng vô gi| đó, v{ đong lên đổ

xuống, và lúc lắc trong lòng bàn tay của mình, v{ đê mê nhìn phấn vàng

thong dong chảy giọt. Vâng, tôi là kẻ đầu tiên tới phá vỡ cõi tịch mịch này.

Trên khuôn mặt khối dương băng n{y, kể từ thiên thu kể lại, chưa hề có

phát sinh một lá cỏ, tôi xin làm hạt giống của gió xa mang về, bằng chứng

đầu tiên của cuộc sống ái ân lần thứ nhất.

Một ngôi sao mọc, tôi liếc mắt lên. Tôi nghĩ rằng cái mặt phẳng trắng

phau này, từ muôn vạn kỷ, chỉ riêng gửi tấm trinh thể của mình cho tinh tú

soi bóng mà thôi. Tấm thảm, tấm gương trinh bạch trải ra dưới vòm trời

trong suốt. Tim tôi chợt nhói mạnh một c|i, như b{ng ho{ng trước một phát

minh huyền ảo, lúc chợt thấy… c|ch mình chừng v{i mươi thước, nằm lửng

lơ trên tấm thảm pha lê, rõ ràng một viên sỏi đen bất động.

Tôi nằm đè th}n trên lớp vỏ hến d{y ba trăm thước. Toàn khối khổng

lồ ấy tuyệt đối chống lại sự hiện hữu vô tình vô lý của viên sỏi kia. Trong

lòng s}u dưới đất hẳn nhiên là phải có những hòn đ| lửa đương ngủ yên,

giữa lòng địa cầu nghìn năm thai nghén, nhưng c|i phép nhiệm màu ảo diệu

nào lại có thể xô một viên sỏi từ đ|y thẳm nhô lên tới tận mặt trắng phau

phau này? Tim phập phồng như đứt chỉ xổ tung, tôi đưa tay nhặt của quý:

một viên sỏi đen, rắn chắc, to bằng ngón tay, nặng như kim khí, tạc hình

tượng một giọt lệ long lanh. Nhưng đ}u l{ linh hồn khóe mắt?

Một tấm thảm trải dưới một gốc táo, chỉ đón những trái táo. Một tấm

thảm trải dưới vòm trời sao, chỉ hứng được những hạt sương sao rụng.

Chưa bao giờ một tinh thạch chỉ dẫn rõ được cội nguồn mình một cách

tuyệt đối hiển nhiên như thế.

Và hồn nhiên mắt mở nhìn trời, tôi nghĩ rằng từ ngọn táo thanh thiên

kia, tất còn nhiều quả rụng. Tôi sẽ tìm ra chúng ngay tại chỗ chúng đ~ rơi, vì

tự vạn kỷ nhớ nhung lần mò đi tới, chưa có gì có thể di động những trái lạ

ghi tạc nhịp gót thiên thu.

Chúng không giống một vật thể nào khác ở đ}y. V{ tức khắc, tôi vội vã

khởi sự sưu tầm để yên định giả thuyết.

Giả thuyết đúng thật. Tôi lần hồi góp nhặt nhiều viên ngọc cuội, theo

nhịp trung bình mỗi mẫu một viên. Viên n{o cũng mang hình đ| lửa nguội.

Viên n{o cũng lóng l|nh rắn chắc như huyền kim. Và thế đó, từ trên cao

nguyên bát ngát là một vũ – lượng – kế tinh cầu, bằng một súc đồ kinh dị,

bàng hoàng nghe tiếng gọi của sử lịch mang mang, tôi đ~ chứng giám trận

mưa lửa diên trì trên thời gian đổ giọt.

4

Nhưng huyền diệu nhất là giữa cảnh này, giữa tấm thảm nam châm

kia và bầu trời sao nọ, nằm trên tấm lưng tròn của tinh cầu phiêu dạt, sao

lại có một tâm thức con người để đón nhận ẩn ngữ trận mưa kia, để cho

trận mưa kia có thể soi bóng v{o, như soi v{o gương thơ ng}y vậy. Ngồi

trên một nền khoáng chất, một cơn mơ l{ một nhiệm màu. Và tôi nhớ lại

một cơn mơ.

Một lần đó, rơi c|nh trên một vùng cát dày, tôi chờ trời s|ng. Dưới

bóng trăng, những ngọn đồi vàng nằm phơi sườn cong lưng lấp loáng, và

sườn tối bên kia men lần lên tới đường vạch của ánh sáng chia bờ, phân biệt

đôi bên. Khung cảnh hoang liêu nửa mờ nửa tỏ, vừa yên l{nh như trong giờ

nghỉ việc, vừa c}m nín như một cạm bẫy khôn lường, tôi nằm tròn ở giữa

lòng cảnh vật, ngủ thiu thiu.

Lúc sực tỉnh, tôi chỉ nhìn thấy vũng trời đêm, tôi đang nằm duỗi lưng

trên chóp đỉnh một ngọn đồi, hai tay vòng trên ngực, mặt đối mặt với cái hồ

xa nọ đầy sao. Chưa kịp hiểu ra những vực s}u đó l{ gì, tôi cho|ng v|ng

tưởng mình sắp rơi tòm v{o trong đó, không một chiếc rễ c}y để bám,

không một c{nh l| để bu, không một m|i nh{ để bấu.

Nhưng tôi không rơi. Từ đầu tới chân, tôi nhận ra l{ mình đang dính

liền da với đất. Tôi khoan khoái yên tâm phó thác sức nặng thân mình cho

đất giữ. Và cảm thấy sức hút của tình đất tuyệt vời tối thượng như tình yêu.

Tôi cảm thấy đất đỡ lấy lưng tôi, đất n}ng tôi lên, đất cầm tôi ở lại, đất

đưa dẫn tôi vào khoảng rộng đêm mờ. Tôi nhận thấy quả thật mình được

gắn liền v{o tr|i đất do một sức mạnh thu hút giống như một sức mạnh gắn

liền ta vào chiếc xe, ở những đoạn đường quanh, xe lái quẹo. Tôi khoan

khoái trong nhịp kề vai góp vú, đất ôi! người chung tình đúc |i, người vững

bền đem ổn định tình yêu, yên lành là thế đó. Ta cảm thấy dưới thân mình

cái boong tàu cong phồng của con thuyền đưa ta v{o viễn du trong cõi.

Tôi cảm thấy rõ r{ng mình đương được chở đi xa; cho đến nỗi, nếu

bỗng nhiên nghe từ lòng đất dậy, những ì ầm của con tàu xê dịch, hì hục cọ

siết tiến đi, những rên rỉ của con thuyền buồm cũ n|t kiệt sức gắng gổ vào

bờ, hoặc những tiếng kêu chát chát của những chiếc Sà-Lúp gặp trở ngại

nên trở con, vâng, nếu bỗng nhiên nghe trỗi dậy những }m thanh đó thì

lòng tôi hẳn là vẫn điềm nhiên không kinh ngạc chút n{o. Trong lòng đất

vẫn còn nguyên im lặng. Nhưng c|i sức hút kề vai kia đ~ biểu lộ thâm tình,

dặt dìu, bền bỉ, trung th{nh sau trước, từ vạn đại tới trăm năm. Tôi cư trú

thanh bình trong quê hương nọ, cũng như thể những tên tù tào dịch, kết vào

với khối chì, đ~ nằm yên đ|y biển khơi, không nhúc nhích.

Tôi lại ngẫm tới thân phận mình, lạc lõng giữa Sa mạc, bị hăm dọa

từng cơn, chịu bơ vơ giữa c|t v{ng mù tăm v{ ng{n sao vằng vặc, xa dời trên ngàn dặm những từ cực của ân tình câm nín, bởi vô hạn vắng im. Tôi

biết rằng muốn quay về trùng ngộ tôi còn phải chịu hằng hằng ngày tháng

lang thang, nếu không chiếc phi cơ n{o tìm tới, hoặc là nếu mai đ}y bọn

người Maure không cắt đầu tôi mà chấm dứt. Còn chi nữa, nơi đ}y. Tôi chỉ

còn l{ tôi c|i con người phù du lưu lạc giữa cát hững hờ v{ trăng sao hờ

hững, giữa cát không bờ và sao không bến. Chỉ riêng còn ý thức được niềm

êm dịu thở mà thôi.

Ấy thế tuy nhiên, tôi bắt gặp mình tr{n đầy cơn mộng.

Những cơn mộng về không tiếng động, êm như nước suối xuôi miền,

và thoạt tiên, tôi chưa hiểu cái niềm l}ng l}ng đương x}m nhập.

Không tiếng, không lời, không hình ảnh, chỉ duy nhất là mối thâm cảm

một hiện diện, một tình bằng hữu rất gần gũi đ}u đ}y, v{ được linh cảm

đo|n ra nửa phần đ}u đó. Rồi tôi chợt hiểu. Tôi nhắm mắt, buông mình xuôi

theo những thiên hoa loạn trụy nhiếp dẫn của kỷ niệm đầu khe.

Một nơi n{o đó, có một khu vườn xum xuê tùng bách, bối và bồ đề, và

một ngôi nh{ cũ tôi yêu. Ngôi nh{ ở gần hay ở xa, điều đó không cần yếu.

Ngôi nhà không thể che ấm thân tôi, không còn cho tôi trọ nữa, điều đó cũng

không can hệ gì. Vì đ}y l{ ở trong cơn mộng: chỉ cần ngôi nhà kia là có thật

trong đời, thế l{ đủ để đi về tràn ngập suốt đêm nay. Tôi không còn một tấm

thân rớt giữa hoang vu, tôi đ~ định xong phương hướng, tôi l{ đứa con thơ

dại của ngôi nhà, lòng mang những kỷ niệm mùi hương, không khí m|t h{nh

lang gió về hây hẩy, lòng ấm áp cho ngôi nhà. Cả đến những tiếng ếch nhái

trong hồ, cũng lại về trong cơn mơ góp điệu. Tôi cần có trăm nghìn trụ mốc

như thế để tìm lại th}n mình, để khám phá những vắng mặt xa xưa n{o đó

đ~ l{m nên mùi hương sa mạc ng{y nay, để tìm ra ý nghĩa cho sự vắng lặng

này làm nên bởi muôn nghìn vắng lặng, v{ trong cõi đó, ễnh ương, ếch nhái

cũng ngừng kêu.

Không, tôi không còn nằm giữa cát và sao. Tôi chỉ xin thu nhận của

ngoại vật một lời nhắn lạnh. Cả hương vị của Vô Cùng tôi tưởng nó mang lại

cho mình, giờ đ}y tôi mới rõ nguyên lai. Tôi thấy trở lại những chiếc tủ lớn

trịnh trọng giữa căn nh{; chúng hé ra cho thấy những chồng nệm chăn

trắng tinh như tuyết. Người U già tấp tểnh nhảy như một con chuột non, từ

tủ này qua tủ khác, hai tay không ngớt soát tìm, tung ra, xếp lại, đếm từng tấm chăn trắng v{ kêu: “Trời ơi, chết mất”, mỗi khi có chỗ mòn rách làm tổn

thương cho sự trường tồn của căn nh{. Rồi liền tay, U vụt chạy tới |nh đèn,

nhấp nhem hai con mắt mòn buồn, hối hả phục vụ một c|i gì trường tại hơn

U, một đấng thiêng liêng hay một con tàu lớn.

U gi{ ơi, tôi phải nói về U đó. Thưa U, xưa ấy, mỗi khi ở xa về, sau

những cuộc du lịch đầu tiên của tuổi trẻ, thì bao giờ tôi cũng nhìn thấy U tay

kim tay chỉ, cả th}n người ngập trong lớp chăn trắng, và mỗi năm khuôn

mặt mỗi nhăn nhíu thêm, v{ bao giờ cũng tự tay U chăm sóc những tấm

chăn cho chúng tôi ngủ. Sao cho chăn ngủ không nh{u, sao cho khăn trải

bàn tiệc không thủng, những buổi hội pha lê rạng rỡ kia…

Tôi vào phòng U may vá, tôi ngồi trước mặt U, tôi kể U nghe những

nguy hiểm suýt giết người tôi, để làm U khiếp đảm, để cho U biết chút ít về

thế giới chúng ta, để lung lạc U coi thử… Tôi không thay đổi chút nào, U bảo.

Còn bé, tôi cũng đ~ biết nghịch cho r|ch |o như thiên lôi – Trời ơi! Chết

mất! – nghịch cho trầy chân lở gối, rồi mò về cho U băng bó, y hệt tối nay.

Không, U ạ, tôi không phải ngo{i vườn chạy về với U đ}u, tôi từ tận cùng trái

đất về đ}y, mang trong mình mùi cô đơn chát chát, mang trong thân thể

những cơn lốc cuồng phong, mang trong mạch máu những màu trắng lộng

lẫy những miền nhiệt đới cuối trời xa. Cố nhiên U bảo rằng bọn trẻ chỉ biết

nhảy đùa, chỉ biết bẻ chân cho gãy rồi tưởng mình khỏe lắm hử. Không,

không U ạ! Tôi đ~ thấy xa hơn thửa vườn nhà. Nếu U biết bóng c}y vườn

nhà là nhỏ! Nếu U biết bóng cây chìm mất giữa những cát, những đ|, những

rú thẳm rừng sâu, những ao tù lầy lội của thế gian mình. U biết chăng những

vùng man rợ có con người chợt gặp ta, là lập tức tì súng lên vai. U có biết là

có những vùng sa mạc, ngủ trong đó l{ nằm trong giá lạnh, không nhà,

không giường, không chăn nệm, thưa U…

- Trời, dã man, U bảo.

Tôi không phá nổi niềm tin vững chắc của U, cũng như khó m{ ph| vỡ

đức tin của một người đ{n bà giúp việc nhà thờ. Và tôi ái ngại cho căn số

tầm thường của U đ~ l{m U th{nh người mù lòa, nghễnh ng~ng…

Nhưng đêm nay, nằm trong b~i Sahara, trơ trụi giữa biển cát và trời

sao, tôi cảm thấy U không phải là không có lý.

Những gì đ~ xảy đến trong tôi, tôi không rõ. Sức hút của đất kết chặt

tôi v{o đất, trong lúc bao nhiêu vì sao đều có sức nam châm. Một sức hút

khác lại kéo dẫn tôi về lại với tôi. Sức nặng của tôi đang xô tôi về bao nhiêu

chuyện. Những chuyện trong cơn mơ còn thực hơn những đụn cát, thực

hơn vầng trăng, thực hơn mọi vật hiện diện bây giờ. Ôi! Huyền diệu của một

ngôi nhà, không ở chỗ nó che đụt cho ta, sưởi ấm cho ta, không phải vì ta là

chủ nhân các bức tường của nó. Huyền diệu của một ngôi nhà chính ở chỗ

nó chậm rãi lần hồi kết tụ lại trong ta những mạch nguồn thương mến. Ở

chỗ nó cấu th{nh, trong đ|y thẳm tâm linh, cái khối đất th}m u, để từ đấy

tuôn ra những cơn mơ dạt d{o như suối nước.

Sahara, Sahara của ta ơi, cả một dãi hoang vắng của Người bỗng huyễn

hoặc động hồn bởi một người đ{n b{ se chỉ.

V

MÀU XANH SA MẠC

Tôi đ~ nói rất nhiều về Sa mạc cho anh nghe, nên trước khi tiếp tục nói

thêm về nó nữa, tôi muốn tả một màu xanh ốc đảo, một khóm ô-a-xi… Khóm

tôi nhớ lại đ}y, không nằm sâu trong sa mạc Sahara. Một phép màu nhiệm

nữa của phi cơ l{ đưa thẳng ta vào ở giữa lòng của huyền bí. Phía sau vành

tròn cửa kính con tàu, anh làm nhà sinh vật học nghiên cứu về đ|m người

chen chúc trần gian, anh nhìn bằng con mắt vô tư, lòng không mảy may

rung động, những phố thị kia nằm giữa đồng bằng, nơi trung t}m những

đường ngang lối dọc xòe ra chia về chân trời bốn ngã. Và giống như những

đường mạch máu nuôi thân, mang tụ mật hoa đất đồng về nuôi phố thị.

Nhưng một mũi kim quay chợt rung động trên m|y đo sức ép, và cụm cây

xanh ấy, dưới kia, đ~ biến thành một vũ trụ. Anh làm tên tù, hãm thân trong

một bãi cỏ giữa một khu vườn đang ôm mộng ngủ yên.

Cách trở không ước lượng độ xa xôi. Xa xôi không hẳn là cách biệt.

Bức tường ngăn một khu vườn xứ nhà vẫn có thể khép bọc nhiều bí mật

hơn trường thành vạn lý Trung Hoa, và linh hồn một cô gái nhỏ vẫn có thể

được che giữ bằng sự im lặng, còn kín đ|o hơn cả giữa giãi cát dày dằng dặc

che giấu những Oasis trong Sahara.

Tôi kể lại đ}y c|i lần ghé lại chốn kia một buổi. Chốn ấy ở gần

Concordia, xứ Argentine, nhưng cũng có thể là một nơi n{o bất cứ: bí mật

tr{n lan l{ như vậy, ai biết chắc chắn là hẳn riêng chỗ nào.

Tôi hạ cánh trên một khoảng đồng, không hề biết là mình sắp được

sống một chuyện thần tiên. Chiếc xe Ford cũ kỹ chở tôi không có gì đặc biệt,

v{ cũng không đặc biệt gì cặp vợ chồng hiền hòa yên tĩnh đón tôi.

- Chúng tôi mời ông nghỉ lại nhà tối nay…

Nhưng qua một khúc quanh, một chòm cây xuất hiện dưới trăng v{ng,

và sau chòm cây là ngôi nhà ấy. Một ngôi nhà kỳ lạ. Thấp, nặng, to, gần như

một cung th{nh. Cung điện của huyền hoặc hoang đường, ta vừa bước qua

ngõ rộng, liền được đưa v{o một cõi trú yên tĩnh, chắc chắn, được bảo đảm bền vững như trong một nhà tu.

Rồi hiện ra hai thiếu nữ. Gái trang nghiêm nhìn tôi sòng sọc, như hai vị

quan tòa giữ cửa một cấm cung: cô nhỏ tuổi bĩu môi trề ra một cái, cầm

chiếc đũa gỗ lục gõ nhè nhẹ lên mặt đất, rồi lúc giới thiệu xong, hai cô chìa

tay cho tôi bắt, không nói nửa lời, với một kẻ th|ch đố lạ lùng, và biến mất.

Tôi vừa vui vừa thích thú. Sự việc sao đơn sơ, lặng lẽ v{ lén chùng như

cái tiếng đầu tiên của một niềm bí ẩn.

- Hừ! Hừ! Chúng nó man rợ lắm. Người cha thản nhiên nói.

Chúng tôi vào nhà.

Ở Paraguay, tôi từng đ~ yêu một thứ cỏ ngạo đời cắc cớ, cứ lò đầu

trong kẹt đ| lót đường ở thủ đô, một loại cỏ của rừng thẳm nào vô hình mà

hiện diện, cứ mò vào thành phố coi chừng thử con người còn ở đấy hay thôi,

coi chừng thử xem đ~ tới giờ cần nên xô những lớp đ| sỏi kia cho nh{o chơi

tí chút. Tôi yêu thích cái dáng dấp tàn phế rụng rơi kia, nó biểu hiện một

giàu sang quá lớn. Nhưng tại nơi đ}y, tôi đ~ b{ng ho{ng th|n phục.

Bởi vì tất cả tại đ}y cùng thi đua nhau m{ t{n phế, và tàn phế một cách

đ|ng yêu, đ|ng yêu say đắm, tàn phế theo điệu một cây cổ thụ đầy rêu trên

mình, và vỏ da nứt rạn vì thời gian, tàn phế theo lối chiếc ghế gỗ dài nằm im

để cho người hai thế hệ uyên ương tới ngồi tình tự. Tại đ}y, ghế, bàn, tủ cái,

tủ con, đều mòn rã, những cánh cửa rạc rời, những ghế dựa long chân. Tuy

nhiên, đồ đạc hư, không được chữa, mà chùi rửa thì lại được chùi rửa với

tất cả nhiệt tình. Tất cả đều sạch sẽ, bóng nho|ng, s|ng trưng.

Phòng khách vì thế có một bộ mặt nồng nã dị thường, như khuôn mặt

một b{ l~o nhăn nheo. V|ch rạn, tường hư, trần nứt, tôi đăm chiêu yêu dấu,

và si mê nhiều nhứt là cái sàn nhà loang lổ, sập chỗ này, xiêu chỗ nọ, như

chiếc thang tàu thủy lay lắt phiêu bồng, nhưng nhất thiết luôn luôn được lau

chùi bóng lộn. Ôi ngôi nhà kỳ ảo, không gợi gì là cẩu thả lai rai, chỉ xui lòng

không cùng kính thán. Mỗi năm qua, c{ng gia tăng mùi hương cho dáng

điệu, thêm một chút nồng cho khuôn mặt phức tạp đa duyên, thêm một chút

đượm lừng cho đựng tụ mối nhiệt thành trong bầu không khí giao loan,

cũng như thêm một chút hiểm nguy cho cuộc hành trình phải đi trên con đường từ phòng khách tới phòng ăn.

- Coi chừng!

Một lỗ hổng. Người ta nhắc cho tôi nhớ rằng với một cái lỗ hổng như

thế, tôi để lọt chân vào, là có thể gãy giò cẳng như chơi. C|i lỗ kia, đ}u có tại

người o|i oăm m{ có. Không ai chịu trách nhiệm cả. Đó l{ sự vụ thời gian.

Công trình của ng{y th|ng. Người ta ngang nhiên không xin lỗi nhau, đó l{

c|ch điệu huy hoàng của vương chúa. Người ta không bảo tôi: “Chúng tôi

cũng có thể trám cái lỗ kia lại, chúng tôi có tiền, tuy nhiên…” Người ta cũng

chả bảo tôi – tuy nhiên là chuyện thật – “Chúng tôi thuê c|i đó tại nhà chủ ở

thành phố, thời hạn ba mươi năm. Th{nh phố phải liệu tu bổ lấy. Bên nào

cũng nằng nặc…” Người ta coi thường, không giải thích, và tôi phải thán

phục c|i phong độ đĩnh đạc kia. Nhiều lắm l{ người ta nhắc tôi:

- Hừ! Hừ! Hư hỏng chút ít đó…

Nhưng với cái giọng thật nhẹ nhàng, nên tôi ngờ là các bạn tôi đ}y chả

lấy đó l{m điều chi cho r|o. Tôi đ}u d|m tưởng ra một đo{n thợ nề, thợ

mộc, thợ trần nh{, lũ lượt tới giữa một bầu quá khứ thơ ng}y dịu ngọt như

thế; m{ đem bầy ra một mớ những đồ nghề sắc tục hỗn mang, và trong tám

ngày liền, loay hoay làm lại cho ta một ngôi nhà khác, xa lạ hoàn toàn, ta

chưa hề biết, tư tưởng tới viếng thăm? Một ngôi nhà không quá khứ mông

lung, không niềm riêng man mác, không ẩn mật gốc tròn, không kín bưng

hầm méo, không xó hóc hang xiêu – một thứ sa lông nơi tòa nhị sảnh?

Trong ngôi nhà có lắm ngõ ng|ch o|i oăm n{y, hai cô g|i có biến mất

cũng l{ chuyện tự nhiên. Cái vựa chứa lúa trong nhà này thật sự nó ra làm

sao, khi m{ căn phòng kh|ch cũng đ~ chứa một kho tàng của vựa thóc! Khi

người ta đo|n chắc rằng bất cứ một ngăn tủ nhỏ nào mở hé ra cũng sẽ thấy

đổ ào xuống nào những xấp thư v{ng xạm, những giấy tờ, những thư chứng,

khế ước của cụ cố ng{y xưa, v{ vô số những chiếc chìa khóa, nhiều gấp mấy

lần số ổ khóa trong nhà, và cố nhiên không chìa n{o ăn nhập ổ nào cả!

Những chìa khóa tuyệt vời vô dụng, ngẫm mà xem thì lý trí chỉ xin chịu lơ

l|o đầu h{ng, chúng xui ta mơ m{ng nghĩ tới những kho hầm dưới đất;

những đống tiền vàng.

- Xin hạ cố sang phòng ăn.

Chúng tôi ngồi vào bàn. Phảng phất khắp nơi một mùi thư viện cũ từ

phòng này sang phòng khác, vẫn man m|c hương trầm, thơm tho hơn tất cả

những mùi hương trong thiên hạ. Và tôi thích nhất cái cảnh tượng dời các

ngọn đèn. Những c}y đèn thật sự, to và nặng, người ta phải mang dời từ

phòng n{y sang phòng kh|c, như c|i thời xa thăm thẳm trong tuổi thơ tôi,

dời đèn đi thì bao nhiêu hình bóng huyền ảo chập chờn di động nhảy múa

trên những bức tường. Rồi, một khi những ngọn đèn nằm yên đ}u v{o đó,

thì những dãi ánh sáng tỏa từng vùng cũng nằm im, bất động, và những

khoảng tối lớn rộng xung quanh cũng không xê dịch nữa, chỉ còn nghe tiếng

gỗ kêu răng rắc ở trong đó m{ thôi.

Hai cô con gái lại hiện ra, cũng huyền bí, cũng im lìm như lúc biến mất

trước đ}y. Họ trang trọng ngồi bàn. Chắc là vừa rồi họ đ~ mang thức ăn cho

chó, cho chim chóc họ nuôi, họ đ~ mở cửa sổ cho đêm xanh trăng tỏ đi v{o,

v{ đ~ hít v{o trong hai lồng ngực mênh mông những mùi hương }n tình của

hoa cỏ trong cơn gió đêm lẽo đẽo bay về. Giờ đ}y, hai cô mở tấm khăn ăn,

kín đ|o nhìn tôi, thận trọng dò xét, tự hỏi không biết có nên sắp đặt tôi vào

nằm trong số những thú vật thân thuộc họ nuôi. Bởi vì hai cô cũng đ~ có

một con kỳ đ{, một con cầy hôi, một con chồn, một con khỉ và một bầy ong.

Mọi thứ đó sống chung lộn lạo, ăn ý hợp tình nhau lắm, họp thành một thiên

đường mới mẻ ở trên đất trần gian. Hai cô trị vì trên mọi thú vật ở thế gian,

vuốt ve chúng với những bàn tay nhỏ ngón thon thon, cho chúng ăn, cho

chúng uống, kể cho chúng nghe những câu chuyện mà từ con cầy hôi tới bầy

ong đông đảo, thảy đều chăm chú lắng tai.

V{ tôi d|m nghĩ rằng hai cô gái linh hoạt đến thế, ắt phải đem tất cả óc

xét đo|n tế nhị của mình ra để mà nhận định về c|i g~ đ{n ông ngồi đối

diện, nhận định nhanh, kín đ|o v{ đúng vô cùng. Hồi tôi còn nhỏ, các chị tôi

cũng thường “cho điểm” những người khách lần đầu tiên tới dự tiệc trong

nhà. Và mỗi khi câu chuyện tàn bỗng nhiên nghe giữa lặng lẽ vang lên một

tiếng:

- Mười một!

Mà ngoài các chị tôi và tôi, không ai hiểu được ý nghĩa cợt đùa thích

thú trong đó.

Tôi đ~ từng biết trò chơi đó nên b}y giờ thấy ngài ngại chút ít. Và càng

ngượng ngùng bối rối hơn, vì cảm thấy hai vị quan tòa qu| am tường ngành

ngọn. Những vị ph|n quan đ~ quen ph}n biệt những con vật giảo hoạt với

những con vật thơ ng}y, biết xem bước chân chồn đi m{ nhận ra khi nó

lành, khi nó dữ, lúc nào nó cho phép lại bên gùn ghè, lúc nào nó phát cáu cự

tuyệt. Hỡi ôi! Những vị quan tòa t{i ba như thế, gieo làn khía cạnh mà thấu

suốt những đợt động triều, tận đ|y thẳm tâm linh.

Tôi yêu mến những cặp mắt tinh ranh và những tâm hồn ngay thẳng

đó, nhưng thật cũng rất mong họ thay đổi c|ch chơi. Tôi đớn hèn, tôi sợ cái

điểm “mười một”, nên vồn vã chuyền muối cho hai cô, rót rượu cho hai cô,

những lúc ngẩng lên nhìn vẫn thấy trở lại trong đôi mắt hai cô vẫn nguyên

vẻ trang trọng dịu dàng của những vị quan tòa không ai lung lạc được.

Nịnh họ có lẽ cũng vô ích: họ không hề biết khoe khoang phù phiếm.

Không khoe khoang phù phiếm, nhưng rất có lộng lẫy tự kiêu, và không cần

nhớ tới tôi, họ cũng tự gán cho mình nhiều thứ tốt tươi m{ chắc tôi không

d|m nói. Tôi cũng không mong đem nghề nghiệp mình m{ lòe ai được, vì

chắc gì l|i phi cơ đ~ t|o gan bằng việc leo lên chót vót ngọn dương ngô đồng

m{ thăm chơi một cái tổ chim, coi chừng xem cái tổ chim non mới nở đ~

mọc cánh tốt tươi chưa, v{ ch{o qua c|c bạn tí hon cho tốt tươi một tiếng.

Hai nàng tiên lặng lẽ vẫn dò chừng cẩn thận bữa ăn của tôi, tôi bắt gặp

m~i c|i nhìn kín đ|o của họ, cho đến nỗi tôi nao lòng không còn biết nói chi.

Bỗng dưng m{ im lặng, v{ trong cơn im lặng đó, bỗng dưng nghe như có c|i

gì thổ, “xít, xít” dưới s{n nh{, sè sè lướt dưới b{n ăn rồi nín bặt. Tôi ngạc

nhiên, ngước mắt tò mò. Cô em nhỏ tuổi, bây giờ như chừng đ~ h{i lòng

trong sự nhận xét của mình nhưng còn muốn thử thêm cú chót cho thật

chắc vàng thau, cô gặm sâu vào mẩu bánh mỳ với h{m răng non man rợ, cô

mới vắn tắt cắt nghĩa cho tôi nghe bằng một dáng dấp thơ ng}y băng tuyết,

cô muốn làm cho cái gã mọi rợ trước mắt mình phải sửng sốt một trận mà

chơi, nếu thật tình g~ ta đúng l{ thằng mọi rợ:

- Mấy con rắn lục đó.

Và ngậm môi, nín lặng, h{i lòng, như tuồng lời giải thích chất hằng phỉ

phong kia hẳn là phải đủ đầy lắm lắm đối với kẻ nào không quá tối dạ lần

khần. Cô chị liếc nhìn tôi một cái thật nhanh để xem thử c|i cơn đầu tôi

phản ứng ra sao, và cả hai cùng một lần cúi gầm xuống dĩa ăn một khuôn

mặt kiều diễm dịu d{ng thơ ng}y nhất ở trong cõi trăm năm.

- À! Té ra là rắn lục…

Hồn hồn ngạc ngạc, những lời đó rúc từ môi miệng của tôi ra. Ha!

Những thứ của lạ đa đoan kia đ~ bò lòn v{o trong ống chân tôi, nghe có

tiếng nhột nhột cho c|i tr|i ch}n, v{ đó l{ té ra mấy con rắn lục…

May làm sao là tôi mỉm cười. Và không có chiều gượng gạo. Hẳn hay

cô n{ng đ~ cảm thấy chứ ru! Tôi mỉm cười vì tôi sung sướng, tôi mỉm cười

vì mỗi phút cứ mỗi cảm thấy c|i căn nh{ c{ng khả ái thêm ra; tôi mỉm cười

cùng vì sao với ước mong biết thêm những cơn phiêu bồng hồn rắn lục. Thì

cô chị nhoẻn nụ cười dìu dặt giúp tôi:

- Chúng làm tổ trong cái hang ở dưới gầm b{n đấy.

Cô em nói lời theo.

- Khoảng mười giờ tối chúng mò về. Ban ng{y, chúng săn mồi.

Tới lượt tôi bây giờ lén nhìn trộm hai cô một cái. Họ tế nhị thông

minh, họ âm thầm cười nụ ở phía sau hai khuôn mặt điềm tĩnh phiêu bồng.

Thật khôn xiết uy quyền nữ chúa…

Ngày nay tôi mộng lại. Những c|i gì đó đ~ xa xôi. Mất cả rồi? Hai nàng

tiên ấy bây giờ ra sao? Đ~ lấy chồng? Thế ra l{ thay đổi? Từ cõi miền thiếu

nữ bước sang bờ thiếu phụ, tình trạng đó có trầm trọng? Có lâm ly? Hai

n{ng l{m gì trong căn nh{ mới? Những mối gi}y ban đầu chấm dứt? Những

tơ cỏ rối bời và những con rắn lục đ~ đi đ}u? C|c n{ng đ~ từng hòa thân

trong cái gì của càn khôn lớn rộng. Nhưng một ngày về, đ~ đ|nh thức hồn

thiếu phụ trong tấm linh hồn tuyết bạch g|i thơ ng}y. Người ta mơ tao

phùng để ban cho ai một điểm mười chín. Mười chín điểm! Con số đó trĩu

nặng ở đ|y lòng. Thì bỗng dưng một g~ đần, lai rai xuất hiện. Bỗng làm viễn

khách tới trình diện nhị cô nương. Lần đầu tiên, con mắt lịch duyệt tinh ranh của cô nương bỗng nhầm lẫn. Cô đem m{u lộng lẫy m{ trang điểm gã

lai rai. Chàng bê bối đọc thơ cho cô nghe, cô vội tưởng chàng ta chính danh

thi sĩ. Bé c|i nhầm là rứa đó, hỡi người ta. Người ta tưởng gã lai rai không

phải người ngốc nghếch. Người ta tưởng g~ lĩnh hội thông suốt những diễm

kiều trong lỗ hổng nh{ người ta. Người ta tưởng g~ cũng yêu cầy hôi, chồn

h|m. Người ta tưởng hắn hài lòng vì rắn lục tin yêu, lay lắt bò leo trong ống

chân, gặm b{n bên dưới. Người ta đem tr|i tim mình ban cho g~, một trái

tim tròn trịa chất chứa mộng vườn hoang. Mà gã ta chỉ thích c|i khu vườn

vun vén. C}u khư thất khiếu lên đường, g~ lai rai đ~ mang nường tiên đi…

VI

TRONG SA MẠC

1

Những êm dịu thế kia chúng tôi không được phép hưởng thụ. Hằng

tuần, hằng tháng, hằng năm, l{m th}n phi công trên độ đường Sahara,

chúng tôi hãm thân mình trong cát, di chuyển từ lũy n{y sang lũy kia, không

về. Sa mạc này tuyệt nhiên không có những bóng xanh tương tự: vườn cây,

thiếu nữ là chuyện hoang đường. Cố nhiên, phương trời xa, nơi chúng tôi sẽ

quay về ngày sau, lúc xong phận sự, có hàng ngàn thiếu nữ chờ đón chúng

tôi. Cố nhiên, nơi xa ấy, ngày ngày nô giỡn với chồn hôi hoặc đọc sách,

những thiếu nữ đó đương kiên nhẫn sửa sang linh hồn cho dịu ngọt. Lẽ cố

nhiên, họ lộng lẫy thêm ra…

Nhưng tôi biết cảnh cô đơn. Ba năm lăn lộn trong sa mạc, té ra tôi đ~

quen mùi. Ở đ}y, ta không lo sợ tuổi xuân tàn tạ trong sa thành khô khan. Ở

đ}y ta lại thấy rằng, ở xa ta, chính trần gian đương gi{ cỗi. Cây cối đ~ đ}m

hoa kết tr|i, đất đai đ~ nảy nở lúa vàng, phụ nữ đ~ tới kỳ kiềm diễm. Nhưng

mùa chuyển nhanh, phải gắng về vội v~… Nhưng mùa chuyển gấp, mà ta còn

bận bịu nơi xa… V{ những của quý trần gian cứ lọt qua kẽ tay như c|t mịn

cồn gò.

Thời gian trôi, trôi m~i, nhưng con người thường không lưu t}m nhận

thấy. Họ sống trong yên bình tạm bợ. Nhưng bỗng nhiên chúng tôi nhận

thấy điều đó một lần hạ cánh xuống trạm nghỉ, gặp trận gió Tây liên miên

thổi tới. Chúng tôi giống như người đi t{u lửa tốc hành, tai nghe ầm ầm

tiếng bánh sắt nghiến trong đêm tăm, mắt nhìn những |nh đèn lo|ng

thoáng vung vải bên kia miếng kính cửa tàu nối đuôi nhau chạy giật lùi, mà

hình dung những c|nh đồng lai láng, những thôn xóm êm đềm, những cõi

miền huyền ảo, mà mình chẳng cầm giữ được chút gì, vì còn bận chuyến đi.

Chúng tôi cũng vậy, lòng còn bận rộn, tai còn ù vì tiếng động cơ lúc đang

bay, chúng tôi vẫn còn cảm thấy mình đang xê dịch trên dặm đường, mặc dù

hiện đang đứng yên bình nơi trạm nghỉ. Chúng tôi cảm thấy mình cũng

đương bị cuốn hút về một cõi tương lai vô định, xuyên qua ý gió, bởi nhịp

động của máu tim.

Mỗi bất hòa ở vùng phiến loạn càng xui sa mạc heo hút thêm. Những

đêm d{i tại Cap Juby, cứ mười lăm phút lại nghe tiếng hú của bọn lính gác

gọi nhau vọng từ điếm canh n{y sang điếm canh khác, khẩu hiệu cầm canh

gióng giả từng hồi như chuông đồng hồ điểm. Ph|o đ{i T}y Ban Nha ở Cap

Juby nằm sâu trong vùng phiến loạn, họ cần phải làm thế để phòng ngừa

những hăm dọa vô hình, những hiểm nguy không phô khuôn mặt. Và chúng

tôi, những du khách trên chuyến t{u mù tăm ấy, chúng tôi lắng nghe tiếng

hú từ xa lại, lớn dần, lớn mãi, và vây bọc chúng tôi như đường vòng bay của

hải điểu.

Tuy thế mặc dù, chúng tôi đ~ yêu sa mạc.

Nếu bạn sợ sa mạc chỉ là trống không và vắng lặng, ấy bởi vì nó không

chịu hiến thân cho cuộc trăng gió một ngày. Một thôn l{ng đơn sơ ở xứ

mình cũng đ~ ngại ngùng nép mặt. Nếu ta không vì nó mà từ bỏ những thứ

khác bên ngoài, nếu ta không chịu vào trong thói nhà phỉ phong truyền

thống nó, không chịu theo tập tục của nó, không chịu chia xẻ những cạnh

tranh, những kháng cự dữ dàng theo thói của nó, chúng ta sẽ hoàn toàn

chẳng biết chút gì về c|i cõi quê hương m{ thôn l{ng đó lập riêng cho một

v{i người. Phải thế chăng? C|ch ta v{i bước, một kẻ sống ẩn thân trong tu

viện, sống theo những quy tắc, lề lối xa lạ với ta, kẻ đó quả thật cách biệt ta

hơn mười vạn hoang vắng quan san, trong một cõi xa xôi không phi cơ n{o

bay tới được. Ta tìm viếng thăm chi trong hang của họ. Nó trống rỗng. Vũ

trụ con người ta l{ vũ trụ nội tại. Sa mạc cũng vậy, sa mạc không phải chỉ là

cát, chỉ là dân Touareg hoặc người Maure, cho dẫu Maure có súng, cho dẫu

Touareg có ca-nông.

Nhưng chính bữa nay, chúng tôi vừa trải qua một trận khát. Và cái

giếng chúng tôi đ~ từng biết từ lâu, chính bữa nay, riêng bữa nay thôi,

chúng tôi mới thật khám phá thấy nó rạng tỏa mênh mông. Một người đ{n

b{ vô hình cũng có thể g}y man m|c đầm ấm cho khắp một căn nh{. Một cái

giếng cũng vang xa r{o rạt, như tình yêu vậy.

C|t ban sơ vốn là hoang vắng. Rồi một ngày lo sợ một trận giặc cướp

tới gần, chúng ta đọc trên cát những nếp gấp của tấm áo bao la mà hiểm họa

đ~ tự phủ lên thân mình. Giặc cướp đ~ biến dạng cát.

Chúng tôi chấp thuận luật tắc của cuộc chơi. Cuộc chơi rèn luyện

chúng tôi theo hình ảnh nó. Sa mạc, chính tại lòng ta l{ nơi nó biểu hiện. Ghé

bờ sa mạc là gì? Không phải là vào viếng thăm ốc đảo. Ghé bờ sa mạc là:

sùng mộ nguồn nước giếng như một tôn giáo thiêng liêng.

2

Ngay chuyến bay đầu tiên, tôi đ~ bén mùi sa mạc. Chúng tôi ba người,

hai bạn Riguelle, Guillaumet v{ tôi, rơi s|t cạnh đồn binh Nouatchott. Cái

đồn nhỏ này ở Mauritaine, thủa đó cô lập như một đảo nhỏ đơn sơ đơn

chiếc lạc hồn trong dặm biển. Một người đội già sống biệt lập nơi đ}y với

mười lăm b|c da đen Sénégalais. Họ tiếp chúng tôi như tiếp sứ giả nhà Trời.

- A! Được nói chuyện với các anh, thật đ|ng nên c|i đời một cách! Cảm

kích lắm. Cảm động lắm.

Viên đội cảm động thật, ông ta khóc:

- Ròng rã sáu tháng nay, các anh là những người thứ nhất tới đ}y. S|u

tháng một lần, người ta tải lương thực tới cho tôi. Khi thì trung úy, khi thì

đại úy. Lần sau cùng, chính l{ đại úy…

Chúng tôi thì còn đang b{ng ho{ng. Dakar còn c|ch hai giờ đường, bữa

ăn trưa chờ chúng tôi tại đó, một cái trục long đi, v{ con người ta cũng đổi

luôn định mệnh. Chúng tôi trở thành những thiên thần hiện xuống bên viên

đội gi{ đang khóc như mưa giông.

- Này! Các anh uống đi chứ! Mời rượu các anh, lòng tôi vui quá. Các

anh nghĩ xem! Lần đại úy tới, tôi chẳng có một giọt rượu n{o để mời ngài

xơi cả đó.

Tôi ghi chuyện này vào trong một cuốn s|ch nhưng l{ chuyện thực,

chớ không phải chuyện tiểu thuyết. Viên đội già bảo chúng tôi:

- Lần đó tôi không n}ng ly chạm cốc được… Tôi xấu hổ quá nên phải

xin đổi đi nơi kh|c.

Chạm cốc! Chạm mạnh một cốc với một người kia từ trên lưng con lạc

đ{ phóng xuống, nhễ nhại mồ hôi. Suốt sáu tháng tròn, sống là cốt đón chờ

c|i phút đó. Từ một th|ng nay, người ta lau chùi võ khí, quét dọn sạch sẽ lũy

hào. Và từ mấy hôm nay, bén mùi đ|nh hơi, biết là ngày vui sắp lại, người ta

leo lên tầng cao để trông chừng về cái phía chân trời, liên miên nhìn không

biết mỏi, ngóng chờ xuất hiện c|i đ|m bụi tung lên và cuộn tròn trong đó

đội qu}n di động từ Atar phi về…

Nhưng rượu hết rồi. Hết rượu rồi thì người ta không thể đón mừng

ngày hội. Người ta không chạm cốc. Người ta thấy mình mất hết thanh danh.

Đời m{ đến thế thời thôi. Giờ mong đợi cũng l{ giờ bỏ đi…

- Tôi nóng lòng chờ đại úy trở lại: Tôi nóng lòng chờ…

- Ông ta hiện đang ở đ}u, thầy đội?

Viên đội đưa tay chỉ vào trong cát rộng:

- Làm sao mà biết. Đại úy thì ở khắp nơi.

Đêm hôm ấy cũng l{ đêm thật, c|i đêm chúng tôi nằm khoèo trên chóp

lũy m{ b{n chuyện ngàn sao. Không còn trông vời đ|m bụi nữa. Ngàn sao ở

đó, đầy đủ sa số hằng h{, như lúc l|i phi cơ, nhưng b}y giờ đứng im mà vằng

vặc.

Ngồi trên phi cơ những đêm trời đẹp qu|, người ta lơ đ~ng bỏ rơi tay

lái, và chiếc phi cơ nghiêng dần về phía tả. Tưởng nó vẫn ngay ngắn như

thường lệ bay đi, bỗng nhiên người ta chợt ngó thấy một khu làng khang

tịnh, khinh khiêu ở dưới c|nh phi cơ phía tay phải. Nhưng trong sa mạc

không có khu làng. Ắt phải là khu vực của đo{n t{u đ|nh c| dặm khơi. Dặm

khơi n{o? V}y bọc Sahara, không có khu vực đo{n t{u dặm khơi ch{i c|. Vậy

thì? Vậy thì người ta đ{nh mỉm cười chuyện nhầm lẫn lộn xộn. Và dịu dàng,

xin sửa lại đường bay. V{ khu l{ng ban sơ lại trở về đúng nguyên vị trí.

Hồng nhan được trả lại gốc phần. Ta giao lại cho nền trời, chòm sao ta vừa

để cho rụng xuống.

Khu l{ng ư? V}ng. Khu l{ng thanh tịnh ạ. Khu làng thanh tú, xóm tịnh

ng{n sao. Nhưng trên chóp đồn nhỏ, trông lên chỉ còn như một sa mạc giá băng như tê cóng, như những đợt sóng cát im lìm. Những chòm sao gắn chặt

ở vòm trời. Viên đội già bảo:

- Này nhé! Tôi thạo phương hướng lắm. Nhắm thẳng theo vì sao này,

là thẳng tiến tới Tunis.

- Thầy quê ở Tunis chắc?

- Không. Cô em họ tôi ở đấy.

Im lặng kéo dài rất l}u. Nhưng viên đội không dám giấu chúng tôi một

điều gì cả:

- Rồi thế n{o cũng có ng{y tôi đi Tunis.

V}ng, đi Tunis bằng một con đường khác, chứ không phải nhắm thẳng

lên vì sao kia. Trừ phi, trong một cuộc h{nh trình n{o đó, một nguồn giếng

cạn không bất ngờ xô ông vào cõi mộng bấn loạn của tình điên. Tới lúc đó,

thì cả ngôi sao, và cô em họ, và phố Tunis sẽ hòa chung một trận. Tới khi đó

là khởi đầu cuộc viễn du lai láng thần v{ tiên, m{ người phàm vốn tưởng là

đau xót.

- Đ~ có lần tôi xin Đại úy cho phép về Tunis thăm người em gái họ.

Nhưng đại úy trả lời rằng…

- Trả lời rằng sao?

- Trả lời rằng: “Trong thế gian này chứa đầy xiết bao là cô em họ g|i”.

Rồi vì muốn chỉ vẽ lối gần, đại úy cho tôi đi Dakar.

- Cô ấy đẹp chứ, cô em họ thầy?

- Cô em họ ở Tunis? Quyết nhiên l{ đẹp. Cô ta tóc v{ng lơ.

- Cô ở Dakar? Hẳn là chịu sút?

Thầy đội ơi, tôi chỉ muốn ôm hôn thầy vì câu trả lời nửa sầu nửa hận:

- Cô ấy vốn người da đen… chiêm bao bờ cỏ…

Sa mạc của thầy rồi? Phải thế ru? Hay chính một Thần Linh thiên thu

về gọi? Hay cũng là nguồn dịu ngọt trong suối tóc hồng v{ng, v{ đìu hiu th}n

thể của cô em họ xa vời, dặm nghìn nước thẳm ở cách thầy năm nghìn c}y

số sa mạc bên kia?

Còn sa mạc chúng tôi? Là những gì nảy nở ở trong tôi. Những gì chúng

tôi hiểu biết về chính chúng tôi. Trong đêm ấy bọn chúng tôi cũng tha thiết

yêu thầm một người em gái họ và một vị quan ba.

3

Ở sát bờ những vùng phiến loạn, Port-Étienne không phải là một

thành phố. Một c|i lũy, một căn nh{ chứa phi cơ, v{ một cái trạm bằng ván

gỗ l{m nơi tạm trú cho bọn phi công chúng tôi. Sa mạc ở xung quanh trùng

trùng điệp điệp, vì vậy cho nên sa mạc dù Port-Étienne không dồi dào quân

khí, nó vẫn là một địa điểm rất khó tranh cường mà thủ thắng. Muốn tấn

công nó, phải vượt qua một dãi cát và lửa bát ngát, cho nên bọn loạn quân

tiến vào tới nơi thì đ~ kiệt lực, sau khi đ~ cạn sạch hết bao nhiêu lương thực

v{ nước súc trữ. Tuy nhiên từ c|c vùng phương Bắc lại, thường vẫn có một

đội loạn quân tiến về phía Port-Étienne. Mỗi lần vị đại úy toàn quyền tới

thăm chúng tôi v{ uống một tuần trà, ông mở địa đồ ra và vạch cho chúng

tôi nhìn xem con đường tiến tới của bọn loạn qu}n, như kể cho chúng tôi

nghe chuyện một công chúa n{o xưa trong cổ tích. Nhưng đ|m loạn quân

không bao giờ tới đích, họ bị c|t ăn mòn hút cạn như hút nước một dòng

sông, và chúng tôi gọi họ là loạn quân ma. Mớ đạn nhà cầm quyền cho

chúng tôi mỗi đêm, vẫn nằm yên ổn ở dưới ch}n giường, trong thùng chứa.

Và chúng tôi chẳng có địch thủ n{o để đấu chọi, ngoài sự chiến đấu với vắng

vẻ, chúng tôi chẳng có gì che chở ngoài sự che chở bảo đảm nhất, là nỗi cùng

khốn của mình. Và Lucas, chỉ huy sân bay, chỉ biết có ng{y đêm liên miên

vặn máy hát, và ở xa vắng qu| đối với cuộc đời, máy hát phát những âm

thanh nghe chừng như ngôn ngữ lạ, và gây một mối sầu vô cớ, sao lại giống

lạ lùng mối u sầu những khi kh|t nước dưới trời xanh.

Tối hôm đó, chúng tôi dùng bữa trong lũy, vị đại úy toàn quyền mời

chúng tôi thưởng ngoạn thửa vườn ông. Ông đ~ nhận được từ Pháp gửi

sang, ba thùng đất đ~ vượt bốn nghìn cây số để tới đ}y. Trên đ|m đất ấy bây giờ đ~ mọc ba chiếc l| xanh, chúng tôi đưa ngón tay m}n mê như m}n mê

những hòn ngọc. Nói tới đó, vị đại úy bảo: “Thửa vườn của tôi đó”. V{ mỗi

khi gió cát thổi qua, thổi cháy hết vạn vật, thì người ta mang thửa vườn đi

giấu kỹ ở dưới hầm.

Chúng tôi ở c|ch ph|o đ{i một cây số, lúc ăn xong, chúng tôi quay trở

về, đi dưới bóng trăng. Dưới bóng trăng, c|t điểm màu hồng. Chúng tôi cảm

thấy mình x|c xơ, nhưng c|t điểm màu hồng. Nhưng một tiếng gọi của lính

canh bỗng xô bi thống vào giữa cõi miền. Đó l{ to{n b~i Sahara đang rùng

mình nhìn thấy bóng chúng tôi, và lên tiếng hỏi, vì một đ|m loạn qu}n cũng

đương tiến về.

Trong tiếng kêu của người lính canh, tất cả mọi âm thanh của sa mạc

vang dội về một lúc. Sa mạc không còn là một ngôi nhà vắng: một đoàn

người Maure truyền từ khí cho đêm trường.

Chúng tôi có thể tưởng mình được yên lành. Thế nhưng! Bệnh tật, tai

nạn, loạn qu}n, bao nhiêu hăm dọa đương lò dò bước tới! Con người là cái

đích trên mặt đất để cho những cung tên ẩn kín bắn tới. V{ người lính canh

da đen vừa nhắc lại điều đó, như một tiên tri.

Chúng tôi đ|p: “Chúng tôi l{ người Ph|p!” v{ bước qua trước các vị

thiên thần đen. V{ hô hấp dễ chịu hơn. Mối hăm dọa kia đem lại cho chúng

tôi một niềm cao nhã. Ô còn xa lắm lắm, chẳng cấp bách gì, còn bị ngăn chặn

hòa hoãn bởi c|t b~i mênh mông: nhưng thế giới không còn như trước. Sa

mạc đ~ trở thành lộng lẫy xiết bao. Một đội loạn quân cất bước đi đ}u đó,

dẫu không bao giờ tới được tại đ}y, đ~ đem về cho sa mạc một thần tính

thiêng liêng.

Bây giờ đ~ mười một giờ đêm. Lucas từ máy vô tuyến đến cho tôi hay

l{ phi cơ Dakar sẽ tới lúc nửa đêm. Trên t{u vô sự. Mười hai giờ mười, thư

từ trên t{u đó sẽ chuyển sang xong xuôi tại tàu tôi, và tôi sẽ cất cánh về

phương Bắc. Trước tấm gương sứt mẻ, tôi chăm chú cạo râu. Thỉnh thoảng

giữ nguyên khăn cho{ng cổ, tôi bước lại bên cửa nhìn ra mặt cát bên ngoài.

Trời tốt, nhưng gió đ~ ngừng thổi. Tôi trở lại bên tấm gương. Tôi suy nghĩ

mông lung. Một thứ gió thổi, thổi cho hàng tháng, nếu bỗng dưng m{ ngừng,

ắt phải làm rộn cả thinh không. Bây giờ, tôi đeo v{o người: các thứ đèn cấp

cứu đeo v{o nịt lưng, m|y đo độ cao, bút chì. Tôi đi tìm Néri, anh bạn vô tuyến tối nay trên t{u. Anh cũng đương cạo râu. Tôi hỏi: “Không sao?”. Lúc

này, vâng, mọi sự không sao. Công việc soạn sửa này là công việc ít khó

nhọc nhất của chuyến bay. Nhưng tôi nghe một tiếng sè sè, một con chuồn

chuồn sa mạnh vào chiếc đèn bấm ở nịt lưng. Không hiểu sao, nó làm tôi

nao dạ.

Tôi ra ngoài nhìn: cảnh vật trong suốt. Một mô đất bọc sân bay nổi bật

trên nền trời, như giữa ban ngày vậy. Trên sa mạc, bầu không khí vắng vẻ

yên tịnh bao trùm. Nhưng khi đó, hai con chuồn chuồn và một con bướm lục

chạm đầu v{o đèn bấm của tôi. Một lần nữa, tôi cảm thấy nao lòng, một nỗi

gì khó hiểu, có lẽ là niềm vui, có lẽ là lo sợ, từ đ|y thẳm trỗi dậy, còn rất mơ

hồ, nhưng khe khẽ báo hiệu. Kẻ nào từ xa xăm đang nói gì với tôi. Phải là

linh tính chăng? Tôi lại bước ra: gió đ~ ngừng hẳn. Trời vẫn mát dịu. Nhưng

tôi đ~ đón nhận lời khuyến c|o. Tôi đo|n chừng, tôi tưởng đo|n ra điều tôi

chờ đợi: đúng chăng? Cả bầu trời, cả mặt c|t cũng không cho tôi dấu hiệu gì,

nhưng hai con chuồn chuồn đ~ lên lời, và một con bướm lục.

Tôi trèo lên đụn cát, và ngồi hướng mắt về phía Đông. Nếu tôi đo|n

không lầm, thì “c|i đó” chẳng còn chậm mấy đ}u. Hai con chuồn chuồn kia

tới đ}y tìm gì? Từ những cụm cây xanh giữa sa mạc, vượt h{ng trăm c}y số,

tới đ}y tìm gì?

Những mảnh nhỏ dạt dào bờ biển, báo cho biết rằng bão tố đương nổi

cơn cuồng nộ, ngo{i khơi. Thì mấy con côn trùng n{y cũng nói cho tôi biết

rằng một trận b~o c|t đương lên đường; một trận bão cát dậy từ phương

Đông, đ~ xô đuổi ra khỏi những b~i kè bao nhiêu đời bướm lục. Bọt bèo của

giông b~o đ~ bay tới chạm vào tôi. Và trầm trọng vô cùng vì đó l{ một bằng

chứng, và trầm trọng vô cùng vì đó l{ hăm dọa lớn lao, và trầm trọng vô

cùng vì nó chứa trong mình một cơn b~o tố, gió Đông đang dậy đ}y rồi. Cơn

gió xa xôi, tôi ở đ}y đón chút hơi thở nhẹ. Sóng động nghìn trùng, tôi ở đ}y

l{ điểm tận đợt sóng tr{o qua. Hai mươi thước phía sau tôi, không một sợi

tơ n{o run rẩy. Hơi nồng trận gió quyện lấy tôi một lần, một lần thôi, thoáng

qua như chừng đ~ tắt. Nhưng tôi biết rằng những phút giây sắp tới, Sahara

sẽ dậy cơn lần nữa, và thở đợt thứ hai. Không tới ba phút nữa thì con diều

gió trên nóc nhà chứa sẽ động mình phe phẩy. V{ mười phút nữa, cát bãi sẽ

tung trời. Chốc nữa tôi sẽ cất cánh trong biển lửa này, lửa sa mạc sắp trở về

thiêu nướng.

Nhưng đó không phải l{ điều kích động tôi. Điều xui tôi hứng thú tràn

trào trong niềm vui man dại, ấy là đ~ thấu hiểu một ngôn ngữ bí mật qua

một vài tiếng ngập ngừng, ấy l{ đ~ đ|nh hơi theo đuổi được một dấu vết,

không kh|c chi con người thái cổ chỉ nghe qua những tiếng động âm thầm,

cũng đo|n được cả tương lai đương b|o hiệu, ấy l{ tôi đ~ đọc được cơn

thịnh nộ của trời đất trong đôi c|nh đập của một con chuồn chuồn.

4

Ở đó, chúng tôi đ~ từng liên lạc với những người Maure nghịch loạn.

Từ những miền sâu cấm địa, họ mò ra những miền chúng tôi đ~ vượt qua

bằng phi cơ; họ lần mò men tới tận lũy Juby hoặc Cisneros để mua bánh mì,

đường hoặc chè uống, rồi quay trở về chìm trong bí mật của mình. Những

lúc gặp họ, chúng tôi có thử gắng cảm hóa một v{i người.

Nếu là thủ lĩnh có ảnh hưởng quan hệ, đôi lúc chúng tôi chở họ lên phi

cơ để chỉ cho họ xem cảnh tượng thế giới. Cũng l{ để đ|nh chìm lòng kiêu

ngạo của họ. Bởi vì chúng tôi biết sở dĩ họ giết hại tù nhân, ấy không phải vì

căm hờn, mà do lòng khinh bỉ. Gặp chúng tôi ở quanh quẩn đồn lũy, họ cũng

chả thèm chửi rủa. Họ chỉ quay mặt đi, v{ khạc nhổ. Lòng kiêu hãnh đó

chính do ảo tưởng mình mạnh m{ ra. Bao nhiêu người trong bọn họ, từng tổ

chức được những đội qu}n ba trăm tay súng, đ~ nhiều lần bảo chúng tôi:

“Nước Pháp các anh tốt phúc lắm vì ở xa chúng tôi hơn một trăm ng{y

đường”.

Chúng tôi chở họ đi ngoạn cảnh, và thế là lần hồi đ~ có ba người sang

viếng nước Pháp xa xôi. Họ thuộc dòng giống những kẻ một lần theo tôi

sang Sénégal, đ~ khóc ầm như mưa lúc được nhìn cây cối lần đầu tiên trong

đời.

Lúc gặp lại họ trong những căn lều vải, họ ca tụng mãi những rạp ca vũ

với những đ{n b{ khỏa thân nhảy múa giữa hoa tươi. Đó l{ những người

chưa bao giờ từng nhìn thấy một gốc cây, một cái lá cỏ, một mạch nước

giếng, một đóa hồng. Họ chỉ biết, qua kinh thánh Coran, là có những khu

vườn và khe suối chảy, đó l{ tên họ gọi cảnh Thiên Đường. Thiên Đường ấy

và những nàng Tiên diễm lệ trong đó, sẽ mở cửa đón mời người ta, người ta

sẽ nhận phần thưởng đó bằng cái chết xót xa trên cát quạnh, do ph|t đạn

của người ngoại đạo, sau ba mươi năm gian khổ khốn cùng. Nhưng Thượng Đế phỉnh phờ bọn họ, vì Thượng Đế cho người Ph|p hưởng mọi hoan lạc kia

mà chẳng đòi hỏi gì hết; không cần phải trả bằng đói kh|t, không cần phải

trả chủ bằng cái chết điêu linh. Thế nên bây giờ họ mơ tưởng, họ mơ tưởng

mãi, những tù trưởng gi{… Thế nên chi bây giờ nhìn ra bốn xung quanh căn

lều cho tới m~n đời mình, dãi Sahara chỉ hứa hẹn những lạc thú quá mong

manh, họ ngậm ngùi thả cái linh hồn buông ra câu tâm sự.

- N{y n{y… Thượng Đế của người Ph|p… Thượng Đế của người Pháp

rộng rãi với người Ph|p hơn l{ Thượng Đế của người Maure đối với người

Maure!

Vài tuần trước đấy, họ đ~ được đưa đi viếng vùng Savoie. Người dẫn

đường đưa họ tới trước một th|c nước mạnh, đổ xuống xoáy tít ì ầm.

Người ta bảo họ:

- Các ông uống thử đi.

Và thấy l{ nước ngọt. Nước! Tại quê hương họ, muốn tìm tới một cái

giếng gần nhất, phải tốn bao nhiêu ng{y đường. Và nếu tìm ra, còn phải mất

bao nhiêu thì giờ đ{o cho xong lớp cát lấp ngang miệng giếng, mới bắt gặp

mớ bùn lầy pha lẫn nước tiểu của lạc đ{! Nước! Ở Cap Juby, ở Cisneros, ở

Port-Étienne, bọn trẻ con người Maure không xin tiền bạc, chúng chìa một

hộp thiếc ra để xin chút nước:

- Cho xin chút nước, cho xin…

- Nếu mày ngoan.

Nước quý hơn v{ng, mỗi giọt tí hon cũng đủ làm nảy lên tia lóe xanh

lục của ngọn cỏ giữa bãi cát khô khan. Mỗi khi có trận mưa đ}u đó, người ta

đổ xô nhau tìm tới. Sa mạc rộn ràng. Từng bộ lạc kéo nhau đi tìm ngọn cỏ sẽ

mọc nơi n{o, c|ch chừng ba trăm c}y số xa kia… Thứ nước đó, hiếm hoi là

thế, hẹp lượng vô cùng, từ mười năm nay chưa rơi một giọt xuống Port-

Étienne, thứ nước đó bỗng ì ầm tuôn trào tại xứ xa kia, nghe như chừng bao

nhiêu kho nước quý của trần gian bỗng tuôn ra từ một c|i thùng nước vỡ.

- Ta đi xem nơi kh|c! Người dẫn đường bảo.

Nhưng họ không nhúc nhích.

- Cho chúng tôi nán lại chút nữa…

Họ yên lặng, đăm chiêu, không lời, không tiếng, trước cảnh bí mật

trang nghiêm đang phơi b{y cuồn cuộn. Cái thứ của lạ này, từ trong lòng núi

ồ ạt đổ ra, đó l{ sự sống, đó l{ m|u huyết con người. Chảy một giây thôi,

cũng đủ cứu sống h{ng bao nhiêu đo{n người đi trong sa mạc, kh|t nước

như điên cuồng, liên miên đi m~i, lao mình v{o giữa vô tận của những hồ

nước muối và những chập chờn ảo tưởng mà thôi. Tại nơi đ}y, Thượng Đế

hiển hiện: không lẽ gì ta đ{nh quay lưng đi cho được. Thượng Đế mở rộng

các bờ đập của ngài và tỏ rõ quyền uy cho thiên hạ thấy: ba người Maure đờ

đẫn đứng im lìm.

- Các ông còn muốn xem chi nữa? Đi thôi…

- Phải chờ đ~.

- Chờ gì?

- Chờ xong.

Họ muốn chờ c|i lúc Thượng Đế mỏi, không còn hoang phí nữa.

Thượng Đế vốn người hà tiện, Ngài mau ân hận lắm.

- Nhưng th|c nước này chảy tự nghìn năm!...

Thế nên tối nay họ không muốn bàn bạc nhiều về th|c nước. Vì có

những phép lạ, mình nên tránh nói tới l{ hơn. Cũng nên tr|nh suy nghĩ tới

quá nhiều, nếu suy nghĩ nhiều thì chẳng còn biết hiểu ra cái gì làm sao nữa

nữa. Suy nghĩ nhiều, e phải ho{i nghi Thượng Đế mất thôi…

- Thượng Đế của người Pháp, anh thấy đó…

Nhưng tôi hiểu họ vô cùng, những bạn man di kia. Họ ngồi đấy, bàng

hoàng trong niềm tin dao động, họ bối rối ngổn ngang, và từ đây nao núng sắp chịu quy phục rồi. Họ ước mơ được qu}n lương bộ Pháp tiếp tế lúa

mạch cho, v{ được qu}n đội Pháp ở Sahara bảo đảm an ninh cho. Và một

phen chịu quy thuận rồi, thế nào họ cũng sẽ được hưởng nhiều quyền lợi

vật chất.

Nhưng cả ba người đều thuộc dòng dõi El Mammoun, tù trưởng bọn

Trarza. (Tôi e mình nhầm lẫn tên ông).

Tôi có biết ông này thủa ông còn thần phục chúng ta. Ông được đặc

biệt trọng đ~i vì những công trạng lập nên, ông trở nên gi{u có vì được các

vị thống đốc n}ng đỡ, các bộ lạc kính nể ông, những của cải thế gian dường

như ông không thiếu một thứ nào cả. Nhưng một đêm kia, không ai ngờ

được, không một dấu hiệu gì b|o trước, bỗng nhiên ông t{n s|t c|c sĩ quan

cùng đi với ông vào sa mạc, cướp hết lạc đ{, súng ống, rồi chạy về tái hội với

những bộ lạc chưa quy h{ng.

Người ta gọi những sự nổi loạn thình lình như vậy là phản trắc –

những cuộc đ{o vong vừa oanh liệt vừa tuyệt vọng của một người tù trưởng

từ nay chịu lưu đ{y trong sa mạc; người ta gọi là phản trắc, chút vinh quang

ngắn ngủi kia, nó sắp chìm tắt mất rồi như một đốm lửa tàn, lúc chạm phải

đội qu}n di động từ Atar về. V{ người ta ngạc nhiên trước những h{nh động

điên rồ nọ.

Tuy nhiên câu chuyện của El Mammoun cũng l{ c}u chuyện của nhiều

người Ả rập khác. Mỗi ngày mỗi già thêm. Và khi trở về gi{, người ta suy

gẫm. Rồi một đêm u buồn, chợt thấy mình đ~ phản bội chúa Hồi giáo, chợt

thấy mình đ~ l{m chuyện đê hèn, đ~ l{m hoen ố bàn tay mình trong bàn tay

người Thiên chúa gi|o, lúc đưa tay kí kết bản đính ước một cuộc đổi trao,

trong đó mình chịu thiệt thòi toàn diện.

Và gẫm ra cho kỹ, lúa mì v{ hòa bình đối với ông n{o có nghĩa lý gì…

Chiến sĩ sa cơ biến thành mục phu lây lất, chợt não nùng hồi tưởng lại và

nhớ ra xưa kia đ~ từng sống trong một dải Sahara bát ngát, mà mỗi một nếp

cát mỗi chứa chan những hăm dọa ẩn dấu trong mình, mỗi một đồn quân

đóng trại trong đêm s}u mỗi rình rập quân nhạc, lẩn khuất những chòi canh

với lính gác tuần phòng, nơi chốn của những tin đi, tin lại, tin về cấp báo

những điều động của địch qu}n, nơi chốn của những quả tim nhảy phập

phồng chung nhịp, quanh những ngọn lửa hồng đỏ rạng ban đêm. Đó l{ c|i hương vị trùng khơi biển rộng, l{m sao ai quên được, nếu một lần đ~ có

nếm qua.

Chợt ngó lại bây giờ tấm th}n lơ l|o lạc lo{i, bước quẩn quanh trong

một vùng yên định không còn một chút uy phong. Chính bây giờ, chỉ bây giờ

thôi, dải Sahara mới thật sự là sa mạc.

Nhưng sĩ quan m{ ông sẽ giết, có lẽ ông vẫn tôn sùng. Nhưng tình

thương Allah trên hết.

- Chúc ông ngon giấc El Mammoun.

- Thượng Đế phù hộ cho ngài.

Những sĩ quan cuộn tròn trong chăn nệm, duỗi d{i th}n trên c|t như

một chiếc bè, ngửa mặt lên trời sao. Ngàn sao chầm chậm quay tròn, một

vòm trời đương điểm giờ trên đó… Đ}y vừng nguyệt chênh vênh trên bãi

c|t, được dìu về hư không do Ch}n Như dẫn dắt. Những người Thiên Chúa

giáo sắp ngủ say rồi. Vài phút nữa thôi, trên vòm kia chỉ còn lại ngàn sao lấp

l|nh. Thì lúc đó, muốn cho các bộ lạc suy đồi được thiết lập trở lại trong

vòng lộng lẫy ban sơ; thì lúc đó, muốn cho những cuộc chạy thi gan rượt

đuổi cùng một lúc dấy lên cho tưng bừng cát bãi, thôi chỉ cần một chút xíu

đưa tay, thôi chỉ cần cái tiếng kêu yếu ớt của những người Thiên chúa giáo

bị bóp nghẹt hơi thở, bị nhận chìm hồn phách trong giấc ngủ của họ mê

man… Chỉ vài giây nữa thôi, và từ sự vụ bất khả vãn hồi kia, một vũ trụ tân

kỳ sẽ xuất hiện.

Và từ đó, những sỹ quan lộng lẫy ngủ ngon kia bị sát hại

5

Hôm nay tại Juby, hai anh em Kemal và Mouyane mời tôi một tuần trà

trong căn lều của họ. Mouyane lặng lẽ nhìn tôi; tấm mạng xanh kéo trùm kín

miệng, Mouyane giữ một th|i độ dè dặt man di. Chỉ Kemal ân cần tiếp

chuyện, chén tác chén thù:

- Lều vải, lạc đ{, cả vợ tôi và các nữ tỳ của tôi, đều là của ông cả đấy.

Mouyane mắt vẫn đăm đăm nhìn tôi, nghiêng mình về phía anh hắn,

ghé môi thì thầm vài tiếng, rồi nín lặng.

- Anh ấy nói gì thế?

- Hắn bảo: “Bonafous đ~ cướp mất một nghìn con lạc đ{ của bọn

R’Gueibat”.

Đại úy Bonafous, sĩ quan lạc đ{ binh trong đội qu}n đóng tại Atar, tôi

không quen biết ông ấy. Nhưng được biết tiếng tăm lỗi lạc của ông chấn

động trong đ|m người Maure. Người Maure nói về ông với một niềm phẫn

nộ, nhưng lại xem ông như một loại thần linh. Sự hiện diện của ông làm cho

cát sa mạc trở th{nh “có hạng”. Hôm nay ông lại vừa xuất hiện lần nữa,

chẳng ai rõ bằng cách nào, mà lại đ|nh tập hậu bọn loạn qu}n đang tiến về

phía Nam, v{ cướp mất h{ng trăm con lạc đ{ của họ, buộc họ phải quay lưng

chống trả, hầu có giải cứu những kho tàng từng được phòng giữ rất nghiêm,

tưởng không lọt v{o tay ai được. Và bây giờ, khi đ~ giải cứu Atar bằng cách

đột ngột xuất hiện của thiên thần thượng đẳng, khi đ~ đóng yên qu}n trên

một gò đ| vôi cao rộng, ông ngang nhiên đứng lầm lì trên đó, như khiêu

khích thiên hạ bốn bề có giỏi thì tới ăn thua chơi, v{ h{o quang ông chiếu

tỏa tới độ nào mà các bộ lạc đua nhau kéo tới rùng rùng chịu chơi trước

ngọn đoản kiếm của ông.

Mouyane nhìn tôi khắc nghiệt hơn v{ nói nữa.

- Anh ấy nói gì?

Hắn bảo: “Chúng tôi s|ng mai sẽ đi đ|nh Bonafous. Ba trăm c}y

súng”…

Tôi đ~ đo|n chừng ắt phải có chuyện chi đ}y. Từ ba hôm nay, những

lạc đ{ được dắt tới giếng, những bàn tán gần xa, dằng dai chuyện vãn,

những phấn khích nhiệt tình… Như sửa soạn sắp đặt lèo lái cho một chiếc

thuyền vô hình n{o đương rục rịch ra khơi. V{ gió biển đ~ lên, đ~ rì r{o bốn

ngả, cơn gió nồng sắp dìu dập thổi căng buồm xô thuyền rẽ sóng ra đi. Chính

bởi có Bonnafous mà mỗi bước tiến về Nam là mỗi bước lừng vang oanh

liệt. Và tôi không còn biết biện biệt thế n{o l{ yêu đương hay thù hận chất chứa trong những cuộc lên đường chinh phạt nhau kia.

Có một kẻ thù lộng lẫy dường ấy ở giữa trần gian để mà sát hại – còn

gì tráng lệ cho bằng. Nơi n{o y xuất hiện đột ngột, l{ nơi đó c|c bộ lạc gần

gũi vội vã tháo lều xếp gió, tập trung lạc đ{ phăng phăng chạy trốn, để tránh

cuộc đối diện không l{nh, nhưng những bộ lạc ở xa thì lại choáng váng ngất

ng}y như ngất ng}y trong cơn tình |i vậy. Người ta giũ |o lên đường, lìa bỏ

đời sống yên vui trong lều vải, từ khước lạc thú ôm ấp vợ, nồng da mịn lá, từ

bỏ giấc ngủ tê mê, vì người ta chợt thấy: không có gì ở trần gian đ|ng gi|

cho bằng cái việc: sau hai tháng trời liên miên đi m~i, đi kiệt sức về Nam,

chịu đói, chịu khát, chịu dừng ch}n thu hình lăn lóc chờ mong giữa gió cát

lên cơn, rồi bất thình lình một sớm tinh sương được chạm trán với đội quân

di động Atar, và tại đó, nếu Trời Phật giúp cho, sẽ lấy đầu tên Đại úy

Bonnafous một mẻ.

- Bonnafous mạnh tợn. Kemal thú thật với tôi.

Bây giờ tôi biết niềm riêng bí ẩn của họ rồi. Những g~ đ{n ông ao ước

đ{n b{, một kiều diễm phụ nữ, thôi thì liên miên mơ tưởng tới gót ngọc hờ

hững dạ du, rồi thuê hoa dệt bướm, canh trường thao thức trằn qua trở lại,

đau đớn xót xa, máu tim cháy bỏng từng cơn, nhịp theo gót ch}n đi hờ

hững, và hỡi ôi! gót về hờ hững dội m~i v{o cơn mộng mà tiếp tục đi m~i gót

dạ du… Thì theo lối đó, bước chân xa xôi của Bonnafous cũng đang d{y vò

tâm linh nọ. Đi bọc hậu những toán kiêu binh tới tấn công mình, cái vị chỉ

huy theo Thiên chúa gi|o kia, ăn mặc theo lối người Maure cầm đầu hai

trăm tên cướp người Maure, đ~ v{o s}u trong nội địa của loạn quân, nơi m{

tên thuộc hạ hạng tồi nhất của ông cũng rất có thể động cơn dấy loạn, trút

bỏ nghiệp tôi đòi, m{ không tội lỗi gì cả, vì đ~ tho|t mọi ràng buộc của luật

tắc người Ph|p, nơi m{ bọn bộ hạ rất có thể lén cắm v{o lưng ông một nhát

dao, hy sinh ông để tế Thần Linh của mình trước bàn thờ bằng đ| v{ng ở

chính nơi đó, chỉ riêng uy phong của ông là kiềm chế họ, và ngay cả nhược

điểm của ông của xui họ kinh ho{ng. V{ đêm nay, đi giữa giấc ngủ bọn họ

với những ngáy khò, ông vẫn hừng hờ bước qua bước lại, và tiếng chân ông

vang dội vào tới tận giữa lòng sa mạc hoang liêu.

Mouyane ngẫm nghĩ, trầm ngâm ở cuối căn lều, im lìm như một pho

tượng bằng đ| lục hoa cương. Chỉ hai con mắt là long lanh sòng sọc, v{ mũi

dao bạc không còn là một thứ đồ chơi. Anh đ~ thay đổi xiết bao, kể từ ngày gia nhập kiêu binh! Chưa bao giờ anh cảm thấy sự cao cả của mình như bữa

hôm nay, anh nhìn tôi như muốn ép giập tôi dưới làn nhãn quan chứa đầy

khinh bỉ; bởi vì anh sắp tìm tới Bonnafous để đọ tài, bình minh hôm sau anh

sẽ lên đường, thôi thúc bởi mối căm hờn mang đủ đầu những dấu hiệu yêu

thương.

Một lần nữa, anh ghé v{o tai người anh thì thầm, v{ đưa mắt ngó tôi.

- Anh ấy nói gì?

- Nó bảo nó sẽ bắn ông một phát, nếu gặp ông ở xa đồn lũy.

- Vì sao vậy?

- Nó bảo: “Ông có phi cơ, ông có vô tuyến, ông có Bonnafous, nhưng

ông không có ch}n lý”.

Mouyane im lìm trong mớ khăn xanh trùm phủ, không nhúc nhích

giữa những nếp gấp bất động như những lằn xếp trên xiêm |o tượng đ|,

Mouyane đ~ ph|n xét tội trạng tôi:

- Hắn bảo: “Ông ăn rau hau háu giống như dê c|i ăn rau, ông ăn thịt

heo ngốn ngấu như heo n|i ăn thịt heo. Đ{n b{ xứ ông không biết xấu hổ,

sẵn s{ng phơi c|i mặt mo ra”, hắn có gặp cái loại đ{n b{ đó. Hắn bảo: “Ông

không cầu nguyện bao giờ”. Hắn bảo: “Phi cơ của ông, vô tuyến của ông,

Bonnafous của ông, có giúp ông nên cái tích sự gì, nếu ông không có cái

ch}n lý?”

Và tôi phải chinh phục anh chàng Maure này, anh không bảo vệ tự do

anh, vì trong sa mạc bao giờ người ta cũng tự do, anh không bảo vệ những

của cải, những kho tàng hữu hình nào cả, bởi vì sa mạc nó trống không, anh

chỉ bảo vệ một sơn h{ bí ẩn. Trong cõi tịch liêu sóng c|t, Bonnafous đang

điều động đội qu}n mình như một tên hải tặc lịch duyệt, và nhờ g~ đó m{

chốn dừng ch}n đóng trại tại Cap Juby này bỗng dưng không còn l{ cõi cư

trú cho bọn chăn nuôi nh{n rỗi. Giông bão Bonnafous xô về, đè nặng một

bên hông, vì Bonnafous m{ người ta phải thu hẹp lều vải mỗi đêm hôm.

Vắng lặng cõi trời Nam, ôi n~o lòng l{m sao l{ cơn vắng lặng: vắng lặng

Bonnafous, do linh hồn Bonnafous thao túng! Và liệp hộ Mouyane, thiệp liệp giang hồ, đương im lìm lắng nghe Bonnafous dấn gót chân dội vào lòng gió.

Ngày sau Bonnafous sẽ trở về đất Pháp, thì quân thù của ông sẽ chẳng

lấy thế làm mừng. Họ sẽ khóc. Ông bỏ đi đ}u, ông đi rồi, thì sa mạc mất đi

một từ-cực hấp dẫn, cuộc tồn sinh kẻ ở lại sẽ mất đi một sắc uy phong. Họ

sẽ bảo tôi:

- Chớ bảo mần răng m{ Bonnafous lại bỏ m{ đi như rứa?

- Tôi đ}u có biết đ}u n{o…

Ông đ~ đem cuộc tử sinh của mình ra liều giữa trận tiền tử sinh của

họ, đằng đẵng bao năm. Đem luật tắc sinh tồn của họ làm luật tắc sinh tồn

cho mình. Ông đ~ nằm ngủ nơi đ}y, gối đầu mình trên đ| khô đất họ. Trong

cuộc triền miên đuổi bắt nhau dìu dặt, ông cũng như họ, đ~ từng biết đến

những đêm trường Kinh Thánh gồm toàn cát với gió với sao. Thế mà bỗng

dưng ông dứt |o ra đi, như bảo chúng tôi biết rằng từ bấy tới nay ông không

chơi một cuộc chơi cốt yếu. Ông ngất ngưởng rời b{n, vươn vai bỏ cuộc. Và

những người Maure ở lại u buồn, cô đơn trong cuộc chơi dang dở, mất lòng

tin ở một lẽ sống không còn đòi hỏi con người phải dấn thân tới kiệt tận

m|u xương mình. Nhưng họ vẫn muốn còn hoài vọng:

- Lão Bonnafous của ông, lão sẽ còn trở lại.

- Tôi đ}u có biết.

Lão sẽ còn trở lại, người Maure tin như thế. Những trò chơi của Âu

Châu làm sao mà làm vừa lòng l~o được. Những trò chơi của Âu Châu,

những cuộc đ|nh b{i l}y lất, những quan giai lần lần, những đ{n b{ vỏ hến…

không, không… những thứ đó không thể cầm chân lão ta mãi. Lão sẽ còn trở

lại đ}y, cuộc sống hiên ngang vùng vẫy mất đi sẽ còn ám ảnh l~o, nơi đ}y,

mà mỗi bước ch}n đi l{ mỗi khua động linh hồn, giục buồng tim nhảy, mỗi

bước ch}n đi trên c|t l{ mỗi bước chân về xứ sở yêu đương. L~o ta tưởng

nơi đ}y chỉ sống điệu lai rai phiêu bạt trăng gió vật vờ, l~o ta tưởng về lại xứ

kia mới là cõi bờ cốt yếu, nhưng l~o sẽ ngao ngán nhận thấy rằng những của

quý chân chính, riêng chốn này là chỗ đ~ cung cấp hết cho lão ta, riêng sa

mạc n{y l{ nơi l~o ta đ~ sở hữu những kho tàng vô giá: cát bãi oai hùng, trời

đêm hoang vắng, quê hương của gió, tổ quốc của ngàn sao. Và nếu Bonnafous sẽ trở lại một ngày nào, thì tin tức kia, ngay đêm đầu tiên, sẽ tràn

đi khắp nơi suốt vùng phiến loạn. Người Maure khắp nơi sẽ kháo với nhau

rằng lão ta hiện đường nằm ngủ ngon giữa hai trăm tên cướp thuộc hạ, ở

một nơi n{o đ}u đó trong b~i Sahara. L~o ta đương ngủ… Tức thời thiên hạ

sẽ khởi sự lặng thinh dắt lạc đ{ lại giếng. Thiên hạ sẽ soạn sửa lương thực.

Thiên hạ sẽ xem xét cẩn thận họng súng. Thôi thúc bởi cuồng nộ căm hờn

kia, hoặc thiết tha ân tình nọ.

6

- Hãy lén chở tôi lên một chiếc phi cơ đi Marrakech…

Hằng đêm tại Juby tên nô lệ người Maure kia vẫn nhắc nhở tôi lời

khẩn cầu nọ. Sau đó, khi đ~ cố hết sức mình để được sống, lão ngồi xuống

xếp bằng tròn và pha trà cho tôi. Thế là kể từ đó, l~o thanh thản được trong

một ng{y, vì theo l~o nghĩ: mình đ~ phó th|c mình cho vị thầy thuốc duy

nhất có thể chữa l{nh mình, mình đ~ khẩn cầu vị thần linh duy nhất có thể

giải cứu mình. Từ đó nghiêng th}n trên ấm nước, lão nghiền ngẫm lại

những hình ảnh đơn giản của đời mình, những đồng đất đen miền

Marrakech, những ngôi nhà hồng tươi, những của cải giản đơn m{ l~o đ~ bị

người ta tước đoạt mất.

Tôi im lặng, lão không lấy thế làm phiền, lão không oán hận tôi sao lại

trễ tr{ng không ban ngay đời sống cho g~; l~o nghĩ rằng tôi không phải một

người giống lão, mà ấy là một sức mạnh để thúc giục lên đường, để lịch sử

tiến tới, một c|i gì đó giống như một trận gió lành, sẽ thổi dậy một ngày,

hiền hòa đưa đẩy định mệnh của l~o đi xuôi thuận.

Nhưng tôi, một phi công trơn trụi, tạm thời vài tháng làm chỉ huy sân

bay tại Cap Juby, tất cả tài sản chỉ thu gọn trong một căn lều lơ l|o tựa lưng

v{o th{nh lũy T}y Ban Nha, với một cái thau, một bình nước mặn, một cái

giường quá hẹp bề dài, quá ngắn bề ngang, thì tôi lại không có chút ảo

tưởng nào về quyền hành của mình mấy tí:

- L~o Bark ơi, việc ấy, rồi sẽ bàn tới sau.

Một người nô lệ cùng mang tên Bark; vậy l~o cũng tên l{ Bark. Nhưng

mặc dù bị bắt đ~ bốn năm rồi, lão vẫn chưa đ{nh chấp thuận: lão nhớ rằng xưa kia mình đ~ từng là chúa.

- Hồi ở Marrakech lão làm chi?

Ở Marrakech, chắc vợ con lão bây giờ còn sống, l~o đ~ từng làm cái

nghề thật huy hoàng:

- Tôi chăm súc vật từng bầy, và tên tôi là Mohammed.

Các quan tổng trấn tại đó vẫn thường cho lính vời lão tới:

- Ta có một bầy bò muốn bán, Mohammed ạ, lão vào trong núi lùa

chúng ra đ}y.

Hoặc:

- Ta có một nghìn con cừu ở ngo{i c|nh đồng kia đó, l~o còn mạnh giò

thì đưa chúng lên đồi cao gặm cỏ.

Hoặc:

- Ta có một trăm con dê c|i. L~o h~y đi tìm hộ con dê đực hoa cà về mà

thả vào chuồng nọ cho ta.

Hoặc:

- Bầy cừu của ta hôm nay u buồn qu| đỗi. Như tuồng chúng nhung nhớ

non thẳm rừng sâu. Lão liệu lùa chúng lên dãy Nga My một chuyến. Luôn

tiện l~o cũng gặp dịp đổi gió một phen.

Bà Bark, tay cầm một nh|nh ô liêu như qu}n quyền vương trượng, uy

nghiêm lên đường, thung dung điều khiển đ{n súc vật, như một đấng anh

tài có toàn quyền tiện nghi bát tiểu, việc ngo{i đổng nhung… một mình đảm

đương trọng trách việc cai quản cả trăm họ cừu xinh, sao cho chỉnh tề hàng

ngũ, gò bớt bước ch}n con n{o đi nhanh quá trớn làm nhọc bạn đồng hành

phái yếu đương mang nặng và sắp đẻ đau, hoặc thôi thúc bước chân những

con nào biếng nh|c… L~o bước đi giữa trăm ng{n nhịp động của trăm ng{n

quả tim súc vật tòng phục tin yêu. Một mình l~o định đoạt hành trình: một mình lão biết sẽ hướng về “đất hứa” nơi n{o; một mình, l~o đo|n ra bước đi

trên dặm đường lúc đăm chiêu đọc hồng vàng tinh tú, thông trải ngọn

ngành một khoa học tế vi, đ}u có truyền thụ ra cho con cừu thiền quyên nào

được; một mình, lão quyết định lúc dừng chân, giờ nghỉ ngơi, khu giải khát,

thể theo niềm duyệt lịch của mình. V{ đêm về, một mình đứng nguy nga

giữa đ{n cừu yên ngủ, lão âu yếm nhìn, động lòng nh}n |i trước bao nỗi khờ

khạo yếu đuối thơ ng}y, l~o im lìm, lông len ngập tới đầu gối, lão biến thành

vị thầy thuốc thời đại bách khoa, tiên tri hiển th|nh, vương chúa uy quyền,

đương nguyện cầu cho trăm họ cừu ngủ ngon.

Một hôm, gặp bọn người Ả Rập tới bảo:

- Theo chúng ta đi tìm súc vật phương Nam.

Người ta dắt l~o đi thật lâu, và sau ba ngày, mò vào sâu trong một con

đường núi hẻm ở sát cánh vùng phiến loạn, người ta đơn sơ đưa b{n tay ra

nắm lấy vai l~o, đổi tên l~o ra Bark, v{ b|n đứng l~o đi.

Tôi cũng quen biết nhiều người nô lệ khác. Hằng ngày tôi tới uống trà

trong những căn lều. Chân trần, nằm duỗi dọc thân ra, trên một tấm thảm

bằng len thượng hạng, đó l{ món xa xỉ của người du mục lưu ly, nằm trên đó

vài giờ cũng gọi là thiết lập cõi nh{ cư lưu một buổi, nằm trên đó tôi lặng

nghe ngày trời chuyển dịch. Trong sa mạc, ta nhận ra cái dặt dìu trôi chảy

của thời gian. Dưới cơn thiêu nướng của mặt trời, người ta cũng nghe mình

đương bước tới chiều hôm, bước tới cõi gió xanh sẽ thổi, sẽ tắm gội hình hài

và gột rửa mồ hôi. Dưới cơn thiêu nướng của mặt trời, thú vật v{ người ta,

cùng rủ nhau một nhịp tiến về cái hồ giải khát lớn rộng đó của hóa công,

tiến về đó chắc chắn vững bền như tiến về cõi chết. V{ như vậy, sự nhàn rỗi

không bao giờ là nhàn rỗi uổng công. Nhàn rỗi là tỉ mỉ êm đềm bước đi bên

ng{y đẹp, và bất cứ ngày nào lại chả đẹp, như những con đường kiều diễm

đưa tới bối rối trùng dương.

Tôi quen biết họ, những người nô lệ ấy. Họ bước v{o căn lều lúc thấy

chủ mang từ trong hòm của cải ra nào lò, nào ấm, nào ly cốc… từ trong cái

hòm nặng nề chứa đầy những đồ vật lai rai một cách! Những ổ khóa vắng

chìa, những chậu hoa, m{ hoa n{o đ}u thấy bóng, những tấm gương ba xu,

những binh khí cũ kỹ, những thứ gì gì lạc lõng tới đ}y lửng lơ nhìn c|t, kể

thật cũng như dường những thứ của phá gia, chút oan gia bọt bèo thuyền đắm trôi dạt cập bờ.

Người nô lệ lặng yên cho củi khô c{nh héo v{o lò, đổ nước vào ấm,

phồng má thổi vào lửa nhún nhen, chịu chơi một c|ch! Đem sức voi hùm di

sơn dịch hải, để làm cái công việc của một g|i choai choai. Đem g}n cốt đại

b{ng lướt gió mà vin cành thùy liễu gợn tiểu khê. Chàng vẫn giữ cơn yên vui

tịch mịch. Ch{ng ta đ}m ra bị cuốn hút trong làn du khoái cuộc chơi: pha

tr{, chăm sóc lạc đ{, ăn cơm v{o trong miệng. Dưới cơn thiêu nướng của

mặt trời, cứ đều đặn bước đi về chiều tối; v{ dưới cơn băng gi| của ngàn sao

trơn trụi, cứ mơ m{ng ho{i vọng cái trận nướng của mặt trời thiêu. Hỡi

những xứ miền phương Bắc! C|c ngươi sướng vô ngần lắm đó, c|c ngươi

biết chăng ru. Trời của c|c người là trời vần xoay tiết điệu, với nhịp mùa

tuần tự kết liên mà tác thành cho ngày hè một hoang đường chiêm bao

tuyết bạch, mà tác tựu cho đêm t{n đông lạnh một rạng rỡ mộng trời xanh!

Mà tẻ sao là nhiệt đới! Nằm trong lò hấp ngột chẳng thay qua, đổi lại chi

nhiều. M{ sướng thay là vẫn dải Sahara này với ng{y đêm không ngớt, với

đêm ng{y cứ liên tục đơn sơ m{ đ|nh nhịp dập dìu cho hồn ai trở cơn lên

xuống, tự hoài vọng nọ tới ước mong kia.

Đôi phen người nô lệ da đen, ngồi khoanh ch}n tròn khoeo trước cửa,

phơi linh hồn phiểu diểu trong làn gió hây hẩy. Ho{ng hôn êm |i như ru.

Lặng nghe dễ khiến thân tù tội mê. Nặng sao vòng h~m tư bề. Làn xanh kỷ

niệm không về bãi hoang. Chỉ nghe hiu hắt đôi h{ng. Phút gi}y giờ cũ pha

c{n đòn đau. Kêu xin, n{i nỉ nơi n{o. B{n tay ai đẩy tôi vào chốn nay. Từ đó

tới nay? Kể từ những cú đấm túi bụi vào mình, quật mình nhào lăn v{o

trong đêm }m u hiện tại, kể từ giờ phút đó tới nay, anh chàng chìm thân

trong giấc ngủ dị thường, mê sảng mơn man như mù mắt, đ}u còn nhìn ra

hình bóng những sông dài chậm chảy xứ Sénégal, đ}u còn nhìn thấy màu

trắng xóa những phố thị Maroc phương Nam, mê sảng triền miên như tai ù,

tai điếc, đ}u còn nghe nữa những giọng nói quen thân. Anh bạn da đen, anh

không đau khổ khốn đốn, anh chỉ như tật nguyền. Một ngày lọt vào vòng tồn

sinh động hoạt của người du mục, kết chặt chẽ thân mình vào trong những

cuộc xê dịch lưu ly, suốt đời cột da xương mình v{o b{n ch}n vạch ngang, vẽ

dọc, xoay tròn của bọn người kia hoạch định trên mặt cát. Anh còn giữ được

chi nữa những liên lạc từ nay với quá khứ, với gia đình, với một cô vợ và

mấy đứa con, đối với anh giờ đây mọi thứ kia đ~ chết không khác chi những

người đ~ chết.

Có những kẻ l}u ng{y đ~ sống tình yêu lớn rộng, rồi chợt mất đi, bỗng

đôi lúc ch|n chường niềm cô đơn cao nh~. Họ lai rai ghé lại bên đời, kiếm

một tình yêu tầm thường, đem cọ vào làm hạnh phúc. Họ cảm thấy khoan

kho|i trong đầu h{ng, qu}n vương xin tho|i vị nhường ngôi, làm thân ty

tiện, man mác làm sao là cái phận phiêu bồng bèo bọt, cơn gió v{ng đưa đẩy

cái mặn m{ c|t lũy v{o trong vòng tĩnh mịch cỏ nội hoa hèn. Nô lệ hãnh kiêu

bằng giàu sang của chủ. Hồn thục nữ bốc hơi nồng bên lượng cả bao dong,

dẫu bao là bất thình lình thuận buồm thong dong về một Châu Thai buôn

bán.

- Này, này, uống đi, cho m{y đấy. Thỉnh thoảng chủ bảo tớ như thế.

Đó l{ c|i giờ chủ ân cần với tớ, nhân vì sự nhọc mệt đ~ qua cơn, nh}n

vì trận nóng nướng thiêu đ~ tan dịu, nhân vì tớ thầy cùng sát cánh bên nhau

bước vào cõi trời chiều mát gió. Và chủ ban cho tớ một ngụm trà trong tách

đẹp tay nâng. Và kẻ tội đồ đón lấy ly tr{ lưu ly từng giọt, lệ lưng tròng vì

thâm tạ tri ân trĩu nặng, sẽ quỳ xuống m{ hôn v{o đầu gối hai chân của chủ.

Kẻ nô lệ chẳng bao giờ bị đọa đầy trong xiềng xích. Cần chi thế chứ! Hắn

trung thành một cách! Hắn ngoan ngoãn cái cõi lòng hớn hở khước bỏ trong

thân phận mình một ông vua da đen mất ngôi là thế: hắn hài lòng vô hạn với

cái phận bây giờ là một tên nô lệ lờ lững vui sướng xiết bao.

Tuy nhiên một ng{y kia người ta sẽ phóng thích hắn. Ấy là lúc hắn đ~

quá già, sức mấy mà xứng áo xứng cơm, thôi thì thôi cũng chiều lòng, cho

mày vô hạn một vòng bước ra. Một chân trời bát ngát tự do! Suốt ba năm

ròng, hắn lần mò từ lều này qua lều nọ, luống cuống van xin được gửi thân

tôi đòi, mỗi ngày mỗi yếu thêm đi, cho đến cuối ngày thứ ba sức kiệt, lực

cùng, nhưng luôn luôn vẫn là ngoan ngoãn, hắn nằm duỗi dài trên mặt cát,

hai mắt mở to. Tôi có thấy những người như thế tại Juby, nằm chết trần

truồng. Người Maure đi bên cạnh trong giờ họ hấp hối, hấp hối kéo dài.

Người Maure chạm vào họ nhưng không t{n nhẫn chi, và bọn trẻ con người

Maure nô giỡn bên cạnh tấm thân tàn u ám, và mỗi bình minh chạy tới thăm

chơi, coi chừng có còn cựa quậy, nhưng không cười cợt kẻ tớ gi{. Đó l{

chuyện tự nhiên, lẽ thường. Không chi lạ. Cũng như bảo: “Anh đ~ l{m việc

giỏi, anh đ|ng được ngủ rồi, thôi thì hãy ngủ đi”. L~o vẫn nằm dài, cảm thấy

đói, c|i đói g}y cơn cho|ng v|ng, nhưng không cảm thấy nỗi bất công tàn ác

n{o đ{y đọa mình. Lão hòa thân dần dần vào với đất. Mặt trời thiêu đốt, cõi

đất đón v{o lòng. Ba mươi năm vất vả, rồi cái quyền được ngủ yên, cái quyền về với đất.

Người nô lệ đầu tiên gặp tôi, tôi không nghe than vãn gì: ấy bởi rằng

không có ai để tr|ch. Tôi đo|n nghe trong hồn gã chút niềm gì như chấp

thuận phiêu diêu, mơ hồ man m|c, đó nỗi lòng như của một sơn nh}n lạc

rừng, kiệt lực, nằm duỗi thân trên tuyết, cho phiêu bồng tuyết phủ, cho

mộng tưởng về vây. Cái xui tôi bứt rứt, không phải là sự đau khổ của y. Tôi

không tin điều đó. Nhưng trong c|i chết một con người, một vũ trụ xa lạ

chết theo, và tôi tự hỏi những hình ảnh n{o đ~ chìm theo th}n họ. Những

đồn điền, những cây lá nào của xứ Sénégal, những thành phố trắng vôi, bạc

vách nào của miền Nam Maroc đ~ lần hồi tắt ngấm trong lãng quên. Tôi

không biết, không thể nào biết được, trong khối hình h{i đen đủi nọ, có lẽ

nào chỉ tắt lịm là những khốn cùng khổ nhọc thôi sao; những tầm thường lo

lắng trà pha, súc vật lùa tới giếng… tôi không biết… chỉ một linh hồn nô lệ

ngủ thôi, hay ấy một con người, chợt hồi sinh trong triều dâng kỷ niệm, đ~

huy ho{ng vĩnh biệt cõi đời, trong viễn tượng nguy nga. Mảnh xương sọ

cứng, tôi thấy giống c|i rương cũ chứa những kho tàng. Kho tàng gì? Tôi

không rõ những gấm vóc nào sặc sỡ, những hình ảnh n{o tưng bừng yến

tiệc, những dấu tích nào quá cổ hủ giữa khung cảnh nơi n{y, qu| vô ích, qu|

hão huyền giữa sa mạc này, vẫn còn nguyên trong đó, tho|t khỏi vòng chìm

đắm điêu linh. Tôi không biết, không biết gì hết cả. C|i hòm rương vẫn còn

nằm tại đó, khóa kín, nặng nề. Tôi không biết cái phần nào của cuộc thế

đương t{n r~ trong con người suốt giấc ngủ khổng lồ của những ngày chung

cục đ~ t{n rụng trong mảnh tâm linh và thể xác nọ đương lần hồi biến thể

để trở th{nh đêm tối và rễ cây.

- Xưa tôi l{ kẻ mục tử lùa dắt dê cừu, xưa tên tôi l{ Mohammed…

Bark l{ người nô lệ da đen đầu tiên tôi gặp đ~ cưỡng kháng, không

chịu buông xuôi. Cái việc bị người Maure tước đoạt tự do, xâm phạm quyền

lợi, l{m cho l~o ho{n to{n trơn trụi trên mặt đất, việc đó chẳng hề gì. Có

những bão tố Thượng Đế gây ra, tàn phá trong một giờ bao nhiêu mùa

màng công khó của người ta. Nhưng người Maure còn g}y điêu linh cho l~o

một cách trầm trọng hơn nhiều: s}u xa hơn c|i việc xâm phạm quyền lợi, tự

do, của cải, người Maure đ~ l{m tổn thương tới chính c|i con người của lão,

người Maure hăm dọa lão ngay trong trung tâm nhân vật lão ta. Và Bark

quyết định không chịu đầu hàng, trong khi bao nhiêu nô lệ kh|c đ~ không

bận lòng thắc mắc, cứ để yên cho chết hẳn trong thân mình cái hình hài một g~ chăn cừu lao khổ quanh năm kiếm cơm nuôi sống.

Bark không nằm yên ổn trong vòng nô lệ như người ta nằm yên trong

một hạnh phúc tầm thường sau khi đ~ mỏi mòn chờ đợi. Lão không muốn

lấy những thi }n độ lượng của chủ nô lệ làm nên hạnh phúc yên vui của đời

nô lệ mình. Lão giữ nguyên cho gã Mohammed vắng biệt, c|i ngôi nh{ xưa

cũ m{ y từng đ~ ở, ngay trong lồng phổi mình. Cái ngôi nhà quạnh hiu vì

vắng chủ, nhưng không một kẻ n{o kh|c được phép bước vào. Bark giống

như một người đầy tớ canh gác một ngôi nhà, tới ngày bạc tóc, nằm giữa cỏ

cây vây bọc những lối đi nẻo về, giữa quạnh quẽ ngậm ngùi, đ{nh chết đi

trong niềm chung thủy.

L~o không nói: “Tôi l{ Mohammed ben Lhaoussin” m{ bảo: “Xưa kia

tôi tên l{ Mohammed” vì mơ m{ng tới một ng{y n{o đó, nh}n vật bị lãng

quên kia sẽ hồi sinh, và riêng với cuộc hồi sinh nọ, sẽ xua đuổi xa lìa dáng

dấp nô lệ ng{y nay. Đôi lần, giữa vắng lặng đêm tăm, bao nhiêu kỷ niệm

bỗng ùa về một lúc, dào dạt tr{n đầy như một điệu hát tuổi thơ.

Viên thông ngôn người Maure kể lại với chúng tôi rằng: “Nửa đêm,

giữa canh khuya, lão nhắc tới thành Marrakech rồi l~o khóc”. Ai tr|nh được

những ngậm ngùi hồi tưởng đó, lúc cô đơn! Con người cũ bỗng trở giấc ở

trong mình, không b|o trước cho hay. Con người cũ thức dậy, vươn vai,

duỗi dài tay chân trong tứ chi của lão, mò mẫm tìm cái vú con vợ nằm ở bên

hông, giữa sa mạc này không bao giờ có đ{n b{ bén mảng; Bark lắng nghe

tiếng suối chảy ở nơi n{y l{ chốn không bao giờ có suối trôi. Và Bark mắt

nhắm nghiền, tưởng mình ở một ngôi nhà trắng xóa, đêm đêm ngồi dưới

một ngôi sao quen thuộc, chính bây giờ đương ở chỗ thiên hạ cư trú trong

những căn lều vải len thô v{ đuổi theo hồn gió. Mang nặng trong lòng

những }n tình th}n |i đó, những niềm yêu dấu cũ c{ng đương bí mật rạt rào

lên tiếng như gần gũi đ}u đ}y, Bark tới tìm tôi, Bark muốn bảo với tôi rằng

l~o đ~ sẵn sàng, rằng những niềm thân ái của l~o cũng đ~ sẵn sàng, và lão

chỉ còn có đi trở về tới quê, l{ đem ra ph}n ph|t. Chỉ cần một dấu hiệu của

tôi l{ đủ. Rồi Bark mỉm cười, vẽ cho tôi c|i trước, hẳn l{ tôi chưa có nghĩ ra:

- Mai sẽ có t{u… Ông giấu tôi trong m|y bay đi Agdir…

- Tội nghiệp lão quá!

Vì chúng tôi đương sống trong vùng phiến loạn lộn xộn vô cùng, làm

sao giúp lão trốn cho êm? Người Maure ngày sau, sẽ rửa hận như thế nào,

có trời mà biết rõ. Cướp bóc và làm nhục nhau như thế, thì chỉ còn có cái

nước phải chịu tàn sát kinh hồn. Tôi đ~ cố tìm cách chuộc lão, nhờ sự môi

giới của anh em thợ máy ở đ}y, Laubergue, Marchal, Abgrall, nhưng người

Maure vốn ít khi gặp người da trắng đi tìm mua nô lệ da đen, họ nh}n cơ hội

hiếm hoi n{y m{ đòi hỏi qu| đ|ng.

- Đủ hai vạn quan tiền mới được.

- Anh đùa chơi đó chớ?

- Coi này, những cánh tay lực lưỡng của l~o ta, coi n{y… Coi n{y,

những bàn chân chữ b|t bước đi vạm vỡ, coi n{y…

V{ h{ng th|ng d{i d}y dưa thế đó.

Cuối cùng người Maure cũng bớt treo cái giá cao quá, tay với không

vừa, v{ cũng nhờ các bạn hữu ở Pháp giúp vào (nhân tôi có biên thư về kể

đầu đuôi sự vụ) và thế là cuối cùng tôi cũng đủ sức chuộc Bark ra.

Cuộc thương lượng cũng d{ng dinh rậm đ|m thật. Kéo dài tám ngày.

Tám ngày tròn ngồi vòng quanh trên cát cò kè thêm bớt, mười lăm người

Maure với tôi, hỏi lại, đ|p qua… Một người bạn của chủ nô lệ v{ cũng l{ bạn

của tôi, anh Zin Ould Rhattari tay tổ trong l{ng cướp, đ~ bí mật giúp tôi.

Theo lời dặn dò của tôi từ trước, anh ta nắn nót thật hay:

- B|n đi, b|n hắn đi cho rồi, không bán thì rồi cũng tới ngày mất toi cả

mà thôi. Hắn bịnh tật lắm. Con bịnh chưa lò đầu ra, nhưng nằm âm ỷ trong

tỳ vị hắn. Đột ngột một ngày, nó nổ bùng một c|i, l{ đi đời của cải nhà ma.

B|n đi, b|n hắn cho người Ph|p mang đi cho rồi.

Tôi cũng có hứa thưởng một tên cướp khác nữa, Raggi, nếu anh ta

giúp vào cho nên chuyện, và Raggi tìm cách lung lạc người chủ:

- B|n đi m{ lấy tiền về mua lạc đ{, mua súng, mua đạn, cho nhiều nữa

càng tốt chớ sao. Rồi mà rục rịch đem qu}n đ|nh Ph|p chơi một trận. Đuổi

nhau tới Atar, rồi tha hồ mà bắt lấy ba hoặc bốn tên nô lệ mới toanh mà mang về. Trút quách cái của nợ n{y đi. Nó gi{ như một thằng thi sĩ cỗi.

V{ người ta b|n Bark cho tôi. Tôi đưa l~o về khóa kín lại trong lều

luôn sáu ngày, bởi vì nếu thả l~o lang thang ra ngo{i trước ng{y t{u đến, thì

người Maure ắt sẽ bắt lão trở lại và bán lão một lần nữa, ở một nơi xa.

Giam thì giam, nhưng tôi cởi lốt nô lệ cho l~o. Đó cũng l{ một cuộc lễ

long trọng. Vị giáo thánh tới, người chủ cũ tới, viên tổng trấn tại Juby là

Ibrahim cũng tới. Ba tay tổ bợm này, nếu gặp lại lão Bark ở c|ch đồn lũy hai

mươi thước, ắt là dám cắt đầu l~o ta như bỡn, dù chỉ l{ để chơi khăm tôi

một vố cho bõ ghét mà thôi, thế mà lại bước tới tưng tiu l~o Bark, lũ lượt

ôm lấy mà hôn thật nồng nàn, và cầm bút ký tên vào tờ khế ước.

- Bây giờ mày là con ta.

Cũng là còn của tôi nữa, theo luật Pháp.

Và Bark hôn tất cả c|c người cha.

Lão sống trong căn lều một cuộc dịu dàng giam hãm cho tới ngày lên

đường. Lão bảo tôi tả m~i cho l~o nghe, hai mươi bận mỗi ngày, cuộc hành

trình dễ dàng sắp tới: lão sẽ bước xuống phi cơ tại Agadir, và tại đó, người

ta sẽ trao cho lão một cái vé Ô-tô-ca đi Marrakech. Bark đóng vai tuồng

người tự do, như trẻ con chơi trò th|m hiểm: c|i bước đi hướng về cuộc

sống, cái chuyến ô-tô-ca, những đ|m người đông đúc, những phố phường

lão sắp nhìn trở lại…

Laubergue thay mặt Marchal và Abgrall tới tìm tôi. Không nên để cho

Bark xuống phi cơ rồi chết đói. Bọn họ gửi cho Bark một nghìn quan, nhờ

tôi đưa lại; như vậy Bark có thể sống m{ tìm công ăn việc làm.

V{ tôi nghĩ tới những bà già trong những hội phước thiện, mỗi khi làm

phước bố thí hai mươi quan thì đòi hỏi lòng tri }n đầy đủ. Các anh thợ máy

phi cơ Laubergue, Marchal v{ Abgrall, đem cho một nghìn quan, không theo

lối bố thí l{m phước, lại c{ng không có ý đòi hỏi c|m ơn. Họ cũng không vì

lòng thương hại, như những bà kia cho của và mong phúc lộc về sau. Họ chỉ

muốn một điều giản dị: trả lại phẩm c|ch con người cho một con người.

Cũng như tôi, họ quá hiểu rằng, sau c|i cơn đê mê được về quê cũ, người bạn đầu tiên trung thành sẽ bước tới ch{o đón Bark l{ cô n{ng tên gọi là

túng quẫn, và trong vòng ba tháng tới đ}y, l~o sẽ phải lao khổ hì hục trên

những đường hỏa xa mà ì ạch bứng gốc đường rầy. Lão sẽ vất vả hơn lúc

còn ở sa mạc bên chúng tôi. Nhưng về giữa bà con thân thích mình, lão phải

có được quyền sống-thật-sự là mình chính mình vậy.

- Thôi nhé, l~o đi đi, v{ sống cho ra người nhé.

Chiếc phi cơ rung chuyển sắp khởi hành. Bark nghiêng mình nhìn lần

chót cảnh hoang liêu b|t ng|t Cap Juby. Quanh phi cơ, hai trăm người

Maure tụ họp để xem cho rõ gương mặt một người nô lệ nó ra như thế nào

trước ngưỡng cửa tự do. Và họ sẽ tóm lão trở lại nếu phi cơ có hỏng máy

một nơi n{o đó quanh quất bao xa.

Chúng tôi vẫy tay từ biệt, vĩnh biệt đứa con sơ sinh năm mươi tuổi

đầu, lòng hơi hoang mang giao nó lưu ly v{o cuộc thế.

- Vĩnh biệt Bark nhé!

- Không.

- Sao, không?

- Không. Tôi là Mohammed ben Lhaoussin.

Lần cuối cùng chúng tôi được tin tức Bark là nhờ Abdallah, người Ả

Rập chúng tôi đ~ cậy trông chừng Bark tại Agadir.

Chuyến ô-tô-ca chỉ khởi hành vào chiều tối, nên Bark ở đấy cả ngày.

Ban đầu, lão lang thang thật lâu trong thành phố nhỏ ấy, không nói một lời

n{o, Abdallah đo|n l{ l~o đương e ngại sự gì. Động lòng mới hỏi:

- Gì thế?

- Không…

Bark cho|ng v|ng trong cơn sổ lồng đột ngột, chưa kịp nhận thấy rõ

cuộc hồi sinh. Lão có cảm thấy một thứ hạnh phúc hoang mang, nhưng ngoài niềm vui đó ra, l~o chưa thấy có gì khác biệt giữa Bark hôm qua và gã

Bark hôm nay. Tuy nhiên, từ nay l~o bình đẳng chia sẻ với kẻ khác ánh nắng

mặt trời này, và có quyền ngồi đ}y, tại quán cà phê Ả Rập. Lão ngồi vào. Lão

gọi tr{ cho l~o v{ cho Abdallah. Đ}y l{ cử chỉ vương giả đầu tiên của lão; oai

quyền kia đ|ng lẽ phải biến dạng con người l~o. Nhưng tên bồi bàn lại

chẳng nhìn ra gì ráo, cứ thản nhiên rót trà cho lão, không biết gì về cái cử

chỉ vương chúa kia. Lúc rót tr{ nọ, hắn không ngờ, hắn chẳng biết rằng

mình đương chúc tụng cái hiển hách của một con người tự do.

- Ta đi nơi kh|c. Bark nói.

Họ kéo nhau về phía chợ, nơi đó bao qu|t được phong cảnh khắp vùng

Agadir.

Những n{ng thi ca nhi vũ người Berbère xinh xắn lân la tìm tới bên

hai người. C|c cô có d|ng điệu nhu thuận dịu dàng thật là êm ái dễ thương.

Bark lúc bấy giờ mới chợt cảm thấy rằng mình sắp được sống lại: chính các

cô em này là những kẻ sắp đón mừng l~o đương trở lại với đời, dẫu rằng các

cô em vô tình nào có biết có hay. Họ cầm tay lão, nâng trà mời lão, rất ân

cần ngoan ngo~n, nhưng cũng một c|ch như vậy với bất cứ kẻ nào. Bark

muốn kể chuyện mình hồi sinh. Họ dịu d{ng cười. Như hồn nhiên đôi h{ng

thùy liễu. Họ rất h{i lòng cho l~o, như tơ liễu hài lòng vì thấy suối hân hoan.

Bởi chưng l~o h{i lòng thì chị em chúng ch|u cũng xin hả dạ vậy. Lão nói

thêm vài lời cho c|c ch|u tưng bừng thỏa thích nghen? – “Ta tên l{

Mohammed ben Lhaoussin”. Nhưng họ hài lòng mà chẳng lấy làm ngạc

nhiên chi cả. Tất cả mọi người cũng mang mỗi kẻ một cái tên, và biết bao

người cũng đ~ đến đ}y từ xa xôi lắm lắm…

Lão lôi Abdallah vào thành phố. L~o lang thang trước những cửa hàng

người Do Thái, ngó nhìn ra biển, nghĩ rằng mình muốn bước đi đ}u mặc ý,

bước theo hướng nào mặc lòng, vì mình tự do. Nhưng c|i tự do kia dường

như chua ch|t: nhất là nó cho lão thấy, giữa lão với đời, còn thiếu rất nhiều

liên lạc.

Một đứa bé đi qua, Bark vuốt nhẹ v{o m| nó. Đứa bé mỉm cười. Đó

không phải một đứa con của chủ giàu mà ta tới nịnh. Đó l{ một đứa bé

nghèo yếu, được Bark ban cho chút yêu mến. Và nó mỉm cười. V{ đứa bé

thức tỉnh Bark, Bark cảm thấy mình có quan hệ nhiều hơn một chút trên mặt đất, nhờ một đứa bé yếu đuối đ~ vì l~o m{ mỉm cười. Lão bắt đầu nhận

ra một c|i gì đó, v{ b}y giờ l~o bước mạnh v{ mau hơn.

Abdallah hỏi:

- Lão tìm chi thế?

- Có chi đ}u, Bark đ|p.

Nhưng lúc l~o vướng phải một đ|m trẻ con đang nô rỡn ở một đoạn

đường quanh, lão dừng lại. Chính l{ đ}y. L~o lặng lẽ nhìn chúng. Rồi quay lại

những cửa hàng Do Thái, lân la một lúc trở về với những món qu{ mang đầy

nặng hai tay, Abdallah tức bực:

- Ngốc quá ta, giữ tiền mà tiêu chớ.

Nhưng Bark chẳng nghe gì nữa hết. Trịnh trọng một cách, lão ra dấu

cho từng đứa một lại gần. Và những b{n tay tí hon chìa ra đón lấy những đồ

chơi, những vòng xuyến, những chiếc hài thêu kim tuyến long lanh. Và bọn

trẻ con từng đứa nắm chặt phần mình rồi, liền chạy mất, thật man di.

Trẻ con khác trong thành hay tin, xô nhau ù chạy tới tìm. Bark đem h{i

thêu kim tuyến ra xỏ vào bàn chân chúng. Rồi trẻ con ở các vùng quanh

quất Agadir tới lượt bén tin nao nức cũng reo hò đổ tới, không ngớt kêu la

tới bên đấng Chí Tôn Thần Linh da đen m{ b|m, bu v{o n|t cả y phục nô lệ

x|c xơ, m{ đòi phần sẻ chia thích đ|ng. Bark tan t{nh sự nghiệp. Hỡi ôi!

Abdallah cho l{ l~o ta “điên vì vui qu|”. Nhưng tôi nghĩ rằng sự vụ

không phải thế, không phải rằng Bark vì ngập tr{n vui sướng mà san sẻ chia

ra.

Nh}n vì được tự do, lão nắm đủ trong tay những của cải cốt thiết: cái

quyền được kêu gọi yêu mến về, cái quyền được bước đi tùy hứng, ngoảnh

về Bắc hoặc ngó về Nam, cái quyền kiếm cơm ăn bằng mồ hôi hay nước mắt.

Thì cần chi nữa cái số bạc lửng lơ n{y… Trong khi t}m thần thể phách cùng

hoài cảm thiết tha (như thiết tha thèm ăn lúc đói) c|i nhu cầu được làm một

con người giữa hàng vạn con người, được cùng mọi con người kết liền một

khối. Những vũ nữ tại Agadir đ~ tỏ ra dịu dàng với l~o, nhưng l~o gi~ từ họ mà chẳng bận bịu lòng, lờ lững lúc đi như lờ lững lúc đến; họ có cần gì tình

quyến luyến của l~o đ}u. Chú bồi bàn trong quán Ả Rập nọ, kẻ qua lại bên

đường kia, thảy thảy cùng tôn trọng con người tự do ở nơi l~o, cùng l~o

bình đẳng chia sẻ ánh mặt trời, nhưng không một kẻ n{o đ~ tỏ ra cần lão.

Lão tự do, nhưng tự do vô biên vô hạn, tự do tới cùng cực thì cũng thấy

không còn chút ràng buộc n{o giúp hình h{i đè nặng trên đất yêu. Lão thiếu

mất cái khối nặng của tương th}n giao thiệp, cái khối ân tình cản lối ch}n đi,

những giọt lệ vàng, những lời vĩnh biệt, những hờn dỗi trách nhau, những

niềm vui kia, những nỗi sầu nọ, tất cả những gì con người mơn trớn, hoặc xé

r|ch ra đôi, mỗi lần chớm đưa tay l{m một cử chỉ nhỏ, những ng{n ng{n tơ

nhựa gắn bó keo sơn, l{m cho con người nó nặng cân trong cuộc. Tuy nhiên,

ngàn hy vọng cũng đ~ bắt đầu trĩu xuống cõi lòng kia.

Và thịnh triều của l~o Bark đ~ khởi đầu trong lộng lẫy bóng t{ dương,

đ~ mở màn lúc ráng chiều nhuộm màu vàng trên Agadir cựu phố, trong bầu

không khí mát mẻ ho{ng hôn, bao phen đối với l~o ta đ~ từng là niềm dịu

d{ng để chờ mong duy nhất, chỗ nương n|u duy nhất tháng ngày. Và lúc giờ

lên đường sắp tới gần, gần thêm m~i, Bark đ~ tiến bước lên, tắm thân mình

trong ngọn triều trẻ nhỏ, như xu}n kia từng đ~ ngập linh hồn trong đ{n cừu

non dại, Bark bắt đầu vạch cái đường c{y đầu tiên trong cõi đời, theo mộng

xu}n đầu gieo hột hàng hàng trong tình yêu thứ nhất. Chàng sẽ bước trở

vào trong vòng cùng khốn của thân thích bốn bề, mai đ}y ch{ng sẽ… đảm

nhận những đời sống muôn vàn, nhiều, nhiều hơn hai c|nh tay gi{ đủ sức

chở, đủ sức nuôi, nhưng dù sao, tại nơi đ}y, ch{ng đ~ dè th}n trên phù du

trong cõi, với đủ đầy sức nặng thật của thân. Sao ôi, sao mà thanh thản thế,

như thiên thần thượng đẳng quá thanh thoát giữa thương khung, không thể

nào dấn thân sống ngửa ngang đống gò cõi tục, nên đ~ đ{nh lếu láo một cơn

gian, là len lén lận hột chì trong đai nịt, để sè sè đi tới giữa trần gian đúng

theo phong độ người trần gian s{nh điệu bước gập ghềnh cho hì hục hợp

nhau, lão Bark của chúng ta cũng bước đi như khó khăn chập chững, bị lôi

kéo khòm lưng về mặt đất bởi ngàn ngàn trẻ nhỏ bám quanh thân, trẻ nhỏ

ôi, các em sao mà yêu những đôi h{i v{ng thêu đến thế.

7

Sa mạc là thế đó. Một kinh Coran của Hồi Gi|o, đ|o cùng cũng chẳng

khác mấy một luật tắc của cuộc chơi, biến cát sa mạc thành một phiêu bồng

Đế Quốc. Sâu hút trong một Sahara đứng lỳ ra rỗng không là thế đó, lại có diễn một tấn tuồng bí mật, l{m n|o động những nhiệt tình say đắm của

nhân gian. Cuộc sống thật sự của sa mạc, không chỉ được dựng nên bởi

những cuộc thiên di tẩy chuyển của những bộ lạc đi tìm một tấc cỏ để mục

súc gặm nhai, nhưng thật quả được làm nên là bằng cái cuộc chơi đang còn

diễn ra tại đó. Ôi, kh|c biệt một vực một trời, là thể chất giữa c|t b~i đ~ chịu

tòng phục và cái thứ c|t kia chưa. V{ đối với mọi con người thế gian, sự vụ

há chẳng hệt l{ y như rứa? Đối diện cái sa mạc đ~ biến dạng dị thường kia,

tôi bỗng nhớ lại những trò chơi tuổi nhỏ, tôi nhớ lại c|i khu vườn âm u mà

vàng gieo lộng lẫy, mà thủa nhỏ chúng tôi từng đ~ mang về đầy đủ những

chư thần, chư th|nh, ôi chư tiên kiều diễm dắt tay nhau vào lá xanh dìu dặt.

Tôi nhớ lại c|i vương quốc bao la của chúng tôi lôi ra từ một cây số vuông

vườn đất, chẳng bao giờ hiểu trọn được, chẳng bao giờ lục soát xong, chẳng

bao giờ mò mẫm đủ, chẳng bao giờ giao phó hết ẩn ngữ mình cho tâm thức

đọc ra. Chúng tôi cấu tạo nên một nền văn minh kín bưng biệt lập, trong đó

từng bước chân có riêng một hương vị, từng gót ngọc có riêng một âm vang,

từng mỗi một vật thể nhỏ hay to, tròn xinh hay méo xẹp, thảy thảy đều

mang một nghĩa riêng t}y, ngo{i cõi đó ra, không bao giờ một miền khác có.

Không có quyền, v{ không được phép. Nhưng còn chi nữa của vũ trụ kia,

một phen chúng tôi trở nên người lớn, sống theo những luật tắc phong tư

kh|c, còn gì đ}u nữa của khu vườn liễu in dòng rụng, thu đầy tuổi thơ, h{o

hoa huyễn ảo bao giờ, vừa băng gi| lại vừa sờ sợ thiêu – c|i khu vườn mà

ngày nay, lúc ta về viếng lại, ta ngậm ngùi như tuyệt vọng bước vòng theo ở

bên ngoài, men bờ tường lè tè đ| x|m, xót xa kinh ngạc nhận thấy mọi

hương màu sao khép ngột trong cái vòng em eo hẹp làm sao, mọi hương

màu của một quận ch}u đ~ từng là vô hạn của bao la, và biên bờ cõi, và sực

hiểu rằng không bao giờ ta sẽ còn có thể bước trở vào trong cõi rộng xưa

kia, bởi vì chưng nếu phải vào trong, ấy không phải trong khu vườn, mà vào

trong là ấy trong trò chơi giữa cuộc…

Nhưng phong cảnh phiến loạn không còn, thì cuộc chơi chấm dứt. Cap

Juby, Cisneros, Puerto-Cansado, la Saguet-El-Hamra, Dora, Smarra, chẳng

nơi n{o còn chút chi bí mật. Những chân trời rộng mở ta đ~ từng đăm đắm

đuổi theo, đ~ lần lượt chìm tan đ}u mất cả, như những côn trùng sặc sỡ

chợt sa vào bàn tay tóm bắt, chợt tan tành những lộng lẫy sắc hương.

Nhưng c|i kẻ đăm đăm đuổi theo, dẫu có xiêu hồn lạc ph|ch, cũng không

hẳn là ngốc nghếch chịu làm thứ đồ chơi cho ảo tưởng dồi tung. Chúng tôi

không u mê nhầm lẫn, lúc lao đầu vào khai phá cỏ chân mây. Vị Ho{ng Đế

kia trong truyện Nghìn Lẻ Một Đêm cũng vậy, ông theo đuổi một thể chất quá khinh khiêu phiêu bồng phong nhị, cho đến nỗi những kiều diễm thiên

hương bốc hơi l{ thế, mà vẫn phải cứ lần lượt từng cánh sa rụng giữa bình

minh, trong vòng tay ông còn ngẩn ngơ ghì siết, ấy cũng vì chớm chạm vào

thì c|nh v{ng băng tuyết bỗng đứt mạch nguyên truyền mà ngất lịm trôi xa.

Chúng tôi từng nuôi dưỡng mình bằng ảo mộng hoàng sa, những kẻ khác

mai sau sẽ về đ}y có lẽ, sẽ đ{o s}u những con giếng dầu hôi, sẽ làm giàu với

những hàng hóa nọ. Nhưng họ sẽ về, là về quá muộn mà thôi. Bởi chưng

những bãi kè, cụm dứa, những vùng xanh là cấm địa ban sơ, v{ những hột

bụi trinh nguyên của những vỏ nghêu, vỏ hến, vỏ hào ba góc hẹp, đ~ muôn

vàn ẩn bí riêng trao – cho chúng tôi cái phần riêng mật ngọt, riêng một giờ

phụng dâng ngây ngất, chúng tôi lao đầu vào là chúng tôi riêng sống đó chứ

sao.

*

Sa mạc ư? Một lần tôi có dịp ghé vào, cập bờ sa mạc theo con đường:

từ giữa trung tâm. Trong một chuyến bay sang Đông Dương năm 1935, tôi

lại băng mình v{o Du Dương Ai Cập, nhớ nhung người đổ quán phố

Alexandrie, sát biên thùy Libye ngõ hạnh, đắm đuối chìm trong hoàng sa lộ

đoản cho trầm luân thân phận giữa lưới nhựa keo sơn, tưởng chết ra ma,

mà rồi ra chưa chết. Đ}y l{ c}u chuyện.

VII

GIỮA LÒNG SA MẠC

1

Vào tới Địa Trung Hải, tôi gặp mây thấp xuống bên mình. Phi cơ chìm

xuống hai mươi thước. Mưa như th|c đổ, đập vào mặt kính ngự phong và

biển tr{o như bốc hơi ra khói. Tôi mở thao láo mắt, cố gắng nhìn thử có

trông ra được tí gì, và khỏi phải đ}m đầu vào cột buồm tàu biển.

Anh thợ máy, André Prévot, thắp thuốc cho tôi không ngớt.

- C{ phê đi…

Anh biến ra phía đuôi t{u và trở lại với chiếc te-mô. Tôi uống. Thỉnh

thoảng tôi búng vào cái nút nhận ga, để cầm giữ hai nghìn một trăm vòng

quay. Tôi đưa mắt lướt qua một lượt khắp các mặt kính chỉ dẫn: trăm họ

ngoan ngoãn vâng lời, kim nào vị trí nấy. Tôi liếc nhìn xuống biển. Dưới trận

mưa, mặt trận bốc hơi, như cuồn cuộn từng cơn trong một thùng nước sôi

khổng lồ vậy. Nếu là bay trên thủy phi cơ, ắt tôi phải ngao ngán tiếc thầm,

sao mà nó luôn tuồng rỗng tuếch. Nhưng tôi đang l|i phi cơ thường. Thì dù

rỗng hay không, cái lòng biển lên cơn ở dưới kia, hẳn không phải là chỗ

d{nh cho tôi đậu xuống đuống h{ng. Điều nhận định đó, chẳng rõ do đ}u m{

lại gây cho tôi một cảm giác bình yên phi lý. Biển thuộc một thế giới nào

không phải của tôi. Hỏng máy, ở đ}y, không can hệ với tôi, cũng không hăm

dọa tôi được: tôi nào có chuẩn bị lèo l|i để vào cuộc chịu chơi với biển chi

chút n{o đ}u.

Bay được một giờ rưỡi, thì mưa ngớt. Mây vẫn còn thấp lắm, nhưng

ánh sáng nghiêng trời xuyên xuống, xỏ qua m}y như một nụ cười dài rộng.

Tôi êm đềm thưởng ngoạn cái cuộc soạn sửa diên trì nọ cho một cảnh trời

tốt đẹp sẽ mở ra. Tôi đo|n biết, trên đầu mình hiện có một lớp bông trắng

phất phơ. Tôi l|i chếch sang một bên để tránh một cơn giông: giờ không cần

phải xuyên ngang giữa lòng mưa v{ b~o nữa. V{ đ}y, khung trời quang thứ

nhất…

Tôi linh cảm đo|n chừng thế thôi chứ không nhìn ra rõ, vì trước mặt

mình, trên mặt biển, chỉ thoáng thấy một làn mỏng xanh rờn như đồng cỏ,

một thứ màu cây trong sa mạc sắc lục rạng rỡ huy ho{ng v{ thăm thẳm, tựa

như m{u lục những đồng lúa mạch ở miền Nam Maroc đ~ từng khiến tôi

nao lòng rung động, lúc bay từ Sénégal về, sau ba nghìn cây số c|t. Đ}y cũng

vậy, tôi có cảm tưởng như đang ghé về một châu quận yên vui, và lòng thấy

nhẹ nhàng du khoái. Tôi quay lại anh Prévot:

- Xong xuôi rồi, tốt thật!

- Vâng, tốt thật…

Tunis. Trong lúc ấy éc-xăng, tôi ký v{o c|c giấy tờ. Nhưng khi tôi rời

bàn giấy, bỗng nghe một tiếng “rùm!”. Một thứ tiếng chói tai, không âm

vang. Tôi chợt nhớ đ~ từng có nghe một thứ tiếng tương tự: tiếng nổ trong

một gian nhà chứa. Hai người đ~ bỏ mạng giữa }m thanh kh{n đục nổ ầm

kia. Tôi quay nhìn về phía lộ dọc theo đường chạy của phi cơ: một ít bụi

khói bốc lên, hai chiếc xe tốc hành choảng vào nhau và dừng sững lại, bất

động như nằm trong băng đ|. Người ta hối hả ùa tới, kẻ chạy về phía hai

chiếc xe, kẻ chạy về phía chúng tôi:

- Gọi điện thoại… Một b|c sĩ… C|i đầu…

Lòng tôi se lại. Định mệnh vừa đ|nh trúng một đòn trong bóng chiều

yên tĩnh. Một vẻ đẹp bị tàn phá, một bộ óc thông minh, một cuộc đời… Bọn

cướp cũng từng tiến lên như vậy trong sa mạc, v{ không ai nghe được bước

chân dẻo dai khinh khoái của họ lướt trên mặt cát bao giờ. Trong một trại

đồn giữa sa mạc, cái tiếng xao xác ngắn ngủi do một trận cướp g}y ra, cũng

quả có dường như vậy. Rồi mọi sự chìm vào trong vắng lặng v{ng hoe. Cũng

một loại yên bình, cũng một loại vắng lặng… Một kẻ đứng gần tôi nói tới

chuyện vỡ sọ. Tôi không muốn biết, tôi không muốn biết gì nữa cả, về cái

trán cứng đờ đẫm m|u kia, tôi quay lưng về phía lộ, v{ bước thẳng lại chiếc

phi cơ. Nhưng giữ ở trong lòng một cảm tưởng gì về sự lăm le rập rình của

tai họa. Cái tiếng ầm nọ, lát nữa tôi sẽ còn nghe và nhận ra trở lại. Lúc tôi

còn bay giữa cơn cấp tốc hai trăm bảy mươi c}y số một giờ, tôi sẽ cọ sát

mép sườn d~y cao nguyên đen đủi của tôi, thì tôi sẽ nhận ra cũng c|i tiếng

khò khè kh{n đục chói tai: cũng c|i tiếng “ha!” của định mệnh, đương chờ ta tới địa điểm tao phùng.

Ha! Lên đường đi Benghaza vậy.

[3]

2

Lên đường. Chỉ còn hai giờ nữa thì ngày tàn. Tôi bỏ kính râm lúc bay

tới địa phận Tripolitaine. Cát vàng óng ả. Hỡi ôi! Hành tinh của chúng ta sao

mà hoang vắng! Một lần nữa, tôi lại thấy tại đ}y, trên mặt đất trần gian này,

những sông dài, những bóng râm cây lá, những nhà cửa con người, chỉ là do

những phối ngẫu dị thường của may rủi mà thôi. Còn bao nhiêu là cỗi cằn đ|

cát!

Nhưng mọi thứ đó đối với tôi giờ đ}y vẫn còn là xa lạ, tôi đương sống

trong địa hạt phi hành. Tôi cảm thấy đêm tăm đương đi tới, ta sẽ chìm vào

trong đó khép mình mất hút như trong một điện đ{i. V{o trong đó, ta khép

mình trong vòng suy tưởng cô đơn, theo những nghi lễ cốt thiết u huyền,

không chờ mong cõi ngoài cầu ứng. Toàn khối vũ trụ tục ph{m đ~ lẩn bóng

v{ tan đi. To{n thể phong cảnh này vẫn còn được di dưỡng trong ánh sáng

hồng v{ng, nhưng có c|i gì đ~ bốc hơi lẩn mất. Và tôi không biết, không biết

gì nữa cả, ngoài cái giờ bất tuyệt phát tiết trinh anh. Kẻ nào hiểu tôi, kẻ đó

hiểu tôi, là riêng ấy những ai đ~ từng chịu nhiếp phục bởi cái ân tình kỳ

tuyệt, với đường bay rẽ gió m{ đi. Tôi tạ từ thong dong, này trời cao, nắng

rộng. Tôi tạ từ, này những vùng vàng óng bao la có thể cho tôi tỵ nạn trường

hợp m|y hư… Tôi tạ từ những mục tiêu hướng dẫn. Tôi tạ từ những bóng

núi in hằn giữa thương khung, có thể giúp tôi tránh dễ dàng các mỏm đ|.

Tôi bước v{o trong đêm tối. Tôi rẽ gió ngất tạnh m{ đi. Tôi chỉ còn có ngàn

sao mù khơi l{ bạn…

Cái chết kia của doanh ho{n đương từ từ “th{nh tựu”. V{ từ từ, ánh

sáng biệt ly tôi. Đất và trời cũng từ từ hòa vào nhau hợp một. Đất bay lên

trời và tỏa rộng như khí sương. Những tinh tú đầu tiên run rẩy hình như

ngại ngùng trong bầu nước lục. Còn phải chờ lâu nữa mới thấy chúng tôi

biến dạng thành những hột kim cương cứng rắn như khuynh th{nh một

thuở bỏ ra đi. Còn phải chờ lâu nữa mới mở mắt mơ m{ng mà chứng giám

cuộc phiêu bồng sỏa lộng bóng sao băng. Ở giữa lòng một v{i đêm th}u lục

nhạt, tôi đ~ nhìn những tia lửa băng trời thành một đường rẽ vút như một

làn gió dài dàn rộng giữa muôn sao.

Prévot đang thử những đèn thường và những đèn phòng khi cấp cứu.

Chúng tôi bọc bóng điện bằng giấy đỏ hồng.

- Thêm một lớp nữa…

Anh bọc thêm một lớp nữa, và bật đèn. Ánh đèn vẫn còn sáng quá. Mờ

hơn tí nữa, nó sẽ vây mờ pha mận cho đ{n hương, che phủ bóng hình của

thế giới bên ngoài nhợt nhạt. Nó sẽ hủy tan đi cái chất nhờn phơn phớt còn

bám vào cảnh vật trong đêm tăm. Đêm đ~ v}y tr{n. Nhưng chưa phải là

sống thực. Một cung v{ng trăng mới, vẫn lân la. Prévot quay ra phía sau,

chạy trở về với bánh bèo nhận hột. Tôi gậm nhấm một chùm nho. Tôi không

đói, ng{y cũng chẳng kh|t. Cũng không mỏi chút nào, chỉ cảm thấy thân

phiêu bồng như c|nh bằng tiện gió, nếu Trời Phật vui lòng cho phép, con xin

rằng sẽ l|i m|y bay như thế này lai láng mãi suốt trăm năm.

Vầng trăng đ~ chết.

Tới Benghazi trong đêm đen u sầu như mực, Benghazi nằm trong đ|y

thẳm một bóng đêm dằng dặc không một vầng sáng gợn. Tôi đ~ nhìn tho|ng

thấy thành phố, lúc tôi tới nơi. Tôi còn lượn một vòng phi cơ để tìm sân bay,

thì hỏa tiêu rực đỏ. Tôi xoay phi cơ trở lại. Ánh sáng một ngọn pha hướng

lên trời, vút thẳng như tia hồng một trận hỏa hoạn, xoay tròn và vạch một

đường vàng óng trên sân bay. Dụng cụ ban đêm ở sân này thật là chỉnh bị.

Tôi hãm máy và khởi sự lao xuống như lao v{o nước đen ngòm.

Tôi hạ c|nh lúc mười một giờ đêm. Cho phi cơ chạy về phía ngọn đèn

pha. Những sĩ quan v{ lính tr|ng nh~ nhặn hết mực, theo tia sáng chớp của

ngọn đèn pha m{ ẩn hiện, lúc mờ lúc tỏ, lúc thấy lúc không, người ta thu

giấy tờ của tôi, người ta bắt đầu cho xăng v{o m|y. Công việc sẽ xong xuôi

trong hai mươi phút.

- Ông thử quay phi cơ một vòng, và bay ngang trên chúng tôi, kẻo

chúng tôi không rõ ông cất c|nh được chưa.

- Lên đường.

Tôi cho phi cơ lăn trên con đường vàng óng, trên một lối không

chướng ngại. Phi cơ tôi, loại “Simoun” cất cánh nhẹm lạ, trước khi chạy hết

khoảng đường dành sẵn. Ngọn đèn chiếu cứ dọi theo tôi, l{m vướng mắt tôi

lúc tôi muốn quay chuyển lại. Rồi nó chợt tr|nh lìa ra, người ta đ~ hiểu rằng

nó làm tôi quáng mắt. Tôi vừa quay ngược vừa cho phi cơ lên chiều thẳng đứng, thì chợt ngọn đèn chiếu, lần nữa lại đập thẳng vào giữa mặt tôi,

nhưng vừa chớm chạm, lại vừa chợt buông “chưởng lực”, vừa tung thẳng

v{o mình đ~ vội vàng chia ly ra nẻo kh|c, v{ hướng vào thinh không mà trút

ngậm cơn óng ả bùi ngùi. Qua những mối ân cần tương nhượng kia, tôi nhận

ra niềm hòa nhã cao vời. “Hồng lưu tỷ sơn hải nhi c}u trường, hạc phát quý

tri thù chi mạc bổ…”. Tạ từ nhau, giờ lại xin xoay chiều về Sa Mạc.

Những ban khí tượng tại Paris, Tunis và Benghazi có cho tôi biết có

một cơn gió thuận chiều thổi theo đuôi, tốc độ từ ba mươi tới bốn mươi c}y

số một giờ. Cậy v{o đó, tôi nhằm thẳng vào khoảng giữa đoạn đường nối

liền Alexandrie v{ Le Caire. Như vậy, tôi sẽ tr|nh được những khu cấm địa

ven bờ biển, và cho dẫu mình có sẽ chịu những cơn phiêu hốt không ngờ

của phi cơ trên dặm bay, thì trên đường hàng không tôi vẫn còn có thể bám

vào những tiêu điểm, hoặc về phía tả, nơi những ánh lửa của một trong hai

thành phố kia, hoặc nói chung, tựa vào những ánh lửa trong lưu vực sông

Nil. Tôi sẽ bay suốt ba giờ hai mươi phút, nếu gió không đổi cơn. Bay ba giờ

bốn mươi lăm, nếu gió yếu bớt. Và tôi bắt đầu heo hút vượt một ng{n năm

mươi c}y số sa mạc.

Không còn trăng. Một chất nhờn như dầu thạch não tối sầm, một màu

đen như mực loãng ra, tỏa lên tới ngàn sao. Tôi sẽ không nhìn thấy một đốm

lửa, không đón được một điểm tiêu mốc để dẫn đường, thiếu vô tuyến tôi sẽ

không nhận được một dấu hiệu nào của con người trước khi v{o lưu vực

sông Nil. Tôi cũng chả thử gắng quan s|t gì kh|c, ngo{i c|i địa bàn và cái

máy Sperry. Tôi chẳng còn chú tâm vào một cái gì nữa cả, ngoài cái tiết nhịp

hô hấp lững lờ chậm chạm của một đường quang tuyến lăn tăn trên mặt

kính mờ mờ của cái máy. Lúc nào Prévot rục rịch dời chỗ, tôi dìu dịu sửa sai

cho những biến thiên của định t}m điểm. Tôi đưa phi cơ lên độ cao hai ngàn

thước, nơi người ta đ~ b|o cho biết là gió sẽ thuận chiều. Lâu lâu tôi bấm

đèn một c|i, để xem xét các mặt kính động cơ, không phải c|i n{o cũng có

dạ quang chiếu dọi, nhưng thường thường phần lớn thì giờ, tôi thu hình kín

trong bóng tối, giữa những chòm sao tí hon của mình đương đề huề gieo

|nh s|ng, cũng một thứ ánh sáng khoáng hóa u mờ như tinh tú dạ du, cũng

thứ ánh sáng ẩn mật, không mòn hao; v{ cũng như tinh tú trên trời, những

chùm sao của tôi cũng nói chung một phiêu bồng ngôn ngữ. Tôi cũng không

kh|c chi nh{ thiên văn học ngó trời, tôi cũng đang đọc một quyển sách về

chuyển vận cơ học ngàn sao. Ngoại vật thảy đều chìm tắt hết. Chỉ còn có anh

Prévot đương ngủ, sau mấy phen gượng chống không lại con ma “miên”, thì tôi, tôi chỉ còn tôi cô độc, một mình c{ng thưởng ngoạn êm ái mối cô đơn.

Chỉ còn có tiếng ù ù dịu dịu của động cơ quay, v{ trước mặt tôi, trên tấm

bảng yên bình, l{ bao nhiêu sao v{ng yên tĩnh.

Tuy nhiên tôi gẫm lại… Chúng tôi không thụ hưởng chút gì của vầng

trăng, m{ lại thiếu luôn máy vô tính. Trông cậy vào gì bây giờ. Không chút

liên lạc nhỏ buộc vào với đời, với cõi thế dưới kia, cho tới lúc chạm vào với

tấm băng |nh s|ng sông Nil. Chúng tôi đứng ngoài vòng mọi thứ, chỉ duy

còn có c|i động cơ n{y l{ cầm giữ chúng tôi và giúp chúng tôi gìn mình

trong cái hồ nhựa đen như mực. Chúng tôi đang lần mò dò dẫm vượt qua cái

hang s}u thung lũng tối mò của những chuyện thần tiên kinh dị, là cái vùng

thung lũng của thử thách chầy chầy. Đ}y, không hòng mong ai giải cứu. Đ}y,

không hòng ngóng đợi độ lượng bao dung. Lỡ lầm là chết. Phó mặc phận

mình cho Trời Đất phó mặc trở cơn. Dù ng{i xoay đến thế, dù đấng vần tới

kia.

Một luồng tia sáng lóe ra từ một kẽ m|y điện phân phối. Tôi gọi Prévot

dậy tắt nó đi. Prévot rục rịch cựa mình trong bóng tối, èo ụt như con gấu ù

lì, phì phạch rũ lông, lò dò tiến lại. Chẳng rõ anh lúi húi bận rộn tết dệt cái

thứ gì trong bóng tối với một mớ mùi xoa v{ đen thui mớ giấy. Luồng tia

sáng chợt tắt. Nó đ~ vạch một đường rạn nẻ trong thế giới này. Nó không

cùng loại, không cùng tính chất với thứ ánh sáng lờ mờ hắt hiu xa vắng của

ánh quang tuyến tại đ}y. Nó l{ thuộc loại ánh sáng của hộp đêm, nó không

phải là ánh vàng tinh tú. Nhất là nó lại làm chóa mắt tôi, và xóa mờ những

tia vàng man mác khác.

Sau ba giờ bay, một hào quang khá rạng rỡ bỗng phát hiện bên phía

tay phải. Tôi ngó vào. Một đường rẽ lộng lẫy bám vào ngọn đèn ở đuôi c|nh,

khép nép thế nào mà mãi tới bây giờ tôi mới chợt thấy ra. Một loại ánh sáng

lúc giật lúc buông, lúc chùng lúc thẳng, chớm kề cà, chợt lẩn bóng đi đ}u: ha!

thế là tôi lại bay vào vòng thao túng của một áng mây. Chính áng mây kia

đang chơi trò phản chiếu, lung lạc đảo điên |nh ngọn đèn. Nếu bay gần

những tiêu mốc, ắt l{ tôi đ~ mong mỏi một bầu trời trong trẻo, hơn l{ c|i

điệu gần xa l~ng đ~ng thế n{y. C|nh phi cơ s|ng ra trong vòm h{o quang đó.

Ánh sáng dồn tụ, dừng im, tỏa rộng, kết thành tại đó một cụm đóa hồng

vàng. Những luồng khí thăm thẳm trở cơn bỗng l{m cho phi cơ tôi xiêu lệch.

Tôi dặt dìu bay tới đ}u đó trong l{n gió thổi vào những lớp lớp mây tuôn,

chẳng biết là dày hay mỏng. Tôi lái lên cao tới hai ng{n năm trăm thước mà chẳng thấy nhô khỏi để thoát ra. Tôi lại cho phi cơ xuống thấp tới một ngàn

thước cao. Cụm hoa hồng vẫn còn nguyên tại đó, im lìm bất động và mỗi lúc

mỗi huy hoàng lộng lẫy tưng bừng c|i đóa đẹp thêm ra. Tốt. Tốt lắm. Được

rồi. Mặc nhé. Ai hơi sức đ}u m{ gùn ghè m~i với cái loại lần khan. Tôi nghĩ

qua chuyện khác. Rồi sẽ rõ cái sự đời nó hay nó dở, lúc ra khỏi cái vòng

cương tỏa đó nghe em. Thật tình, tôi không ưa c|i thứ ánh sáng ba xu của

những quán hàng bốn cắc.

Tôi tính nhẩm: “Tại đ}y, mình lai rai sụt trồi chút ít, mình nhảy lộn,

nhào lầm ít nhiều, đó chẳng qua cũng l{ thuận lẽ thường thôi ạ, có chi đ}u

mà phải lấy l{m điều. Tuy nhiên, mình đ~ phải chịu đựng những luồng khí

phiêu hốt trở cơn suốt dặm đường bay, mặc dù lên đúng độ cao, mặc dù trời

quang như thể… Gió không dịu cái hồn, thì mình phải hỏi trăng. Gió lần

kh}n chưa tạnh, ắt l{ mình đ~ vượt qua cái tốc độ ba trăm c}y số một giờ.

Dù sao tôi cũng chẳng biết cái gì cho rõ cái gì lắm, thôi thì hãy chờ cái lúc lọt

ra ngoài cái vòng vành vạnh của mây cong, rồi sẽ liệu mà tính sau cho chắc

ăn c|i phương hướng để định lại vị trí ở giữa cơn phiêu bồng.

Và ta ra khỏi biển mây. Chùm hoa vụt biến. Chính vì nó vụt biến nên

tôi chợt biết là mình vừa ra khỏi đ|m m}y. Tôi nhìn thấy đằng trước và thấy

lờ mờ, nếu quả còn lờ mờ thấy được chút chi, một thung lũng thanh thiên

eo hẹp và bức th{nh trùng điệp m}y giăng. Chùm hoa sẽ tái hiện.

Tôi sẽ không ra khỏi cái cõi nhựa dằng dai này, trừ một vài giây phút

ngắn. Sa vào tấm lưới này sau ba giờ rưỡi hàng không, thật quả l{ điều đ|ng

ngại. Tôi bắt đầu e ngại. Bởi vì tôi tiến gần tới sông Nil, nếu thật tôi đ~ bay

được đúng như tôi tưởng chừng trong trí. Có lẽ may ra tôi sẽ thấy con sông

Nil qua các khoảng trống trong vùng mây dằng dặc, nhưng rủi là khoảng

trống ít qu|. Tôi chưa d|m xuống thấp thêm: vì ví phỏng mà lỡ ra mình đ~

bay chậm hơn mình tưởng, thì hiện giờ mình còn đương lẩn quất trên

những miền đất cao.

Tôi vẫn không lo lắng chút nào. Chỉ sợ là sợ phí mất thì giờ. Nhưng tôi

không muốn mình điềm nhiên thanh thản m~i, tôi đặt một giới hạn cho yên

tĩnh: bốn giờ mười lăm phút bay. Sau thời hạn đó, thì dẫu có đứng gió, mà

gió đứng đó l{ điều mười phân không chắc chín, tôi hẳn cũng sẽ vượt quá

lưu vực sông Nil.

Lúc tôi bay vừa tới chạm vào cái tua mép viền vành của đ|m m}y kia,

thì cái chùm hoa hồng thắm bỗng toe ra nhiều tia lửa lập lòe càng dồn dập

chuyển cơn nhanh, rồi đột nhiên tắt mất. Tôi thật không ưa c|i lối ra dấu

hiệu bí mật tư thông n{y với những loài mà cuồng quỷ loạn của đêm đen.

Một vì sao xanh lục nhô ra trước mặt tôi, sáng ngời như một ngọn hải

đăng. Đó l{ sao, hay đó l{ đèn? Tôi thật cũng chẳng ưa gì c|i thứ ánh sáng

siêu nhiên này, cái thứ tinh cầu ảo thuật, cái thứ quyến rũ mê hoặc tai hại

kia.

Prévot chợt thức dậy và bấm đèn rọi các mặt kính động cơ. Tôi vừa

bay tới một khe hở long lanh giữa hai đóa m}y ng{n phiêu hốt, tôi nh}n cơ

hội mà nhìn ngó xuống phía dưới kia. Prévot quay đi ngủ lại.

Cũng chẳng có chi dưới đó m{ nhìn.

Bay được bốn giờ năm phút, Prévot đến ngồi bên cạnh tôi.

- Lẽ ra tới Le Caire rồi mới phải…

- Tôi cũng nghĩ vậy…

- Kia đó l{ sao hay ngọn đèn pha vậy?

Tôi đ~ h~m bớt máy, chắc vì thế mà Prévot thức giấc. Anh vốn thường

rất nhạy cảm, máy chạy kh|c đi một chút là biết ngay. Tôi bắt đầu chầm

chậm cho phi cơ xuống thấp, để lướt ra khỏi lùm mây um tùm.

Tôi vừa xem lại bản đồ. Dù sao thì mình cũng đ~ cập tới độ 0: không

còn chỉ phải ngại. Tôi cho phi cơ xuống nữa, xuống nữa và bẻ lái xoay qua

hướng cực Bắc. Như vậy tôi sẽ đón nhận ánh lửa các thành phố chiếu về các

tấm kính cửa sổ. Chắc tôi đ~ vượt quá khu phận các phố phường, vậy thì

chúng ta sẽ hiện ra ở phía tả. Bây giờ tôi bay dưới các lớp mây chồng chất.

Nhưng cũng đang bay dọc một đ|m m}y thấp hơn ở về mé bên trái. Tôi bẻ

lái xoay chiều để khỏi vướng vào cái lụy của vòng lưới nó giăng ra, v{ bay

theo hướng Bắc Đông Bắc.

Đ|m m}y n{y quả thật còn xuống thấp hơn, không còn ngờ chi nữa, nó

lấp mất cả chân trời trước mặt tôi. Tôi không dám liều xuống thêm nữa. Tôi

đ~ tiến tới độ cao 400 trong cao độ kế, nhưng tôi không rõ |p lực không khí

vùng n{y. Prévot nghiêng người. Tôi nói lớn: “Tôi sắp chạy thẳng ra biển, tôi

sẽ dông thẳng ra biển, để khỏi chạm đất…”

Kể ra thì cũng chẳng có gì chứng tỏ l{ tôi đ~ không lạc ra biển trước

mất rồi. Dưới đ|m m}y kia, bóng tối quả là dằng dặc đen kịt tối sầm. Tôi dán

mắt vào khuôn cửa sổ. Tôi cố gắng nhìn đọc cho ra c|i gì bên dưới. Tôi cố

gắng tìm cho thấy những đốm lửa, những dấu hiệu. Tôi là một con người,

một con kẻ, đang bới tìm khai quật c|i đống trong tàn than. Biết chăng còn

hột kim cương trong đó. Tôi l{ một gã hì hục se lòng đưa tay mò v{o c|i đ|y

của một lò sưởi sâu hang. Biết còn chăng trong đó những ngọn lửa nóng

lừng tồn sinh ngấm ngầm ng{y đêm }m ỷ cháy?

- Một ngọn hải đăng!

Hai chúng tôi cùng nhìn ra một lượt cái cạm bẫy ấy vẻ son lập lòe. Rõ

thật l{ điên. Ngọn đèn ma ấy ở đ}u? C|i trò đùa của đêm ma qu|i ấy? Vì

chính trong c|i gi}y m{ Prévot v{ tôi cùng nghiêng đầu tìm lại nó, ở dưới

mình ba trăm thước, thì bất thình lình…

- A!

Tôi nhớ rõ mình không nói gì khác nữa. Tôi nhớ rõ mình không cảm

thấy gì khác, ngoài một tiếng ầm dữ dội làm chấn động đảo điên c|i thế giới

chúng tôi ở chín tầng cội gốc. Với tốc độ hai trăm bảy mươi cây số một giờ,

chúng tôi chạm m|u tim v{o đất.

Tôi nhớ rõ mình không mong chờ gì khác, trong một phần trăm gi}y

đồng hồ tiếp sau đó, v}ng, không chờ gì khác ngoài cái luồng chớp lóe của

một ngôi sao khổng lồ trong một trận nổ tung, cuốn hút hai anh em tôi vào

để cùng chung tan tành một cuộc. Cả Prévot, cả tôi, không đứa nào cảm thấy

một chút xíu xúc động. Tôi chỉ nhận thấy trong mình một chờ đợi thiết tha,

chờ đợi mênh mông để xem xuất hiện cái luồng chớp lóe huy hoàng của một

ngôi sao sắp xóa tan hai hình hài một lúc. Nhưng trước sau vẫn không có

một ngôi sao hồng tía nào hiện ra cả. Chỉ có một thứ gì như cơn động đất ì

ầm tàn phá mất cái buồng máy chúng tôi, rứt tung các cửa sổ, bắn tung các tấm tôn ra xa trăm thước, một cơn động đất ầm ầm dội vào tận đáy ruột

gan. Chiếc phi cơ rung động rít lên như một lưỡi dao phóng từ đằng xa, cắm

vào gỗ cứng. Hai đứa tôi quay cuồng thất điên b|t đảo trong cơn thịnh nộ

đùng đùng sấm vang kia. Một gi}y, hai gi}y… Chiếc phi cơ vẫn rung lên như

cầy sấy v{ tôi điên cuồng đợi, lòng nóng như thiêu, cầu mong cho bao nhiêu

tiềm lực súc trữ trong tàu hãy sớm bộc ph|t như một trái lựu đạn nổ tung

cho tan tành chiếc phi cơ trong một cơn bụi c|t nhưng từng trận chấn động

dập dồn trong lòng đất nối đuôi nhau điệp điệp, mà rút cuộc vẫn không đủ

xô phún thạch ra ngoài cho trào xé miệng hỏa sơn. Tôi không hiểu, tôi

không hiểu một chút gì hết cả, về cái việc làm ngấm ngầm bí mật kia. Tôi

không hiểu, không hiểu cuộc chấn động, không hiểu trận bất bình, không

hiểu cơn thịnh nộ, không hiểu sự duy trì bất tận trễ tr{ng kia… năm gi}y…

s|u gi}y… V{ bất thình lình, một cảm giác xô ùa xoay tít, một sức mạnh kích

phá tan tành, làm tung bay lả tả, nào thuốc điếu n{o nón đội trên đầu, nào

khăn đỏ vắt vai – nó chợt đập n|t c|nh phi cơ tay phải, rồi chợt thôi, thôi

hết, thôi rồi, thôi thế, mộng thôi oanh… Chỉ riêng còn thôi, là im lìm giá lạnh.

Chỉ riêng còn chút, là lạnh giá im lìm. Tôi la lớn:

- Prévot, nhảy mau!

Cùng một lúc, Prévot la lớn:

- Lửa!

Lập tức chúng tôi phóng ra ngoài qua khung cửa sổ vỡ toang. Chúng

tôi đứng ra xa hai mươi thước. Tôi bảo Prévot:

- Không hề gì?

Anh ta trả lời:

- Không hề gì!

Nhưng anh cúi xuống xoa đầu gối.

Tôi bảo:

- Mó lại xem, rục rịch thử, thề với tôi l{ anh không g~y xương n{o

hết…

Anh trả lời:

- Không hề chi cả, chỉ tại cái bôm trừ lửa.

Tôi, tôi nghĩ anh sắp ng~ lăn ra thình lình, bị rạch toét ra từ đầu tới

rốn, nhưng anh lặp trở lại, hai mắt đăm đăm:

- Chỉ tại cái bôm trừ lửa đấy!...

Tôi, tôi nghĩ: anh ta điên rồi đó, anh ta sắp hoa tay múa ch}n…

Nhưng mắt anh đ~ rời chiếc phi cơ, b}y giờ chắc chắn là khỏi cháy,

anh quay lại nhìn tôi và bảo:

- Không can chi cả, chỉ tại cái bôm trừ lửa nó móc v{o đầu gối tôi.

3

Làm sao cắt nghĩa được, làm sao tôi còn sống sót. Tôi cầm đèn bấm

trong tay, lần theo vết chiếc phi cơ trên mặt đất cách chỗ nó ngừng hai trăm

năm mươi thước, đ~ bắt đầu thấy những mảnh sắt xoắn cong và những

mảnh tôn tung tóe trên mặt cát, suốt cả khoảng đường. Sáng ngày ra, chúng

tôi mới thấy rõ l{ phi cơ chúng tôi đ~ chạm dọc nhiều một mặt dốc dịu, ở

trên một dải cao nguyên hoang liêu. Ngay tại chỗ chạm cọ đầu tiên, có một

lỗ thủng trong cát, giống như lỗ thủng do một lưỡi c{y đ{o. Phi cơ không

thọc mạnh, đ~ theo trớn bay m{ trườn đi trên bụng như lo{i bò s|t, cuồng

nộ rung chuyển lướt tới như một c|i đuôi rắn điên dại phiêu bồng. Trong

tốc độ hai trăm bảy mươi c}y số một giờ, nó đ~ bò, l{ thế. Và chúng tôi nằm

trong cuộc nọ mà vẫn còn giữ được cái mạng mình, chắc là nhờ những viên

đ| đen tròn trịa, dìu dặt tự do lăn tròn trên mặt c|t, đưa lại cho phi cơ một

c|i đ{ dịu ngọt, như chăn nệm êm đềm còn đ{o tạo thành giữa cơn hấp hối

một trận ngang ngửa của lá cánh dìu dập, thể xác suýt tan tành, mà hồn

mộng đ~ t|i sinh.

Prévot lo bứt dây cho các hòm chứa điện để tránh sự nổ cầu chì gây

hỏa hoạn về sau. Tôi tựa lưng v{o c|i động cơ, v{ suy nghĩ: trong lúc bay, có

thể tôi đ~ phải chịu đựng trong bốn giờ mười lăm phút, một cơn gió năm

mươi c}y số một giờ, trong mình tôi quả thấy thật rời rạc. Nhưng nếu gió có

đổi thay tốc độ khác những dự ước ban đầu, tôi vẫn hoàn toàn không thể

biết nó trở hướng ra sao. Thế thì định vị trí cho mình ở trong một khoảng

vuông mỗi bề bốn trăm c}y số.

Prévot tới ngồi cạnh tôi và bảo:

- Còn sống, thật là chuyện lạ lùng…

Tôi không trả lời gì cả, và không cảm thấy một chút hân hoan. Một ý

nghĩ nho nhỏ len lỏi tới, len lấn v{o trong đầu, và nhẹ nhẹ xui tôi băn khoăn.

Tôi bảo Prévot hãy bấm đèn của anh lên để làm tiêu mốc, rồi tôi cầm

đèn của mình bước thẳng về phía trước mặt. Tôi chăm chú nhìn mặt đất. Tôi

tiến đi chầm chậm, theo một nửa vòng tròn thật rộng, và nhiều lần thay đổi

hướng đi. Tôi so|t tìm mặt đất, như kiếm một chiếc nhẫn rơi. Khi n~y, tôi

cũng đ~ chờ ngọn lửa thiêu như vậy. Tôi vẫn đi ho{i trong bóng tối, lom

khom trên cái vòm tròn ánh sáng của chiếc đèn tôi dọi ra. Thật vậy rồi…

Thật vậy rồi. Tôi lần lần quay lại phía phi cơ. Tôi ngồi cạnh phòng máy và

ngẫm nghĩ. Tôi cố tìm một lý do để hi vọng và ngẫm nghĩ. Tôi kiếm một dấu

hiệu đời sống đem về, nhưng đời sống không ra dấu nào cả cho tôi.

- Prévot, tôi không thấy một ngọn cỏ n{o đ}y cả.

Prévot nín lặng, tôi không biết anh đ~ hiểu ý tôi chưa. Rồi ta sẽ bàn trở

lại chuyện này, khi màn kịch sẽ kéo lên lúc trời hừng s|ng… Tôi chỉ thấy mệt

mỏi vô cùng, tôi nghĩ: “khoảng bốn trăm c}y số, ở giữa lòng sa mạc!...”. Bỗng

vọt đứng lên:

- Nước!

Bình chứa xăng, bình đựng dầu, thảy đều vỡ sạch. Các bình chứa nước

cũng không hơn gì. C|t đ~ hút hết toi loi, không còn một giọt. Chúng tôi tìm

lại được một nửa lít cà phê ở đ|y một thermos bể vụn, một phần tư lít rượu

trắng ở đ|y một bình khác. Chúng tôi lọc các thứ nước uống đó v{ tỉ mỉ trộn v{o nhau. Chúng tôi cũng tìm ra được một ít nho và một quả cam hường.

Nhưng tôi nhẩm tính: “Năm giờ đi trong sa mạc, dưới ánh nắng mặt trời, sẽ

chẳng còn chi…”.

Chúng tôi vào nằm trong máy bay, tôi duỗi dài, tôi sắp ngủ, tôi đưa v{o

chiêm bao tất cả đầu đuôi cảnh trạng bây giờ: chúng tôi tuyệt nhiên không

rõ vị trí mình l{ đ}u cả. Chúng tôi không có đủ một lít nước uống. Nếu

chúng tôi rơi tại trên đường bay, hoặc xê xích chút ít, thì cũng tám ngày sau

mới mong người ta tìm thấy, không mong gì sớm hơn, v{ khi đó thì đ~

muộn. Còn nếu chúng tôi rơi lệch ngả, thì sáu tháng sau mới có người tìm

thấy. Không thể trông cậy vào những phi cơ: chúng sẽ tìm kiếm chúng tôi

trên dặm đường ba nghìn cây số.

- A! Rủi thật… Prévot bảo.

- Vì sao?

- Mình đ|ng lẽ đ~ được chết hay ho trong một nháy.

Nhưng không lẽ chịu đầu hàng vội thế. Prévot và tôi trấn tĩnh lại tinh

thần. Không thể tuyệt vô hy vọng. Có thể tình cờ may mắn, dù rất mỏng

manh, được một phi cơ ngẫu nhiên như thần linh bất ngờ tới cứu. Cũng

không được phép bó tay ngồi lì, bỏ lỡ một oasis gần gũi đ}u đó, không

chừng. Biết đ}u…? Bữa nay, chúng ta sẽ đi suốt ngày. Rồi quay trở lại bên

phi cơ. V{ trước khi đi, chúng ta sẽ vạch chương trình bằng chữ thật to ghi

trên mặt cát.

Vậy l{ tôi khoanh người nằm yên ngủ cho tới sáng. Và tôi rất sung

sướng mà ngủ. Bao nhiêu nhọc mệt vây phủ tôi trong một vòng ảnh hình

vang bóng. Tôi không còn cô độc trong sa mạc, giấc ngủ thiu thiu như lai

láng biết bao giọng nói, c}u cười, những kỷ niệm, những tiếng tâm sự thổ lộ

thì thầm. Tôi chưa thấy kh|t nước, tôi còn cảm thấy khỏe khoắn bình an, tôi

phó thân mình cho giấc ngủ như phó hết cuộc đời cho mạo hiểm mang đi.

Thực tại lùi dần, nhường đất đai cho mộng tưởng…

A! Sự việc không còn như vậy nữa, lúc trời sáng ra!

4

Tôi đ~ từng yêu Sahara. Tôi đ~ từng sống nhiều đêm tại những vùng

phiến loạn. Tôi đ~ từng thức giấc giữa bãi rộng hồng v{ng gió đùn lên đợt

sóng như trên mặt trùng dương. Tôi đ~ từng nằm đó chờ người tới cứu, và

ngủ dưới c|nh phi cơ, nhưng không s|nh được với sự vật tại chốn này.

Chúng tôi bước đi bên sườn hông những ngọn đồi cong mỏm. Chất đất

gồm toàn là cát phủ kín bằng lớp sỏi đen bóng lo|ng trông như những vảy

kim khí, và tất cả các chỏm đồi xung quanh chúng tôi cũng óng |nh như gi|p

sắt. Chúng tôi lạc trong một thế giới khoáng thạch. Chúng tôi bị vây hãm

trong một khung cảnh sắt.

Vượt qua chóp đồi thứ nhất, thấy xa xôi một chóp kh|c tương tự, cũng

lóng l|nh đen sì. Chúng tôi vừa bước đi, vừa kéo lết gót giày cho sát mạnh

vào mặt đất, cốt để đ|nh dấu con đường, lát nữa mò theo mà quay về.

Chúng tôi nhằm thẳng mặt trời m{ đi tới. Theo hướng chính Đông, đó l{

điều quyết định tối ư vô lý của tôi. Không có một lý lẽ n{o thích đ|ng xui tôi

nhằm theo hướng đó, bởi vì thảy thảy cùng cho phép tôi nghĩ rằng đ~ vượt

quá sông Nil: cả khí tượng, cả thời gian đ~ bay. Nhưng tôi đ~ có thử nhằm

theo hướng T}y m{ đi một đoạn ngắn, và cảm thấy một nỗi khó chịu, một

mối bất an, không biết do đ}u. Thế là tôi quyết định g|t hướng Tây lại ngày

mai. Và tạm thời cũng bỏ qua hướng Bắc, tuy hướng n{y đưa ra biển. Ba

ngày sau, giữa một cơn b{ng ho{ng mê sảng, khi chúng tôi quyết định từ giã

hẳn chiếc phi cơ v{ bước thẳng tới phía trước cho tới lúc kiệt sức, chúng tôi

cũng lại nhằm hướng Đông m{ đi. Đúng hơn l{ nhằm Đông Đông Bắc, cũng

một cách thật vô lý, và thật không hy vọng gì cả. V{ sau n{y, được giải cứu,

chúng tôi mới nhận thấy rằng không một hướng nào khác có thể giúp chúng

tôi thoát nạn trở về, bởi vì nếu theo hướng Bắc thì nửa đường kiệt lực,

chúng tôi không l{m sao đi cho tới biển. Nói ra nghe thật là phi lý buồn

cười, nhưng quả thật ngày nay tôi cảm thấy dường như rằng trong lúc tịt

mù phương hướng, không có một chút chỉ dẫn nào hoặc nhiếp triệu n{o để

dựa vào mà chọn hướng đi, thì tôi đ~ chọn hướng Đông

[4]

chỉ bởi cái lý do duy

nhất l{ hướng đó xưa kia đ~ từng giải cứu được người bạn thân thiết của tôi là anh

Guillaumet từng rơi lạc trong d~y Andes, nơi tôi đ~ bay lùng khắp ngả tìm kiếm anh. Từ đó,

về sau, đối với tôi, phương Đông đ~ }m thầm trở th{nh phương trời của sự sống.

Đi suốt năm giờ, thì phong cảnh thay đổi. Một dãy cát uốn mình như

một dòng sông chảy giữa một miền thung lũng, v{ chúng tôi men theo đ|y

thung lũng m{ đi. Chúng tôi dấn bước thật nhanh, chúng tôi cần đi gấp, đi xa

được bao nhiêu hay bấy nhiêu và quay trở về trước lúc trời tối, nếu không

tìm kiếm được gì. Bất thình lình tôi dừng lại:

- Prévot.

- Gì?

- Những dấu ch}n…

Từ bao l}u chúng tôi đ~ quên không vạch đường làm dấu ở sau lưng?

Nếu không tìm lại được lối về, thì chịu chết.

Chúng tôi trở gót, nhưng chếch hướng về phía tay phải. Khi đ~ kh| xa,

chúng tôi sẽ đ}m ngang theo hướng thẳng góc với hướng ban đầu này, thì

thế n{o cũng bắt gặp trở lại những dấu chân trên quãng đường có vạch dấu.

Lúc đ~ tìm lại được mối dây nọ, chúng tôi tiếp tục đi. Khí nóng tăng

lên, và cùng với khí nóng, ảo ảnh huyễn hoặc hiện ra. Thoạt tiên chỉ là

những ảo ảnh lai rai thôi. Những hồ nước lớn hiện ra và biến mất, lúc chúng

tôi vừa tới. Chúng tôi quyết định vượt ngang thung lũng c|t, v{ leo lên chóp

đồi cao nhất để quan sát chân trời. Chúng tôi đi đ~ được sáu giờ. Với những

bước sãi rộng kia, ắt là phải đi được hơn ba mươi lăm c}y số rồi vậy. Chúng

tôi đ~ lên tới chóp ngọn đồi đen thui nọ, lặng lẽ ngồi xuống. Dưới chân

chúng tôi, thung lũng c|t bò v{o chìm trong một vùng cát hoang liêu không

có đ|; |nh s|ng trắng bạch chói rực như thiêu đốt mắt. Xa tít đằng kia là mù

khơi trống rỗng. Nhưng tận chân trời, trò sõa lộng của ánh sáng tạo nên

những ảo ảnh h~i hùng hơn. Xui t}m cuồng trí loạn. Những ph|o đ{i đồn

lũy, những th|p chuông gi|o đường, những khối kỷ hà với những đường

thùy trực. Tôi còn nhận thấy cả một vết đen khổng lồ tựa hồ một vùng cây

cỏ, với nước ngâm trong vắt, mà thấy gì thật ra? Một áng mây tụ trên vòm

nọ, áng mây cuối cùng trong những |ng m}y đ~ lang thang tan mất hình hài

trong lòng nắng rộng ngày trời và sẽ hiện trở lại ngậm ngùi trên sa mạc

chiều nay.

Tiến thêm cũng chẳng ích gì, toan tính bước nữa cũng chẳng đưa tới

đ}u. Thôi phải liệu quay về bên chiếc phi cơ, c|i phù tiêu sặc sỡ đỏ hồng và

trắng phếch nọ sẽ không chừng m{ được các bạn hữu lưu t}m lần mò tới gạ.

Mặc dù chẳng hy vọng nhiều nơi những cuộc tìm kiếm của họ, tôi vẫn cảm

thấy đó l{ chút may duy nhất còn có thể giải cứu được chúng tôi. Và phải về,

nhất là bởi lẽ những giọt nước uống cuối cùng, chúng tôi để tại đó, v{ b}y

giờ đ~ tới lúc phải uống, tuyệt đối phải uống, không thể kiên trì. Phải về để

sống. Chúng tôi là những tên tù bị giam hãm trong cái vòng sắt: cái khát là

nước, nó vạch biên thùy của một miền tự do tự trị rất mực phù du.

Nhưng khổ não làm sao, là quay gót! Khảm kha thế nào là cái việc lui

chân! Và biết chừng đ}u, nếu cứ tiến thêm một chút nữa, có thể bất ngờ

thấy cõi sống đương cười xinh. Phía bên kia những dã man ảo ảnh, biết

chừng đ}u ch}n trời hồng thắm đương chứa chan những Chợ Lớn phố

phường, những Chợ Nồng phố hội, những đô th{nh thật sự đương lai l|ng

chờ ta, những nguồn tươi nước ngọt, những thủy thảo thúy thanh đương

ngẩn ngơ phơi linh hồn cho cỏ mọc đầy đủ hai hàng. Vẫn biết rằng quay trở

về là hợp lý. Ấy vậy mà vẫn cảm giác thấy như chừng bẻ lái một lần là trầm

lu}n vĩnh viễn. Hỡi ôi, em giết chết hồn ta trong cái lời kêu gọi.

Chúng tôi nằm bên cạnh phi cơ. Chúng tôi đ~ đi hơn s|u mươi c}y số,

và trở về mang đủ hơn s|u mươi c}y số ở trong khớp xương ch}n. Nước

uống đ~ nốc cạn rồi. Mà chân mây biền biệt, chúng tôi nào có nhận ra được

c|i gì đ}u của diễm lệ phương Đông. Không một bạn hữa nào bay ngang

trên cõi bờ này cả. Chúng tôi sẽ chịu đựng được bao lâu nữa? Ghì môi chống

trọi tới bao giờ? Cái khát hoành hành, cháy bỏng suốt th}m t}m…

Chúng tôi góp nhặt vài mảnh vỡ c|nh phi cơ, v{ dựng lên một giàn lớn.

Chúng tôi đ~ chuẩn bị xăng v{ tồn ma nhê di, để ánh lửa sẽ chói trắng thêm

ra. Chúng tôi đ~ đợi cho đêm tối thật đen rồi mới đốt lửa… Nhưng đ}u l{

bóng d|ng con người?

Bây giờ ngọn lửa lên cao. Bây giờ chúng tôi thiêng liêng nhìn ngọn lửa,

ngọn đèn hiệu giữa mùa sa. Chúng tôi nhìn tỏa rạng trong đêm c|i tiếng kêu

của mình, tiếng kêu lặng lẽ âm thầm, tiếng kêu phập phồng lai láng. Và tôi

nghĩ: nếu nó mang đi một lời gọi đ~ rất mực thiết tha, thì nó cũng mang đi

những tình yêu vô hạn. Chúng tôi yêu cầu được uống, nhưng chúng tôi cũng

đòi hỏi cảm thông. Chỉ con người mới sử dụng lửa, thì xin con người hãy đ|p ứng chúng tôi! Một ngọn lửa kh|c h~y bùng lên, để cho ngọn lửa này

không còn là lửa suông trong sa mạc!

Tôi thấy lại hai con mắt vợ tôi. Tôi sẽ không thấy gì nữa ngo{i đôi mắt

đó. Đôi mắt hỏi gì tôi thế? Tôi thấy lại những con mắt của mọi người, của tất

cả những ai còn kỳ vọng ở tôi nhiều, có lẽ… V{ những con mắt đó cũng nêu

câu hỏi ra. Cả một quần hội nh~n quan đương nhìn v{ tr|ch tôi sao lặng lẽ.

Tôi xin đ|p! Tôi xin đ|p! Bằng tất cả tinh anh và thể ph|ch, tôi xin đ|p b}y

giờ, trong đêm tối, có bao giờ tôi có thể còn có lần đốt ngọn lửa sáng rực

hơn không?

Tôi đ~ gắng hết sức mình. Chúng tôi đ~ kiệt tận miên bạc bình sinh: đi

s|u mươi c}y số, hầu không một ngụm nước vào mồm. Bây giờ trở đi, chúng

tôi không còn uống nữa. Nếu chúng tôi không còn đủ sức nhẫn nại chờ

mong nữa, thì tội lỗi có phải tại chúng tôi không? Chúng tôi rất có thể ngồi

im lìm tại đó, ngoan ngo~n ghì môi bú mòn bình đựng nước. Nhưng ngay c|i

lúc tôi hút cạn giọt cuối cùng tại đ|y thiếc, thì một c|i đồng hồ đ}u đó đ~

trỗi dậy lên đường. Ngay cái lúc tôi hít xong giọt cuối, thì một con đường

dốc đ~ mở ra. Tôi bắt đầu lăn xuống. Tôi biết l{m sao được, trên cái dòng

thời gian như nước lũ cuốn thân tôi. Prévot khóc. Tôi vỗ vào vai anh. Tôi an

ủi bảo:

- Nếu chết, thì cho chết…

Anh trả lời:

- Nếu anh tưởng tôi khóc cho th}n tôi…

A! Chính thế, tôi đ~ nhận chân một sự việc hiển nhiên. Không có gì

không chịu đựng nổi. Ngày mai, ngày mốt, tôi sẽ hiểu mãi rằng quả thật

chẳng có gì là không chịu nổi. Tôi chỉ tin một phần ở tác dụng của khổ hình.

Tôi đ~ từng suy gẫm về lẽ đó. Tôi đ~ tưởng phải chết đuối một lần ng{y xưa,

vì mắc nghẽn trong một phòng máy, và vẫn không thấy đau đớn lắm. Tôi đ~

tưởng đôi lần bị vỡ mặt, và vẫn chẳng thấy đó l{ một biến cố trầm trọng chi.

Đ}y cũng vậy, lần n{y tôi cũng sẽ không biết khắc khoải l{ gì. Mai đ}y, tôi

cũng sẽ còn được biết thêm nhiều điều kỳ dị hơn nữa. Và chỉ có Trời biết,

mặc dù tôi đốt lửa, lòng tôi đ~ từ bỏ hy vọng gọi thấu tai người…

[5]

“Nếu anh tưởng tôi khóc cho th}n tôi…”. V}ng, v}ng, đó mới l{ điều

không thể nào chịu nổi. Mỗi lúc tôi nhìn thấy lại những con mắt kia đương

chờ, mỗi lần lòng thấy như thiêu đốt. Đột ngột muốn đứng lên và chạy thẳng

tới trước. Đằng kia, ở đằng kia, con người đang kêu cứu, con người đang

đắm thuyền!

Vai tuồng đảo lộn, dị thường thay! Nhưng ý tưởng của tôi luôn luôn là

như vậy. Nhưng tôi phải cần có Prévot mới dám tin chắc hoàn toàn. Phải rồi,

Prévot sẽ không biết gì tới cái nỗi thống khổ khắc khoải trước tử thần, mà

thiên hạ nói tới đ~ ch|n tai. Nhưng còn một c|i gì đó, anh không chịu đựng

nổi, v{ tôi cũng vậy.

A! Tôi hài lòng chịu ngủ, ngủ ngắn một đêm hay ngủ dài vạn đại. Ngủ

được, sẽ không còn nhận được cái chỗ khác nhau. Ngủ được, thì yên bình

biết mấy! Nhưng còn những tiếng kêu của thiên hạ ở xa kìa, nhưng còn

những ngọn lửa khổng lồ của nỗi đời, tôi không chịu đựng nổi. Tôi không

thể khoanh tay trước những cuộc đắm thuyền trầm luân nọ! Mỗi giây dần

dà im lặng đều giết một ít những kẻ thân yêu. Một cơn giận dữ điên cuồng

nổi dậy: tại sao có những sợi dây xiềng triền phược kia cứ lướng vướng

ngăn cản tôi, không để tôi chạy tới kịp giờ mà giải cứu những kẻ đương

chìm đắm? Tại sao ngọn lửa chúng tôi đốt lên không mang tiếng kêu của

chúng tôi tới tận cùng tr|i đất? Nhẫn nại nhé!... Chúng tôi tới đ}y rồi! Chúng

tôi tới kịp rồi!... Chúng tôi là những người đến cứu!

Chất ma-giê-nhi đ~ tận, và ngọn lửa chuyển sang m{u đỏ. Giờ chỉ còn

lại một mớ than hồng, chúng tôi nghiêng mình xuống sưởi. Thế là hết. Lời

nhắn gửi sáng ngời của chúng tôi đ~ tắt. Nó đ~ khua động được gì? Nó đ~

giục gi~ được gì trong cuộc thế xa kia? Ồ! Tôi vẫn biết rằng nó chẳng thôi

thúc được gì cả. Chẳng có gì đ~ từ đó m{ xao xuyến tư lự lên đường. Đó chỉ

là một lời cầu nguyện không được một ai nghe.

Thôi được. Tôi sẽ xin đi ngủ.

5

Chớm bình minh, chúng tôi lấy một cuộn dẻ xoa vào những cánh phi

cơ, thấm lấy những giọt sương đọng, vắt ra được một ngụm nước ở đ|y ly

lẫn mùi sơn v{ mùi dầu. Thật đ|ng buồn nôn, nhưng cứ phải uống. Ít ra là cũng thấm ướt được hai môi. Tiệc xong, Prévot bảo:

- Cũng may l{ còn khẩu súng lục.

Đột nhiên tôi nổi đóa, tôi tức tối quay lại nhìn anh. Trong lúc này, tôi

không căm hờn gì bằng chuyện tình cảm ủy mị. Tôi tuyệt đối cần phải coi

mọi sự đều đơn giản. Sinh ra đời, là một điều đơn giản. Lớn lên, cũng l{ điều

đơn giản. Và chết kh|t, cũng l{ điều đơn giản. Biến làm sa mạc cũng l{ điều

đơn giản.

Tôi đưa khóe mắt liếc chừng, xem xét Prévot, sẵn sàng nặng lời cay cú

nếu cần, để buộc anh ngậm miệng. Nhưng Prévot đ~ nói với niềm bình thản.

Anh chỉ bàn tới một vấn đề vệ sinh. Anh nêu sự vụ ra theo điệu nói: “Chúng

ta cần phải rửa tay cho sạch sẽ”. Thế l{ chúng tôi đồng ý nhau. Hôm qua tôi

cũng có suy gẫm tới điều đó, lúc nhìn c|i bao da khẩu súng. Những điều tôi

suy nghĩ chỉ có tính chất hợp lẽ phải, và không thống thiết. Chỉ có chuyện xã

hội là thống thiết mà thôi. Chuyện chúng tôi bất lực không làm yên lòng

được cho những người mà chúng tôi chịu trách nhiệm. Chứ không phải

chuyện khẩu súng lục.

Người ta vẫn không tới tìm chúng tôi, hay đúng hơn, chắc l{ người ta

tìm kiếm chúng tôi ở những chốn khác. Chắc họ tìm tại Arabie. Thật ra

chúng tôi đ~ không nghe được một tiếng phi cơ n{o trước ng{y mai, nghĩa

l{ v{o lúc chúng tôi đ~ rời bỏ phi cơ của mình. Tới ngày mai sẽ có nghe một

bận… Một phi cơ duy nhất sẽ bay qua, và xa xôi quá, chúng tôi hờ hững

ho{n to{n. Có nghĩa gì đ}u, chúng tôi nhúc nhích tại đ}y, hai chấm đen heo

hút hòa lẫn trong ngàn vạn chấm đen hút heo giữa sa mạc, chúng tôi mong

gì được nhận ra. Những ý nghĩ người ta sẽ gán cho tôi về cái cảnh huống

điêu linh n{y, thật l{ không x|c đ|ng một tí nào. Tôi không cảm thấy đau

đớn điêu linh. Những kẻ đi tìm cứu chúng tôi, chúng tôi tưởng chừng như

họ vãng lai tuần du trong một vũ trụ mơ hồ khác.

Phải mất mười lăm ng{y sục sạo mới tìm ra một chiếc phi cơ lạc lõng,

hồn hồn ngạc ngạc rơi v{o sa mạc mông lung, tại đ}u đó, trong khoảng

ngậm ngùi ba nghìn cây số biệt tăm. Ấy thế, chắc l{ người ta đang tìm kiếm

chúng tôi từ miền Tripolitaine tới xứ Perse. Tuy nhiên cho tới hôm nay, tôi

vẫn còn giữ chút hy vọng nơi một sự ngẫu nhĩ may mắn mong manh, vì

ngo{i ra còn có gì đ}u kh|c để hy vọng. Rồi, tôi đổi phương s|ch mưu lược, quyết định tự một mình một th}n đi tìm kiếm. Prévot thì cứ ở lại đ}y, soạn

sửa sẵn một dàn lửa và sẽ đốt lên nếu gặp trường hợp có phi cơ quanh quất

tới gần. Nhưng rồi chẳng có ai tới gần thăm viếng cả.

Tôi ra đi vậy, v{ cũng chẳng rõ sẽ còn sức mà trở lại hay không. Tôi

nhớ lại những gì đ~ từng biết về sa mạc Libye. Trong sa mạc Sahara, thì còn

có được 40% khí ẩm, nhưng tại đ}y, khí ẩm chỉ có 18%. Mà sinh khí con

người ta thì cũng tan mau như khí ẩm. Người Bédouin, kh|ch du h{nh, sĩ

quan thuộc địa, đ~ cho biết rằng người ta chỉ nhịn kh|t được trong vòng

mười chín giờ m{ thôi. Sau hai mươi giờ thì mắt hoa lên, và bắt đầu kết liễu:

c|i kh|t đi nhanh như sấm chớp.

Nhưng ngọn gió Đông Bắc, ngọn gió bất thường kia trước đ}y đ~ phờ

phỉnh chúng tôi, đ~ bất ngờ hãm chúng tôi vào vùng cao nguyên tử địa này,

chính ngọn gió Đông Bắc trớ trêu nọ, giờ đ}y ắt là kéo dài cái mạng sống của

chúng tôi ra đôi chút. Nhưng thời hạn kéo d{i l{ được bao lâu? Bao lâu nữa

thì tới cái giờ của mắt hoa đầu choáng?

Tôi đi vậy, đi thôi, đi nữa, nhưng có cảm tưởng như đi trên xuồng nhỏ

đơn chiếc lạc loài trên dặm biển trùng điệp đại dương.

Tuy nhiên nhờ ánh sáng rạng đông, cảnh vật cũng bớt phần thê thảm.

Và tôi thọc tay v{o túi bước đi theo điệu côn đồ trộm cắp. Tối hôm qua,

chúng tôi có gài nhiều bẫy quanh miệng vài cái hang bí mật, và sáng nay

máu Liệp Hộ lôi thôi đ~ bừng dậy trong mình. Tôi đi, đi xem xét những cái

bẫy coi nào: sao mà trống rỗng?

Thế ra là sẽ không uống được máu? Máu chồn? Máu chuột? Thôi thì

cũng được, nào mình có hy vọng gì uống được một phen đ}u.

Thất vọng quả là không có, mà trái lại, xem ra trong dạ lại động ý tò

mò. Những con thú kia, ăn chi m{ sống? Những con thú nọ, lấy chi mà

dưỡng dục lẽo đẽo phôi pha? Đ{o đ}u ra lương thực mơ hồ, vì đ}y l{ sa

mạc? Chắc hẳn những thú kia thuộc loại chồn lùi trong cát, chồn nhỏ sa mạc

phiêu bồng, to bằng con thỏ, điểm trang bằng hai vành tai khổng lồ lẽo đẽo

mang đi. Nghĩ tới mà thèm, lòng ham nó khêu gợi, tôi bèn lần mò theo dấu

một con kia. Dấu ghi trên cát lần hồi dẫn tôi tới một dải sông con bằng cát

mịn, để lồ lộ nguyên bình phơi rõ nét những vết ch}n xiêu. Tôi ưa thích nên trầm trồ cái cánh xòe rẽ quạt của ba ngón mở ra, như c|nh l{ kè tươi xinh

phong nhụy. Tôi hình dung trong tưởng tượng người bạn mình yểu điệu

nhảy lưa thưa lúc bình minh óng ả, và le chiếc lưỡi hồng mà liếm giọt sương

nằm lửng lơ trên đ| nh|m. Tới đ}y, tại chỗ này, những dấu chân cách bức:

em chồn của tôi đ~ tung cẳng chạy nhanh. Tại đ}y, một b{n tình đ~ nhảy về

nhập trận, đôi lứa nhảy song song. Tôi chứng giám cái cuộc chồn yêu nhau

bình minh dạo mát, tôi thấy lòng khôn xiết kỳ lạ lâng lâng. Tôi yêu những

chứng tích kia của sự sống. Và quên bớt chút ít rằng mình đương ở trong

một cơn kh|t thiết tha…

Bây giờ tôi tới gần những tủ chứa thức ăn của các anh chị chồn. Tại

đ}y s|t mặt cát, có một trăm thước, lại thấy mọc nhô lên một loại cây nhỏ

xíu, khô khan, thấp như một c|i xô đựng súp, thân cành thấy bu b|m đầy

tràn những con sên vàng óng. Mỗi bình minh, anh chồn nhỏ lại tới đ}y lấy

thức ăn. Tại đ}y tôi bắt gặp một huyền nhiệm thiên nhiên.

Anh chồn không dừng chân lại bất cứ cây nào. Có những c}y đầy sên,

nhưng anh lại xem thường. Có những c}y anh đi vòng quanh quất, ra vẻ

thận trọng vô cùng. Có những cây anh ghé tới, nhưng không chạm vào quá

đ|ng. Anh ngắt sơ qua v{i tr|i, bẻ sơ qua v{i đóa, rồi đổi quán ngay.

Phải chăng anh có ý chịu chơi theo lối phiêu bồng: không vội vã làm

ngay một vố lăn lóc ch|n chường, là cốt để kéo dài cái cuộc hưởng thụ thú

vui bình minh dạo gót? Tôi không tin như vậy. C|i điệu chơi của anh chồn

coi ra thật quá phù hợp với một s|ch lược tồn sinh tối ư cần thiết. Nếu anh

chồn cứ lầm lũi gầm đầu xuống mà đ|nh chén thật no nê ngay tại trận với

những sản vật của c}y đầu, thì chỉ trong vài phen thịnh soạn, thì đi đời vốn

liếng cửa sống nhà ma. Và theo lối đó, từ cây bé này tới cây bé khác, anh

chồn sẽ lần hồi diệt tuyệt hết cái kho sinh tồn anh chi chút chăn nuôi.

Nhưng anh chồn đ}u phải l{ người quá tham nên biến thành dại dột. Anh

rất thận trọng kiêng dè đừng có quá ngứa nghề mà làm trở ngại cái bụng

mang dạ chửa thai nghén cho ng{y sau. Do đó, chẳng những anh một lần ăn

là dò dè luôn một trăm c}y ph}n phối, mà anh còn cẩn trọng chẳng bao giờ

dám vin vào một cành cây bận mà bẻ tới hai đóa hoa tr{ mi l}n cận một

phen. Mọi sự xảy ra đều cho thấy như tuồng anh ý thức được mối nguy cơ

tai hại về sau. Nếu đổ vùi ra ăn không dè chừng hạn chế, thì mọi sên mọi ốc

sẽ sạch nhẵn trên mâm. Mảnh sên còn một chút này. Chẳng cầm cho vững

lại giày cho tan? Sên chẳng còn, thì chú cũng tan hoang. Thiệt đ}y m{ có ích cho ch{ng chút chi đ}u.

Dấu ch}n đưa tôi tới hang chồn. Anh chồn chắc đang nằm trong đó

vểnh tai lắng nghe, kinh hoàng vì tiếng chân tôi dội tới. Tôi bảo: “Chồn bé

của tôi ơi, tôi bẽ bàng mạt lộ, nhưng lạ lùng làm sao, là không vì lẽ đó m{

hững hờ không lưu ý tới nông nỗi của chồn đ}u…”.

V{ tôi đứng đó mơ m{ng một trận, v{ tôi tưởng chừng rằng cái con

người ta gặp gì gì đi nữa rồi cũng tìm ra được cái nhịp tiết thích nghi. Nghĩ

rằng mình có lẽ sẽ chết ba mươi năm sau, ý tưởng đó không l{m tổn thương

niềm vui hiện tại. Bươi mươi năm, ba ng{y… chỉ là một vấn đề quan điểm.

Nhưng cần phải quên đi v{i hình ảnh…

Bây giờ tôi tiếp tục đi, v{ với nỗi nhọc mệt tăng dần, một cái gì trong

người tôi cũng biến dạng. Ảo ảnh, nếu chẳng có ư, thì tôi lại tạo ra cho nó…

- Ô ê!

Tôi đưa tay lên m{ hú lớn, nhưng c|i người tôi thấy múa tay múa chân

đ{ng kia chỉ là một hòn đ| đen sì. Mọi vật trong sa mạc đ~ bắt đầu động đậy.

Tôi muốn đ|nh thức g~ Bédouin kia đang nằm ngủ, thì hắn đ~ biến thành

một th}n c}y đen thui. Th{nh một thân cây? Thế thời lạ thật. Tôi cúi xuống

nhìn. Tôi muốn nâng dậy một cành cây gãy: nó bằng cẩm thạch! Tôi đứng

thẳng người lên đưa mắt nhìn quanh quất; thấy bao nhiêu khối cẩm thạch

đen kh|c. Một khu rừng thời thái cổ trút tại đ}y xiết bao l{ th}n c}y g~y đổ.

Nó tan t{nh như một tòa nhà thờ lộng lẫy tan hoang, kể từ vạn kỷ lòng em

nhớ lòng anh tơi tả dưới phong ba cuồng loạn thai nghén khởi nguyên. Và

vạn kỷ đ~ xô về từ nguyên thủy tới bên tôi những cột trụ khổng lồ, nhẵn

nhụi kia, bóng ngời như những thanh sắt thép, cứng rắn im lìm, lóng lánh

như gương, m{u đen như mực. Tôi còn nhận ra những gút mắc của cành,

những quằn quại hoại sinh, những vết ngần thai nghén. Khu rừng hoang sơ

vốn xưa kia l{ dạt d{o sinh động, suối phong tình, chim nhã nhạc, liễu phiêu

diêu… m{ về sau gặp hung vận, đ~ tan t{nh hóa l{m chất muối. Tôi cảm thấy

phong cảnh này chẳng niềm nở với tôi. Nó gay gắt chối từ không tiếp đón.

Đen đủi hơn những lớp giáp sắt bọc những ngọn đồi kia, những di tích

hoang tàng này không dung nạp cái thằng người tôi tới viếng. Tôi tới đ}y

làm gì, tôi là sinh vật, tôi định mở cuộc gì giữa hàng hàng cẩm thạch trơ trơ? Tôi, con vật phù du, tôi, cái hình hài sắp tan biến, tôi định giở trò gì nữa

phong cảnh của vô cùng, mà chỉ riêng vạn đại được quyền đối thoại với

thiên thu?

Từ bữa hôm qua tôi đ~ vượt gần t|m mươi c}y số. Tôi choáng váng

thế này chắc là tại qu| kh|t nước chăng. Hoặc vì nắng đốt. Nắng mặt trời

chói rực trên những cột thân cây bóng lộn v{ như cóng gi| vì dầu xoa mỡ

xát. Nắng mặt trời chiếu rực trên ân tình cái mu gộp mênh mông phủ tràn

lan trên mọi vật. Đ}y không còn c|t, đ}y chẳng còn chồn. Đ}y chỉ còn có một

c|i đe đồ sộ. Tôi đang bước đi trên hòn đe đó. V{ ở trong đầu mình, tôi nghe

rõ tiếng nắng trời ròng rã dội từng cơn. A! Kia kìa…

- Ô ê! Ô ê!

- Ô ê c|i gì, đằng kia chẳng có chi cả, đừng có lao xao ho{i hơi nhọc khí,

chẳng có gì hết, chỉ có mộng cuồng mê dại mà thôi.

Tôi tự nhủ mình, tôi cần tự nhủ mình, tôi cần bám vào lý trí trong lúc

tâm thần đương bấn loạn trở cơn. Khó khăn l{m sao, l{ c|i việc phải xoa tay

chối từ cái vật, c|i đồ mà con mắt thấy. Khó khăn sao, l{ c|i việc tự hãm hai

ch}n mình, đừng để cho nó chạy ù tới cái tốp người du h{nh đang tiến bước

đằng kia… kia kìa… m{y đang thấy đó!

Ngốc ơi l{ ngốc, m{y cũng biết chứ, là chính mày ngốc nghếch tạo đủ

thứ vật n{y, b{y đủ loại đồ nọ, đồ kia…

- Thế thì chẳng ra mọi sự ở đời chẳng có chi là thật…

Chẳng có chi là thật, ngoài cái thập tự giá ở đằng kia, c|ch tôi hai mươi

cây số, cắm ở chóp ngọn đồi, chờ đợi, đăm chiêu… C|i thập tự giá kia, hay là

cái ngọn hải đăng ấy…

Nhưng phía đó không phải l{ hướng đi ra biển. Vậy không phải hải

đăng. Chính là thập tự giá. Suốt đêm qua tôi cặm cụi trên bản đồ mà nghiên

cứu. Chỉ tổ hoài công. Bởi vì vị trí hiện tại của mình l{ đ}u, tôi n{o có biết.

Nhưng tôi gò lưng kiếm mãi một chút gì, một chút gì là dấu hiệu chỉ rõ sự

hiện diện của con người ta. V{ đ}u đó, tôi có nhận ra một cái khoảng tròn có ghi dấu chữ thập tương tự thế này. Tôi có xem lời bên dưới: “Tu viện”.

Bên cạnh chữ thập, tôi còn thấy một chấm đen. Tôi lại nhìn xuống câu

chú giải m{ đọc: “Giếng thường xuyên”. Tim tôi nhói lên một cái, máu phập

phồng đập liên hồi một trận, và tôi cất cao giọng đọc to: “Giếng Thường

Xuyên… Giếng Thường Xuyên… Nước Thường Trực… Uống Thường

Hằng…Ôi! Mộng tưởng ra hoa! Ôi, ảo huyền kết tr|i!” Hỡi Ali Baba! Hỡi

những kho tàng man dại! Có bao giờ của cải nào mà sánh kịp giọt giếng

ngần l{ nước chảy thường xuyên! Lệch xa hơn một chút, tôi lại còn o bế

nhìn thật rõ hai khoanh tròn trắng muốt. Tôi liếc dòm xuống dưới đọc lời ký

chú đinh ninh: “Giếng bất thường”. Giếng bất thường thì đ~ l{ bớt đẹp.

Giếng bất thường thì nước xòa ra nhất thời thỉnh thoảng. Rồi xét soát bốn

xung quanh chẳng còn gì nữa cả. Chẳng còn chút chi hết.

Thì kia kìa là tu viện của tôi! C|c tu sĩ đ~ dựng lên một cây thập giá

trên chóp đồi l{ để gọi bọn trầm luân? Thì tôi chỉ còn có mỗi một việc làm là

bước nhanh lại chớ. Thì tôi chỉ còn có mỗi một việc làm là chạy thẳng lại

chớ sao. Nào, các vị tu sĩ dòng Đa Minh, h~y mở vòng tay ra đón…

- Nhưng tại Lubye chỉ có những tu viện bổn xứ mà thôi.

- … Chạy tới những tu sĩ }n cần chuyên chú Đa Minh. Họ có một căn

nhà bếp lộng lẫy tươi mắt, nền gạch đỏ, và ngoài sân có một c|i bơm nước

hoen rỉ cũ c{ng ấy, anh hẳn l{ đ~ đo|n ra được đó… Dưới c|i bơm nước

hoen rỉ cũ kỹ tuyệt vời huyền diệu kia, đó l{ đúng c|i giếng thường xuyên

dào dạt vậy! A! Chốc l|t đ}y thôi thì đó l{ ấy sẽ… sẽ tưng bừng hội hè yến

tiệc nghi lễ hoan nghênh lúc tôi tới dội chuông ngoài cửa rộng, lúc tôi lại gần

đưa tay ra nắm và giật một c|i v{o đồ sộ c|i chuông…

- Thôi thì thằng ngốc! Mày mô tả gì đó! M{y lầm bầm mô tả một ngôi

nhà ở cố quận Provence

[6]

, mà kể ra thì tại đó có chuông kh|nh gì đ}u.

- … Lúc tôi sẽ đưa tay ra giật c|i chuông đồ sộ kia một c|i! Người gác

cửa sẽ chắp tay đưa lên trời và kêu to một tiếng: “Ông l{ sứ giả Nhà Trời!

Ông là Thiên sứ do Ngọc Hoàng sai xuống!” v{ anh ta sẽ ríu rít gọi toàn thể

các vị thầy tu. Họ sẽ tức tốc chạy tới. Và họ sẽ đón mừng khoản đ~i tôi như o

bế nâng niu một đứa bé con nghèo đói. V{ họ sẽ đẩy tôi khẳng khiu đi về

phía căn nh{ bếp lai láng khói nồng. Và họ sẽ bảo tôi: “Một phút, một giây, một giây phút nữa thôi, con ạ… chúng ta sẽ chạy tới cái giếng nước ngọt

thường xuyên…”.

Và tôi, tôi sẽ run như cầy sấy vì hồng phúc như dế giun chan rưới

mộng điên cuồng.

Nhưng không, tôi không muốn khóc chỉ vì lý do duy nhất là chẳng còn

đ}u nữa cái thập tự giá ở trên đồi.

Những hứa hẹn của phương T}y chỉ là những lời phờ phĩnh. Tôi bèn

xoay sang chính Bắc.

Phương Bắc thì ít nữa cũng còn lai l|ng tr{n đầy điệu hát của trùng

dương.

A! C|i chóp đỉnh kia, một phen đ~ vượt qua rồi, chân trời liền dàn

rộng. Đ}y, đô thị lộng lẫy nhất trần gian.

- Mày thừa biết đó l{ ảo ảnh…

Tôi thừa biết qu| rõ đó l{ ảo ảnh. Tôi, ai phờ phỉnh được tôi. Nhưng

nếu tôi thích, tôi ưa chìm th}n v{o s}u trong ảo ảnh? Nếu tôi thích yêu dấu

c|i đô thị với những th{nh qu|ch điệp trùng, tráng lệ dưới ánh trời, rực

thắm như cờ treo? Nếu tôi thích bước đi, đi thẳng, theo nhịp chân dìu dặt

nhẹ nh{ng, nh}n vì cơn mệt nhọc đ~ tiêu tan, nh}n vì lòng tôi vui sướng…

Prévot và khẩu súng lục, ồ, h~y cho tôi cười khì chơi chút nhé! Tôi say rồi.

Tôi chết khát!

Hoàng hôn tới, xua đuổi cơn mê. Tôi tỉnh táo ra. Tôi dừng ch}n đột

ngột. Tôi giật mình nhận thấy đi đ~ qu| xa. Ho{ng hôn xuống, ảo ảnh tan.

Hoàng hôn về, ảo ảnh chết. Chân trời đ~ trút bỏ bóng xiêm nghê. Hết huy

hoàng cung điện, hết lễ phục gi|o đường. Chân trời chỉ còn là chân trời sa

mạc.

- M{y chơi lung đ~ lắm! Đêm tối sắp tới thộp mày rồi, mày sẽ bó gối

ngồi im chờ trời mai sáng, và ngày mai những dấu chân mày sẽ bị xóa mất,

và khắp chân trời mặt biển, mày sẽ chẳng còn tăm dạng tại chốn mô.

- Đ~ thế thì nên! Thôi thà cứ dấn th}n bước thẳng tới trước… Quay trở

lại nữa mà làm gì? Tôi không muốn bẻ lái quay thuyền, vì biết đ}u chính b}y

giờ là lúc tôi sắp mở, lúc tôi đang đ~ mở vòng tay mình trước mặt biển

mênh mông…

- M{y đ~ nhìn thấy mặt biển tại đ}u? M{ có bao giờ mày sẽ ra tới biển?

Ba trăm c}y số có lẽ hẳn chắc đương chia biệt mày với biển khơi. V{ Prévot

đang lò dò đợi chờ thấp thỏm bên cạnh chiếc Simoun! Và có lẽ, biết đ}u,

Prévot đang được một đo{n người viễn du chớm thấy…

Vâng, tôi sắp quay trở về, nhưng trước khi quay về, tôi xin thử kêu con

người ta:

- Ô ê!

Tr|i đất này, trời ôi! Dù sao vẫn còn có con người ta cư trú…

- Ô ê! Người ta ơi!

Tôi khan giọng. Tôi gọi không ra lời. Tôi kêu không còn tiếng. Tôi thấy

mình sao dơ d|ng dại hình kêu gọi mãi thế rứa ru?... Tôi hét to lần nữa:

- Người ta ôi!

Đó nghe sao m{ khoa trương kho|c l|c tợn.

Và tôi quay về.

Sau hai giờ bước đi, tôi ngó thấy ngọn lửa Prévot đốt lên; anh đ~ kinh

ho{ng tưởng tôi lạc lối, đốt tung lên trời. A!... mọi c|i đó giờ đ}y tôi xiết bao

lạnh nhạt.

Thêm một giờ nữa bước đi…. Còn năm trăm thước. Còn một trăm

thước. Còn năm chục thước.

- A!

Tôi đờ đẫn đứng lại, sững sờ. Niềm vui sắp dâng ngập máu tim, trào

qua trái phổi. Tôi kiềm h~m cơn mãnh liệt dậy cuồng. Prévot, sáng ngời

trong ánh lửa, đương trò chuyện với hai người Ả Rập đang tựa lưng v{o

m|y phi cơ. Anh chưa ngó thấy tôi. Anh đang còn rộn rã bởi niềm vui của

mình. A! Nếu mà tôi chịu ngồi chờ như anh… thì đ~ sớm được tung trời cất

c|nh! Tôi vui sướng kêu to:

- Ô ê!

Hai người Bédouins giật mình đ|nh thót một cái nhìn tôi. Prévot rời

họ và tiến lại một mình. Tôi mở rộng hai tay. Prévot nắm giữ cùi tay tôi, thế

ra tôi suýt ngã? Tôi bảo:

- Hì hì, tuyệt đó!

- Gì?

- Mấy người Ả Rập!

- Ả Rập nào?

- Những người Ả Rập ngồi đó, với anh!...

Prévot nhìn tôi một cách kỳ cục và tôi có cảm tưởng anh đang buộc

lòng thổ lộ với tôi một chuyện bí mật khổ nhọc nặng nề:

- Không có người Ả Rập nào cả…

Chắc hẳn lần này tôi sắp khóc.

6

Tại đ}y người ta sống được mười chín giờ không uống nước, và chúng

tôi kể từ chiều hôm qua, chúng tôi đ~ uống được gì? Vài giọt sương buổi

s|ng. Nhưng ngọn gió Đông Bắc vẫn còn thổi luôn, nên cũng trì ho~n được

chút ít cái thời hạn tối sầm, v{ chúng tôi chưa đến phải bốc hơi m{ tan lìa

thể phách. Ngọn gió của cũng l{ tấm đ| ngăn cản, giúp cho thành tựu cuộc

tụ hội trên cao của những đợt mây trên trời. Mây ôi! Nếu mây cao hứng tạt về đ}y cho gần ta một chút, rồi đổ một trận mưa ng{n thu rớt hột cho cùng!

Nhưng có bao giờ mây về chịu mưa trên sa mạc.

- Prévot, ta lấy cái dù phi công cắt thành từng mảnh tam giác. Ta sẽ lấy

đ| chằn ba góc và dọc ba cạnh những mảnh kia cho chúng nằm lì trên mặt

đất. Nếu gió không xoay chiều, thì sáng mai ta sẽ. Ta sẽ vắt các mảnh vải ấy

ra cho giọt sương nó rơi v{o trong c|i thùng chứa xăng thì ta hứng lấy…

Chúng tôi căng h{ng d{i s|u tấm vải trắng đó dưới trời cao. Prévot

phá một thùng chứa xăng ra. Chúng tôi chỉ còn ngồi chờ sáng.

Prévot có mò ra được đ}u trong đống mảnh vụn một trái cam kỳ ảo đi

về. Chúng tôi chia nhau. Tôi cho|ng v|ng tê mê, nhưng một quả cam là bao

nhiêu lắm, trong lúc chúng tôi cần hai mươi lít nước.

Nằm duỗi bên nhóm lửa đêm th}n thiết, tôi nhìn cái quả nọ long lanh

và thầm nhủ: “Con người ta chẳng hề hiểu trái cam l{ gì…”. Tôi cũng tự nhủ:

“Chúng tôi chịu h~m trong nguy cơ không thể nào thoát nổi, biết chắc chắn

l{ như vậy mà vẫn không bỏ mất niềm hoan lạc thơ ng}y. Nửa quả cam tôi

cầm siết ở trong tay đang đem lại cho mình một nỗi vui lớn rộng, trăm năm

đ}y l{ một trong mấy lần mình vui nhất…”. Tôi nằm duỗi ngửa thân ra, tôi

hút từ từ như bé con bú sữa, tôi đếm trên trời những ngôi sao băng. Một

phút n{y, tôi nghe mình tr{n lan sung sướng. Và tôi tự nhủ nữa: “Cõi đời mà

ta sống ở trong, cõi đời mà ta nằm ở trong mỗi tổ chức, ta không bị mắc

nghẽn v{o trong đó”. Chỉ hôm nay tôi mới hiểu được c|i điếu thuốc và cái

cốc rượu Rhum của kẻ tử tù. Trước đ}y tôi không quan niệm được sao

chàng ta lại chấp nhận cái chuyện khốn đốn n~o nũng kia. Thế mà chàng ta

vẫn lấy làm vui khoái lắm. Người ta tưởng chú nọ can đảm nếu thấy chú

mỉm cười. Nhưng chú mỉm cười l{ cười vui vì uống nên cốc rượu thú Rhum

đ}y, ồ… Người ta không biết rằng ch{ng ta đ~ đổi nhãn quan trong viễn

tượng, v{ ch{ng đ~ nằm trên cái giờ chung cục nọ mà làm nên đủ mọi cõi

trăm năm.

Chúng tôi hứng được một mớ nước khổng lồ: hai lít có lẽ! Thôi là hết

kh|t nước rồi! Chúng tôi thoát nạn rồi! Chúng tôi được giải cứu! Chúng tôi

sắp uống cho đời xem!

Tôi múc trong thùng chứa ra đầy một chén thiếc, nhưng thứ nước này

sao m{ m{u v{ng tươi pha lục, và hớp một ngụm đầu ôi thôi ghê tởm quá,

quá vô chừng cho đến nỗi dù kh|t nước đến chết người, tôi nuốt vẫn không

trôi, phải dừng lại nghỉ hơi rồi gắng nuốt cho vô lần nữa. Phải đ}u tôi khó

tính. Lúc này, gặp bùn hôi cũng uống hết, nhưng c|i vị kim khí chứa cái chất

độc giết người n{y, thì kh|t nước tới đ}u cũng lắc đầu xin chịu.

Tôi nhìn Prévot. Anh đương xoay quanh, mắt trố nhìn sững xuống đất

như đang chăm chú tìm tòi vật gì. Thình lình anh cúi gập người và nôn ọe,

vẫn không ngừng quằn quại xoay quanh. Nửa phút sau, tới lượt tôi. Gân cốt

giật như cuồng, tôi quỵ xuống hai gối, mười ngón tay chỏi sâu trong cát.

Chúng tôi không nói với nhau lời nào, suốt mười lăm phút, hai đứa chịu đọa

đ{y khốn đốn như vậy, chỉ còn nôn ọe ra một ít mật xanh.

Bây giờ đ~ xong. Chỉ còn thấy vương vấn buồn nôn nhẹ nhẹ. Nhưng

chúng tôi đ~ mất đi niềm hy vọng cuối cùng. Tôi không biết bởi đ}u m{ rủi

thế, đầu đuôi hỏng bét lại tại lớp sơn phết vải dù, hoặc tại lớp tétachlorure

de carbone tụ ở đ|y thùng chứa. Đ|ng nhẽ nên có một thùng chứa khác,

hoặc thứ vải khác.

Thôi, trời sáng rồi, hãy vội v~ lên đường. Chúng ta hãy liệu mà trốn

gấp ngọn đồi yêu nghiệt điêu linh n{y, v{ bước nhanh, bước thẳng tới trước,

cho tới lúc ngã quỵ thì thôi. C|i gương anh Guillaumet còn đó, tôi xin noi

theo: tôi nghĩ tới anh rất nhiều, kể từ hôm qua. Tôi không tuân mệnh lệnh

buộc phải tuyệt đối ở mãi bên cạnh phi cơ n|t m|y nằm lì. Ai còn tới đ}y m{

tìm kiếm chúng tôi nữa.

Một lần nữa, chúng tôi nhận thấy mình chẳng phải là kẻ lâm nạn chới

với. Kẻ lâm nạn chới với là những kẻ đang đợi mong! Những kẻ đang bị hăm

dọa bởi c|i nguy cơ l{: chúng tôi nín tiếng. Những kẻ đ~ chịu đọa đ{y tan

nát vì một nhầm lẫn gớm guốc đang lung trạo trần gian. Không thể không

chạy nhanh về tiếp cứu. Guillaumet ngày thoát ra khỏi dãy Andes trở về,

cũng từng bảo tôi rằng anh đương chạy tới tiếp cứu những kẻ l}m nguy! Đó

là một chân lý thiên thu trong thiên hạ.

Prévot bảo:

- Nếu tôi sống một mình ở đời thì tôi sẽ nằm xuống tại đ}y.

Chúng tôi bước thẳng tới trước theo hướng Đông Đông Bắc. Nếu quả

chúng tôi đ~ vượt quá sông Nil, thì mỗi bước tiến bây giờ mỗi đưa chúng tôi

v{o s}u thêm trong mù khơi sa mạc Ả Rập.

Tôi chẳng còn nhớ gì nữa về c|i ng{y hôm đó. Tôi chỉ nhớ bước đi hấp

tấp của mình. Bước đi hấp tấp tới bất cứ c|i gì. Bước đi hấp tấp tới chỗ đảo

điên quỵ xuống. Bước đi hấp tấp tới khuynh đảo to{n sòng. Tôi cũng còn

nhớ đ~ bước đi cúi gầm đầu nhìn xuống đất, tránh ngó những ảo ảnh chập

chờn trước mặt quá buồn nôn. Thỉnh thoảng coi lại địa bàn mà sửa hướng

bước chân. Và tôi lúc nằm duỗi th}n trên c|t để thở chút ít. Tôi cũng đ~

quẳng mất đ}u đó tấm |o cao su mang theo mình để mặc ban đêm. Tôi

không còn nhớ gì thêm nữa. Những kỷ niệm l~ng đ~ng chỉ tiếp nối được

nhau là với bầu khí mát chiều hôm. Bỗng linh hồn lai láng. Thân thể mình

n{o có kh|c chi c|t đ}u, v{ tất cả trong th}n mình đều theo nhau xóa mất.

Chiều xuống. Chúng tôi quyết định nghỉ chân. Mặc dù vẫn biết là cần

phải đi, đi nữa: đêm nay không nước uống, là kết liễu cuộc đời. Nhưng

chúng tôi có mang theo bên mình những tấm vải dù. Nếu chất độc không do

sơn phết dù, thì rất có thể s|ng mai chúng tôi được một phen uống nước.

Cần phải căng rộng dưới bóng sao trời, phen này một phen nữa, mấy cái bẫy

để bắt hột sương trời rơi xuống tự vòm cao.

Nhưng ở phương Bắc, bầu trời tối nay xanh quá, vắng bóng mây bay.

Gió đ~ thay mùi. Gió cũng đ~ thay luôn phương hướng thổi. Hơi thở nồng nã

của sa mạc đ~ đi về mò mẫm châu thân. Con thú dữ đ~ trở mình tỉnh giấc!

Nó đương ôn tồn nhè nhẹ liếm bàn tay, khuôn mặt chúng tôi…

Nhưng nếu cứ miệt m{i đi nữa, cũng không thêm được bao nả chặng

đường. Mười cây số là nhiều. Từ ba ngày nay, không uống một giọt, chúng

tôi đ~ vượt hơn một trăm t|m mươi c}y số…

Nhưng lúc dừng chân, Prévot bảo:

- Tôi thề với anh, đằng kia chính là một cái hồ đó.

- Anh điên rồi!

- Giờ này hoàng hôn rồi, đ}u có lẽ còn ảo ảnh?

Tôi không đ|p gì cả. Tôi đ~ nhất thiết chối từ không tin con mắt mình,

nhất thiết từ l}u. Đó không phải là ảo ảnh, có lẽ, nhưng nếu vậy thì đó hẳn là

cái hình hài trong cơn điên rồ được tạo. Làm sao Prévot còn dám tin?

Prévot vẫn bướng:

- Chỉ c|ch hai mươi phút, tôi phải tới xem…

Tôi nổi đóa:

- Cứ tới xem đi, cứ dạo cho mát ống chân và lá phổi đi… tốt lắm. Vệ

sinh lắm đó. Nhưng nếu cái hồ của anh có thật, thì đó l{ hồ nước mặn. Nhớ

cho điều đó nhé. V{ mặn, hay ngọt, hay chua, nó là cái hồ của nhà ma cửa

quỷ. Có hay không, cứ mà tìm tới, cho sáng hai con mắt ra.

Prévot hai mắt mở tr}n tr}n, đăm đăm nhìn, bước tới. Anh đ~ xa rồi.

Ôi những quyến rũ tối thượng lôi cuốn hồ đồ kia, tôi biết lắm! Tôi ngồi tôi

nghĩ: “Cũng còn lắm kẻ mộng du bị “mụ” n{o hấp dẫn, nắm mắt lao mình

v{o dưới bánh xe lửa đương lăn”. Tôi biết là Prévot sẽ không trở lại. C|i cơn

tình điên cho|ng v|ng nghe theo hư không nhiếp dẫn mà liều cuộc tử sinh!

Anh sẽ bị mê hoặc, và anh sẽ không thể quay gót tháo lui. Và anh sẽ té xiêu

tại một chốn gần xa đ}u đó. V{ anh sẽ chết phía anh và tôi sẽ chết phía tôi.

Và thảy thảy những điều kia, thôi cũng chẳng chút gì quan trọng nữa!...

Tôi hờ hững đến thế sao? Đó l{ triệu chứng gì? Hẳn là chẳng tốt lắm.

Chết đuối nửa chừng, tôi cũng đ~ có bận thấy lòng dửng dưng như thế.

Nhưng tôi lợi dụng sự bình thản phen này mà viết một thiên tuyệt bút để

gọi l{ để lại mai sau. Tôi nằm dài lên cát, úp sấp hình h{i. L| thư tuyệt mệnh

thật hay. Thật hào hoa trang nghiêm rất mực. Rất tr{n đầy những khuyến

cáo tốt tươi hiền nhân ai là chẳng! Đọc lại mà thấy mơ hồ kho|i thích như

tuổi trẻ kiêu sa. Mai sau thiên hạ đọc vào, sẽ bảo nhau rằng: “Đó l{ tuyệt vời

một thiên tuyệt bút. Hỡi ôi! Người tao nh~ đ~ vội ra đi! Cho h{o hoa ngậm

ngùi ở lại! Tiếc thay!”.

Tôi cũng còn muốn biết mình đ~ ra sao b}y giờ. Tôi thử gắng đưa môi

liếm miệng cho nước miếng tiết chút ra răng: Từ bao nhiêu giờ tròn tôi

không nhỏ bọt? Nước bọt khô cả rồi. Tôi không còn chút nước bọt nào nữa

cả. Nếu tôi khép miệng lại thì một chất dẻo bít mất hai môi. Nó khô queo,

khô qu|nh, đọng thành một vòm vỏ cứng bọc môi, không mở ra được nữa.

Tuy nhiên, tôi cũng còn gắng nuốt trôi bọt xuống cổ một vài phen bỡ ngỡ.

Và hai mắt cũng chưa đến nỗi đổ đôm đốm quáng lòa. Tới bao giờ lâm vào

tình huống được ngó thấy cảnh tượng rạng ngời lấp lánh kia, ấy là giờ

chung cục chỉ còn hai giờ diên trì thời hạn.

Trời tối. Vừng trăng đ~ nở nang tròn khuôn từ tối trước. Prévot không

trở lại. Tôi nằm ngửa duỗi dài và nghiền ngẫm những sự hiển nhiên này. Tôi

nghe thấy lại trong mình một cảm gi|c cũ xưa. Tôi tìm c|ch x|c định. Tôi

l{… Tôi l{… Tôi l{ c|i kẻ đ|p t{u

[7]

. Tôi lên đường sang Nam Mỹ, thì nằm thế này nào

có khác chi nằm trên boong thượng đẳng của tàu rộng rẽ sóng m{ đi. Đỉnh cột buồm lắc lư

ngao du ngang dọc, thung dung một cách(!) qua lại giữa ngàn sao. Tại đ}y quả có thiếu một

cột buồm, dù sao tôi cũng l{ đương đ|p t{u vậy đó, để đi về một phương trời cứu cánh,

không còn tùy thuộc ở những gắng sức của thân tôi. Một bọn buôn hắc nô đ~ tóm lấy tôi, bó

trói tay chân tôi mà quẳng lên một con tàu.

Tôi nghĩ tới Prévot đi không quay về. Tôi chưa hề nghe anh than thở

một lần nào. Tốt lắm đó. Nếu phải nghe anh than van, ắt là tôi không chịu

đựng nổi. Prévot đúng l{ một con người.

A! Anh đang lắc đèn qua lại, ở c|ch tôi năm trăm thước. Anh lạc đường

mất dấu! Tôi không có đèn bấm lên để đ|p hiệu, tôi đứng dậy, tôi kêu to,

nhưng anh không nghe tiếng…

Một ngọn đèn thứ hai bỗng thấy bật đỏ lên cách ngọn đèn Prévot hai

trăm thước, rồi một ngọn đèn thứ ba. Thượng Đế Chí Tôn ơi! Cả một cuộc

săn tìm tại đó, thiên hạ đang kiếm tôi đó.

Tôi gọi to:

- Ô ê!

Nhưng người ta không nghe thấy.

Ba ngọn đèn vẫn liên tiếp lấp lánh ra hiệu.

Tôi không điên, đêm nay quả thật tôi không điên, tôi cảm thấy mình

khỏe khoắn minh mẫn vô cùng. Tôi rất yên bình thanh thản. Tôi nhìn chăm

chú. Rõ ràng ba ngọn đèn ở c|ch tôi năm trăm thước.

- Ô ê!

Nhưng người ta vẫn cứ không nghe thấy tiếng tôi kêu.

Tôi bỗng hoảng hốt một cơn ngắn. Nỗi kinh ho{ng độc nhất từ đó về

sau. A! Tôi còn có thể chạy được: “Chờ tôi với… Chờ tôi với!...”. Họ sắp quay

gót đi nơi kh|c! Họ sắp đi xa, tìm kiếm ở một chốn khác, mà tôi thì sắp té

nhào tại ngay ngưỡng cửa cuộc sống, chính v{o lúc đương có những bàn tay

mở rộng đón tôi!...

- Ô ê! Ô ê!

- Ô ê!

Họ đ~ nghe thấy rồi. Tôi ngộp thở, tôi ngộp thở nhưng tôi vẫn còn

chạy mãi. Tôi chạy thương hướng vừa dội lên tiếng “Ô ê!”, tôi nhìn thấy

Prévot và tôi quỵ xuống.

- A! Lúc tôi trông thấy tất cả những ngọn đèn kia…

- Đèn n{o?

- Quả thực, đèn n{o? Prévot một mình trên cát.

Lần này tôi không cảm thấy tuyệt vọng, nhưng }m ỉ tức tối.

- Còn cái hồ nước của anh!

- Nó lùi xa thêm lúc tôi tiến tới. Tôi bước theo nó suốt nửa tiếng đồng

hồ. Sau nửa tiếng đồng hồ, thấy nó quá xa. Tôi bèn quay trở lại. Nhưng b}y

giờ thì tôi càng tin chắc chắn rằng đó l{ một hồ nước…

- Anh điên rồi, tuyệt đối điên rồi. A! Tại sao anh lại làm thế… Tại sao?

Anh ta đ~ l{m chi? Tại sao anh ta lại làm thế? Tôi tức qu| tr{o nước

mắt ra, và không hiểu tại sao mình tức quá. Và Prévot giải thích, bằng một

giọng nghẹn hơi, khản cổ:

- Tôi muốn tìm cho ra nước, muốn uống qu|… môi anh bạc phếch cả

rồi!

A! Cơn giận chợt tan… Tôi đưa tay sờ qua tr|n như vừa chợt tỉnh giấc,

và cảm thấy rất buồn. Và tôi dịu dàng kể lại:

- Tôi có thấy rõ như anh thấy bây giờ, tôi có thấy rõ r{ng ba |nh đèn,

rõ rệt không thể nào nhầm được… tôi nói thật với anh là tôi quả thật có thấy

ba |nh đèn thật, Prévot ạ!

Prévot lắc đầu im lặng. Sau cùng anh thú thật:

- Vâng, vâng. Hỏng cả rồi.

Đất bốc hơi nhanh, nguội đi rất chóng, giữa bầu khí khô khan không

chất ẩm tại nơi n{y. Đ~ thấy lạnh vô cùng. Tôi đứng lên, v{ bước. Nhưng liền

đó bỗng ré run lên như cầy sấy, khó chịu dị thường. Máu trong mình mất

hết chất nước, tuần ho{n qu| khó khăn, băng gi| u h{n thấm nhập vào thân,

cái lạnh này không chỉ là cái lạnh của đêm th}u. Hai h{m răng chạm nhau

lập cập, to{n th}n tôi như giẻ giun run rẩy không ngừng. Đèn bấm có đó

cũng bằng thừa, vì bàn tay lẩy bẩy chẳng bấm v{o đ}u được. Tôi vốn không

bao giờ dễ cảm thụ cái rét, thế mà sắp phải chết vì rét, tác dụng của cái khát

kể thật là mãnh liệt dị thường!

Tôi đ~ quẳng đ}u đó c|i tấm áo cao su, vì mang theo mãi bên mình

giữa trời nóng, đ~ mệt lả. Và gió bây giờ mỗi lúc mỗi trầm trọng lên cơn. V{

tôi nhận thấy rằng trong sa mạc không làm sao tìm ra một nơi trú ẩn. Sa

mạc phẳng lì trơn l|ng như cẩm thạch. Không có bóng cây gieo ban ngày, và

ban đêm thì sa mạc xô ta trần truồng vào giữa gió. Không một nhành cây,

không một ngõ trúc, không một giậu thưa, không một tảng đ| l|ng để nấp

mình. Gió tấn công tôi, tha hồ mặc sức, như một đo{n kỵ binh trút đạn nơi

trận tiền trống vắng. Tôi chạy quẫng, chạy qu{ng vòng quanh để lẩn tránh. Tôi nằm nép xuống, tôi lại đứng vùng lên. Đứng hay nằm, đằm thân hay dậy

thể, vẫn phó mình cho ngọn roi giá buốt mặc sức quất vào da. Tôi không thể

chạy, tôi kiệt tận sức lực rồi, tôi không thể trốn tránh bọn sát nhân và tôi

quỵ xuống trên đầu gối, hai tay ôm lấy đầu nép mặt dưới kiếm đao!

Tôi nhận ra tình huống đó, một l|t sau; tôi đứng lên, bước thẳng tới

trước mặt, vẫn lập cập run hoài! Tôi hiện đang ở tại đ}u? A! Tôi vừa ra đi,

bỗng nghe Prévot gọi. Những tiếng kêu của anh đ~ thức tỉnh hồn tôi…

Tôi quay trở lại bên anh, thân mình vẫn lẩy bẩy, hình hài vẫn khà

khiểng động đậy từng cơn. V{ tôi tự bảo: “Đ}y không phải do khí lạnh. Đ}y

là do chuyện kh|c. Đ}y l{ chung cục”. Th}n thể đ~ khô cạn chất nước quá

nhiều. Tôi đ~ bước đi nhiều qu| hôm kia, v{ hôm qua lúc đi một mình.

Chết bởi lạnh, điều đó, tôi rất đau lòng. Tôi th{ mong còn ôm những ảo

mộng bên trong. Cái thập giá kia, những người Ả Rập kia, những ngọn đèn

nọ. Dù sao, những thứ đó cũng đương bắt đầu hấp dẫn, chứ sao! Tôi không

thích phải phó mặc th}n mình như một tên nô lệ dưới những lằn roi túi bụi

quất từng cơn…

Bây giờ tôi lại quỳ gối xuống.

Chúng tôi có mang theo một ít dược phẩm. Một trăm gam ê-te nguyên

chất, một trăm gam rượu chín chục và một bình tăng-ti-dót. Tôi gắng uống

vài ba ngụm ê-te. Thật không khác gì nuốt dao nhọn vào cổ họng. Và một tí

chút rượu 90

0

, nhưng vẫn thấy cổ họng như tắc nghẽn.

Tôi đ{o một cái lỗ hổng trong cát, tôi nằm vào, và lấy cát phủ lên khắp

mình. Chỉ còn khuôn mặt nhô ra. Prévot có tìm thấy một ít cọng cây khô,

đem nhúm lửa, và lửa sẽ t{n đi, trong chốc lát. Thà chị lơ l|o nện gót giầy

m{ hơn. Anh lầm đó nhé.

Cổ họng tôi vẫn tắt nghẽn, triệu chứng chẳng lành gì, tuy vậy mà cảm

thấy có dễ chịu hơn. Cảm thấy bình thản. Thấy bình thản nhiều, nhiều hơn

những tưởng. Thật không ngờ. Thật có đâu dám hy vọng thế này. Dù muốn

dù không, dù tôi cũng đương ra đi phiêu dạt du hành, tay chân ôn tồn trói

chặt, nằm ở boong chiếc tàu mua bán hắc nô, đề huề sao, hỡi muôn sao ở

trên trời có biết! Tôi đương bình an nhìn lên tự dưới. Nhưng chắc rằng… có lẽ… đ~ bình an thanh thản, thì ắt là không còn thống khổ chi nhiều…

Tôi khong còn cảm thấy lạnh, chỉ cần một điều kiện l{ đừng có ngứa

ngáy mà ngọ nguậy một thớ thịt n{o đó ở trong mình. Thế rồi thì tôi quên

luôn cái thân tôi ngủ yên trong lớp cát. Tôi sẽ không ngọ nguậy nữa, v{ như

vậy sẽ không còn đau đớn nữa bao giờ. Vả chăng, vả chăng thì con người

đau đớn có chi mô… Phía sau những bao nhiêu bứt rứt khổ lụy dày vò, còn

có cuộc hợp tấu đề huề của từng cơn mỏi rủi phối liệt với từng trận cuồng

điên mê sảng. Và mọi vật bỗng đổi dạng biến thành những trang s|ch đầy

hình ảnh hương m{u, điều hòa theo nhịp những cuồng lưu, hơi d~ man một

chút, của những mộng thần tiên sự tích dào dạt trôi dòng… Phi hồng trường

phát phi kiên. Ôi mùa tích lục phi tuyền lên cao… Thì mới lúc n~y, gió rượt

đuổi thân tôi chạy đi như chết, v{ để trớ tránh nó tôi phải quanh quất chạy

vòng như con thú rừng bị hãm lạc, chết điếng cái cõi lòng giữa tuyệt địa

điêu linh. Rồi thở không ra hơi. Rồi hơi ra hổn hển: như có một c|i đầu gối

dũng m~nh của qu}n thù đè cứng trên trái phổi của tôi. Một c|i đầu gối. Và

tôi vẫy vùng chống lại cái khối nặng ma quái thiên thần, yêu tinh tiên nữ.

Tôi chẳng bao giờ cô đọc trong sa mạc bơ vơ. Đôi bên đồng thuyền tung

chưởng lực căm căm không o bồng, không o bế. Tới bây giờ mới thấy đ}y, l{

thấy mình không còn tin ở bốn bể huyễn tượng, thì tôi rút lui về mình, khép

mình lại trong lòng mình, khép mắt lại trong mi tôi, và tôi không còn rục

rịch một chút xíu động đậy nào cả. Toàn thể c|i th|c lũ ngập tràn hình ảnh

nọ nó cuốn phăng, tôi cảm thấy c|i đó thật rõ rệt, toàn thể c|i th|c lũ kia nó

cuốn tôi về một cõi mộng tĩnh mịch thanh bình: những dòng sông thiên thu

chìm yên vui êm dịu vào trong lớp lớp điệp trùng của vạn đại biển khơi.

Vĩnh biệt thôi, hỡi anh em của đời tôi thương mến. Lỗi không tại tôi,

nếu tấm th}n con người không chịu đựng được nổi ba ngày không uống.

Xưa, tôi không tin rằng mình lại là tên tù chung thân của giếng nước như

thế. Xưa, tôi không ngờ mình chỉ còn có được ngần ấy vắn vủn thời gian tự

do. Người ta tưởng con người ta có thể ra đi v{ bước thẳng tới được tự do…

Người ta không nhìn thấy cái sợi dây kết liền mình vào giếng, cái sợi dây kết

liền mình vào bụng dạ là cõi lòng của đất, kết liền như cuống rốn ruột rà.

Nếu người ta cao hứng bước thêm một bước nữa, là chết.

Trừ ra mối đau khổ của các anh chị em, tôi chẳng còn chi để tiếc. Nói

cho cùng thì tôi cũng đ~ l~nh c|i phần hơn. Nếu một mai tôi trở về, ắt tôi sẽ

bắt đầu làm hệt trở lại. Tôi cần sống. Mà giữa những thị thành, thật chẳng còn c|i đời sống của con người ta đ}u.

Đ}y không phải vấn đề phi cơ, phi công h{ng không, h{ng khí, chi cả.

Phi cơ, không phải là một cứu c|nh, phi cơ l{ một phương tiện. Không phải

vì phi cơ m{ người ta liều thân vào sinh ra tử. Cũng như không phải vì cái

cày, mà bác nông phu chịu lam lũ giữa ruộng nương. Nhưng bằng phi cơ,

người ta bay xa lìa phố thị và rời bỏ được những kế toán âm u, và tìm ra trở

lại một chân lý thuần ph|c nông điền.

Người ta làm một công việc của con người, v{ người ta biết những băn

khoăn tư lự của con người. Người ta tiếp xúc với gió, với sao, với đêm tối,

với cát, với biển. Người ta tranh mưu đấu kế với những sức mạnh thiên

nhiên. Người ta chờ bình minh như kẻ l{m vườn chờ xuân lại. Người ta đợi

bến yên nghỉ như một miền đất hứa, v{ người ta tìm chân lý cho mình trong

tinh tú chơi vơi.

Tôi sẽ không phiền hà gì hết. Từ ba ng{y nay, tôi đ~ bước đi, tôi đ~

chịu kh|t, tôi đ~ dõi theo những lối đi nẻo về trên lớp c|t, tôi đ~ lấy giọt

sương l{m ho{i vọng của mình. Tôi đ~ tìm c|ch đi về tiếp nối với đồng loại

của tôi, đồng loại của tôi mà từ lâu tôi từng lãng quên không nhớ ra đ}u l{

nơi họ cư trú trên Tr|i Đất. V{ đó l{ những tư lự âu lo của kẻ sống. Tôi

không thể không xem chúng quan trọng hơn c|i sự vụ chọn một chiều một

rạp ca vũ một xem chơi.

Tôi không còn hiểu nữa những đ|m người trong những chuyến xe lửa

ngoại ô, những con người vẫn tin mình vốn l{ người từ trước đến bây giờ

đó vậy, và thật ra đ~ bị một áp lực nào mà chính họ không hề cảm thấy, bị

một áp lực đẩy vào chỗ: bị dồn vào cái thế tự biến mình thành cái công cụ

được sử dụng, để phẩm cách dồi nặn theo. Những ngày Chủ Nhật vô nghĩa

tủn mủn lai rai của họ, họ đ~ đem những gì để nhét v{o cho đầy ắp, những

lúc họ hớn hở tự do?

Một bận nọ, ở Nga, tôi có nghe người ta chơi bừa bãi nhạc Mozart

trong một xưởng máy. Tôi có viết truyện ấy ra. Tôi có nhận được hai trăm l|

thư chửi rủa. Tôi không oán trách gì những kẻ ưa thích nhất cái loại quán ca

vũ lai rai tồi, để nghe nhạc hú hí như thiên lôi. Tôi tr|ch những kẻ đứng chủ

trương những quán ca vũ thiên lôi hú. Tôi không chịu chấp thuận cái việc người ta phá hoại cho “toi đ}m” đồi phế con người.

Tôi, tôi sung sướng trong nghề nghiệp tôi. Tôi cảm thấy mình đích thị

nông dân của những bến trạm nghỉ. Trong chuyến tàu ngoại ô, tôi nghe thấy

niềm tan rã giữa lòng mình, mối thống khổ tủi buồn còn thăm thẳm khôn tả

hơn tại đ}y. Tại đ}y, nói cho cùng, còn h{o hoa lộng lẫy xiết bao!...

Tôi chẳng tiếc gì hết. Tôi đ~ chơi cuộc, tôi đ~ thua. Có chi đ}u m{ o|n

hối. Đó l{ trong lẽ hằng của nghề nghiệp, Nhưng, dù sao, tôi cũng đ~ hít v{o

phổi mình, cái trận gió trùng dương…

Ai đ~ một phen có nếm mùi gió nọ, sẽ không quên được cái vị nồng

mật dịu dị thường kia. Phải vậy chăng ru, hỡi các bạn bè thân thuộc? Và nói

vậy cũng phải chăng l{ nêu ra c|i việc nên sống theo c|ch điệu mạo hiểm

cho gặp nguy biến đầy người. Cái lối nói đó thật là khoác lác kiêu kỳ. Cái

dũng của bọn đấu bò, thật tôi không muốn. Cái tôi yêu chuộng, không phải

là cái nguy hiểm nguy cơ. Tôi biết tôi yêu c|i gì. Đó l{ sự sống.

Hình như trời sắp trắng ra. Tôi chìa một cánh tay ra khỏi cát. Một tấm

vải dù căng ở ngay tầm tay, tôi sờ xem, nó vẫn khô ran. Chờ vậy, sương

đọng lại lúc bình minh. Nhưng bình minh tới, trắng ở chân trời, mà không

thấm ướt cho mấy tấm vải chúng tôi. Lúc đó những ý nghĩ của tôi trở nên

lộn xộn chút ít v{ tôi nghe mình nói: “Tại đ}y có một tr|i tim khô… một trái

tim khô… một trái tim khô không biết làm nên giọt lệ”.

- Lên đường thôi, Prévot! Cổ họng chúng ta chưa tắc nghẽn: còn phải

bước đi.

7

Ngọn gió Tây vẫn thổi, ngọn gió T}y l{m khô th}n người trong chín

giờ. Cuống họng tôi chưa kín nghẽn, nhưng khô cứng v{ đau đớn lắm. Tôi đ~

thấy chừng chừng rồi, một c|i gì cò cưa, r|t r|t. Chẳng bao lâu nữa, sẽ khởi

sự cơn ho, cơn ho tôi từng nghe người ta mô tả, v{ tôi đương đợi chờ. Lưỡi

tôi, nghe thật khó chịu. Nhưng trầm trọng nhất, l{ tôi đ~ bắt đầu chớm thấy

những chấm sáng long lanh. Lúc những chấm đó biến th{nh đỏ rực, là lúc

tôi sẽ ngã thân nằm dài.

Chúng tôi bước nhanh. Chúng tôi lợi dụng chút mát trời ban sáng.

Chúng tôi biết rằng lúc nắng lên tr{n, thì như thiên hạ, chúng ta sẽ không

còn bước đi bước đứng. Lúc nắng lên tr{n… khi n{ng lên trắng…

Chúng tôi không có quyền ra mồ hôi. Cũng không có quyền đợi. Cái khí

mát này chỉ là khí mát của mười tám phần trăm chất ẩm. Cơn gió n{y đương

thổi l{ cơn gió từ sa mạc thổi qua. V{, dưới cơn ve vuốt lừa dối v{ mơn man,

thì máu trong thân chúng tôi bốc hơi th{nh khói.

Chúng tôi có ăn một ít nho ng{y đầu. Từ ba ngày trời, có ăn một nửa

trái cam và một nửa cái bánh bèo mật ngọt. Nếu còn chi đó nữa để ăn chơi,

thì bói đ}u ra chút nước bọt để nhai, nuốt? Nhưng tôi không hề thấy đói

một tí, chỉ thấy kh|t. V{ tưởng chừng từ nay sẽ thấy, thấy hơn cả kh|t, đó l{

thấy những hiệu quả của cơn kh|t phiêu bồng. Cổ họng này cứng đờ như cờ

đứng, không gió du. C|i lưỡi này nắn bằng thạch cao, hay kết tinh bằng chất

vôi, tình đ|? C|i cò ke khản khản, d}y dưa r|t r|t n{y, v{ c|i vị gớm guốc

làm sao ở trong miệng. Những cảm gi|c đó rất mới lạ đối với tôi. Chắc hẳn

nước sẽ làm dứt được những thứ này, nhưng tôi không có kỷ niệm n{o để

cho phép g|n phương thuốc kia vào sự chữa chạy cho những cảm giác nọ.

Cái khát cứ trở cơn dần d{, để biến thành một chứng bịnh, và trở cơn

m~i m~i để không còn là một nỗi ước ao. Cái bịnh cứ tăng tăng, c|i thèm

thuồng cứ bớt bớt. C|i ước ao cứ giảm giảm, cái chứng tật cứ gia gia. Cái

đường qua thiên mộng càng thiên tẩy giờ…

Tưởng chừng những giếng, những màu, những mật, đ~ bắt đầu mang

lại những hình ảnh bớt n~o nh}n. Tôi quên đi, tôi quên mất cái màu cam

phong nhụy rạng rỡ ban đầu, cũng như tôi dường quên lãng hết những ân

tình tôi trút gửi, tôi trao. Ngõ ban sơ, hạnh hôm nào. Liễu yêu b{i động mận

đ{o r~ riêng. Hương sầu điệp điệp mao quyên. Hai người con gái tự tiền

kiếp sinh…

[8]

Thôi rồi, tôi đã quên, quên hết rồi, có lẽ…

Chúng tôi ngồi lại, nhưng lại phải đi. Chúng tôi từ bỏ những trường

đình, viễn độ. Sau năm trăm thước lết bết bước đi, chúng tôi r~ rời ng~ lăn

ra cát. Cảm thấy một niềm vui b|t ng|t được duỗi d{i lưng ra. Nhưng lại phải đi.

Phong cảnh đổi. Đ| dọc đường thưa bớt, cách bức thêm.

Bây giờ chúng tôi bước đi trên c|t. C|ch hai c}y số, tại trước mặt

chúng tôi là những đụn gò. Trên những đụn gò kia, vài chấm xanh cây lè tè

lốm đốm. Cái lớp giáp sắt đen sì, tôi vốn không thích nó bằng m{u c|t. Đó l{

màu sa mạc hồng vàng. Màu Sahara hồng tía. Tôi tưởng nhận ra rồi, ồ sa

mạc…

Bây giờ thì chúng tôi kiệt sức, cứ mỗi hai trăm thước ch}n đi.

- Cũng gắng m{ bước đi, ít ra l{ tới cái cụm cây bé bỏng lưa thưa kia,

dù sao chăng nữa.

Đó l{ giới hạn tuột cùng. Tám ngày sau, chúng tôi sẽ có dịp dùng ô tô

mà xét lại, lúc noi dấu mà lần mò tìm trở lại chiếc “Simoun”, mới hay rằng

cái cố gắng cuối cùng kia là cố gắng tới t|m mươi c}y số. Thế thì chúng tôi

đ~ đi đủ trong hai ống chân mình gần được hai trăm c}y. L{m sao còn có thể

tiếp tục?

Hôm qua, tôi đi không hy vọng. Hôm nay, những tiếng nọ đ~ mất trụi

hết ý nghĩa. Hôm nay chúng tôi bước đi l{ ấy bởi bước đi. Bước đi l{ bởi vì

đi bước. Hẳn cũng hệt là bò cày trên ruộng. Hôm qua tôi mộng ước những

Thiên Đường cam mọc. Hôm qua tôi mơ tưởng những đ{o nguyên suối

chảy. Nhưng hôm nay, đối với tôi, không còn cái gọi l{ c|i đ{o nguyên thiên

đường. Tôi không còn tin ở sự tồn tại đ}u đó những trái cam.

Tôi không thấy gì hết cả. Tôi chỉ duy có thấy ở trong mình, là duy chỉ

không một c|i chi chi, ngo{i c|i đồ sộ của khô cằn tim máu. Tôi sắp té nhào,

và tôi không biết tới tuyệt vọng. Tôi cũng chẳng biết khổ đau l{ c|i gì. Tôi

rất tiếc: nỗi sầu đau, nếu còn cảm thấy, ắt sầu đau sẽ là một cái gì êm dịu và

ngọt như nước. Người ta thương hại cho phận mình, người ta cảm thương

mình như một người bạn. Nhưng tôi không còn có bạn nữa ở cõi đời này.

Người ta sẽ tìm thấy tôi, người ta sẽ ngó vào mắt tôi thấy nó cháy

bỏng, người ta sẽ tưởng rằng tôi đ~ có kêu gọi nhiều, đau khổ lắm. Nhưng

những hăm hở, nhưng những tiếc thương, nhưng những sầu đau êm |i, đó vẫn là những kho phong phú, những giàu sang của cải. Còn tôi, tôi chẳng còn

gì là của cải nữa. Những n{ng g|i tươi, gặp cơn chiều của }n tình đầu tiên

trở chứng, các nàng nếm mùi sầu khổ, và khóc than. Sầu khổ dính liền với

những nhiệt tình tồn sinh run rẩy. Còn tôi, tôi không có nữa những khổ sầu.

Sa mạc, là tôi. Tôi không còn tiết ra nước bọt, nhưng tôi cũng không

còn ngay cả cái tiết ra và cấu tạo những hình ảnh êm |i để hướng về mà có

thể năn nỉ than van. Mặt trời đ~ thiêu nướng mất nguồn lệ ngọt ở trong tôi.

Thế tuy nhiên, tôi vừa chớm có thấy cái chi thế? Một luồng hy vọng

dậy cơn tr{o lướt qua tôi như một trận lăn tăn trên trùng dương gợn bọt.

Đó l{ dấu hiệu gì? Dấu hiệu gì vừa mới cấp b|o linh tính tôi, trước khi đập

vào tâm thức tôi như thế? Không một chút gì đ~ thay đổi, mà mọi sự đ~ đổi

thay. Phải không? Mặt cát phẳng lì này, những gò đống mấp mô này, những

cụm c}y lưa thưa lục nhạt nọ, không còn kết thành một phong cảnh nữa, mà

đ~ trở nên một cảnh trí. Một cảnh trí còn trống không, nhưng ho{n to{n

được soạn sửa. Được sắp đặt tròn khung. Như giang san chờ đợi. Tôi nhìn

Prévot. Anh ta cũng đang cơn chấn động kinh ngạc như tôi, nhưng anh cũng

không hiểu sao ra sao cả về cái niềm hưng khởi đột ngột ở trong mình.

Tôi thề với anh là sắp có xảy ra một cái gì tại đ}y tại đó.

Tôi thề với anh là sa mạc đ~ xao động linh hồn. Tôi thề với anh là cảnh

vắng vẻ tịch liêu n{y đ~ đột nhiên tha thiết gây muôn vàn cảm xúc yêu

đương, xao xuyến hơn mười trận huyên náo tại công trường.

Chúng tôi được giải cứu. Trong sa mạc đ~ có bóng vang gì!...

A! Chúng tôi đ~ lạc nẻo đ|nh mất lối đồng loại đi về, chúng tôi đ~ bị

gạt rơi ra ngo{i vòng bộ lạc, chúng tôi đ~ chịu mười phen cô độc giữa cõi

trần, bị bỏ quên bởi một cuộc mênh mông điệp trùng di trú, và bỗng nhiên

bây giờ chúng tôi nhận thấy ở bên mình, tạc trên cát, lõm vào sâu, những

bàn chân ghi chép dấu hiệu huyền ảo của con người.

- Nhìn đ}y, Prévot, tại đ}y hai người đ~ chia tay…

- Tại đ}y, một con lạc đ{ có quỳ gối xuống…

- Tại đ}y…

Tuy nhiên, chúng tôi vẫn còn chưa được giải cứu. Chờ suông, chưa đủ.

Trong vài giờ nữa, người ta sẽ không còn có thể giải cứu được chúng tôi. Cái

bước đi của cơn kh|t, một phen cơn ho đ~ bắt đầu, bước đi của cơn kh|t, nó

quá nhanh. Và cổ họng chúng tôi…

Nhưng tôi, tôi tin tưởng ở c|i đo{n người, đo{n người đang đong đưa

nhịp bước đ}u đó, trong sa mạc này.

Chúng tôi vậy l{ còn bước đi, v{ hốt nhiên tôi nghe tiếng gà gáy.

Guillaumet từng có bảo tôi: “V{o khoảng cuối, tôi nghe tiếng gà gáy trong

non núi Andes. Tôi cũng có nghe những đường hỏa xa xe lửa chạy…”.

Tôi nhớ lại câu chuyện anh kể đó, chính v{o c|i lúc con g{ nọ gáy lên,

và tôi tự bảo: “Đầu tiên, chính con mắt tôi nó phỉnh phờ tôi. Đó chắc là tại

tác dụng của cơn kh|t. Tai tôi chịu đựng bền bỉ hơn…”. Nhưng Prévot nắm

chặt cánh tay tôi:

- Anh có nghe chứ?

- Nghe gì?

- Con gà gáy!

- Thế thì… thế thì…

Thế thì, chú ngốc ôi, chắc chắn đứt đi rồi, thế thì đó l{ sự sống…

Tôi còn bị một ảo ảnh cuối cùng: ba con chó đuổi nhau. Prévot, Prévot

cũng có nhìn, Prévot không thấy chi hết. Nhưng chúng tôi l{ hai đứa đ~ cùng

song song đưa rộng cánh tay về một người Bedouin đó. Chúng tôi l{ hai

thằng cả hai cùng song song hai miệng một lời gào lên hết bao nhiêu hơi

mòn trong t{n rơi l| phổi. Chúng tôi l{ hai đứa cả hai đủ hai thằng đầy ngập

tiếng hạnh phúc cười ra!...

Nhưng giọng chúng tôi không đủ dội xa ba mươi thước. Dây gân trong

cổ họng và miệng mồm đ~ qu| khô. Chúng tôi đ~ nói chuyện với nhau không ra thành tiếng, đ~ tắt nghẽn cả lời, mà nào có nhận biết đó ra đ}u!

Nhưng người Bedouin kia và con lạc đ{ của anh, vừa hiện hình ra từ

phía sau gò cồn nọ, coi kìa, đ~ lững thững, chậm chạp, đi xa. Có thể rằng anh

ta đi một mình, không còn ai nữa… Một hung thần oan nghiệt đ~ xui khiến

anh ta tới gần cho chúng tôi ngó thấy, rồi xô mất bóng anh ta đi…

Mà chúng tôi thì không làm sao, cho ống chân chạy được nữa.

Một người Ả Rập khác từ trên đụn gò, trắc diện nhô ra. Chúng tôi gào

lên, nhưng lời câm không ra tiếng. Chúng tôi tơi tả đưa tay kho|t rối bời, có

cảm tưởng như mình đương vẽ ngập vào vòm trời những dấu hiệu mênh

mông. Nhưng người Bedouin kia vẫn nhìn về bên phải…

Và tới bây giờ, anh chậm r~i xoay đầu thêm một chút rất thong dong.

Chỉ trong một giây vàng thiểm động, anh chớm sẽ nghiêng mình xoay mặt

thêm chút nữa, thì trời đất sẽ thành tựu song song. Vạn vật sẽ vuông tròn

viên mãn trong một thoáng phiêu bồng chợt ngẫu nhĩ ra hoa: hết khát hết

đói, hết chết, hết ảo ảnh, hết hết. Một chút xoay nghiêng, càn khôn biến

th{nh vũ trụ. Chỉ cử động một nửa thân hình, chỉ dạo mắt một c|i đưa

quanh, là anh tạo ra đời sống, v{ trông anh như một đấng thần linh…

Nhiệm m{u đ~ tới… Anh đạp c|t đi lại phía chúng tôi, như một thiên

thần bước trên mặt biển…

Người Ả Rập giản dị nhìn chúng tôi. Anh đưa tay ấn vào vai chúng tôi,

chúng tôi vâng lời. Chúng tôi nằm xuống. Tại đ}y không còn chủng tộc,

không còn ngôn ngữ, không còn ph}n chia… Chỉ còn có người du mục nghèo

kia đ~ đặt lên vai chúng tôi hai bàn tay thiên sứ.

Chúng tôi chờ, úp trán lên cát. Và bây giờ chúng tôi nằm dài, bụng đè

trên bãi, hụp đầu vào chậu nước mà uống như nghé bò con. Người Bedouin

thấy vậy và hốt hoảng buộc chúng tôi mỗi lúc uống, mỗi lúc dừng. Nhưng

anh vừa buông tay, chúng tôi lại hụp đầu vào chậu nước trở lại.

Nước!

Ồ nước ạ, ngươi không vị, không m{u, không mùi hương, không ai x|c

định được ngươi có nghĩa l{ gì, người ta thưởng thức ngươi v{ không biết

ngươi ra sao. Ngươi không cần thiết cho sự sống: ngươi l{ sự sống. Ngươi

đem lại một khoái cảm dị thường không thể giải thích bằng gi|c quan, ngươi

dìu du khoái về cho thấm nhập vào thân thể chúng ta. Cùng với ngươi, bao

nhiêu quyền uy được giao trả lại cho chúng ta, những quyền uy mà chúng ta

đ~ đ{nh lìa bỏ. Nhờ lượng ngươi bao dung, bao nhiêu nguồn suối cạn của

buồng tim bỗng dạt dào trở lại.

Ngươi l{ của cải to lớn nhất thế gian, v{ cũng mỏng manh l~ng đ~ng

nhất, ngươi thanh khiết thế nào ở giữa dạ tr|i đất của chúng ta. Người ta có

thể nằm chịu chết bên cạnh một ngọn suối nước có hàm chất khổ thổ. Người

ta có thể nằm chết bên một cái hồ nước mặn. Người ta có thể chết với hai lít

nước sương có lẫn lộn vài chất muối. Nước ạ, ngươi không bằng lòng chịu

pha lẫn, ngươi không chịu đựng sự biến chất, ngươi l{ một Tố Nga băng

tuyết rất mực ngại ngùng.

[9]

Nhưng ngươi chan rưới tràn lan trong chúng ta một nguồn vui đơn sơ

bất tuyệt.

Còn anh, anh Bédouin xứ Libye, anh đ~ giải cứu chúng tôi, nhưng anh

sẽ vĩnh viễn phai mất hình ảnh trong ký ức chúng tôi. Tôi sẽ không bao giờ

nhớ lại gương mặt anh. Anh l{ con Người, và anh hiện ra với gương mặt tất

cả những con người cùng trong một lúc. Anh chẳng bao giờ nhìn rõ mặt

chúng tôi, nhưng gặp một lần anh đ~ nhận ra được chúng tôi rồi. Anh là

người anh em thân thích. Và tới lượt tôi, tôi sẽ nhận ra anh trong gương mặt

tất cả mọi người.

Anh hiện ra với chúng tôi trong phong độ lai láng cao vời, và bao dung

nhân hậu, như một đấng Chí Tôn và có quyền lực ban cho nước uống. Tất cả

bạn hữu của tôi, tất cả kẻ thù của tôi, cùng bước tới bên trong hình hài của

anh, và tôi không còn một kẻ thù nào ở thế gian này nữa cả.

VIII

NGƯỜI TA

1

Một lần nữa tôi tới sát mép một chân lý mà tôi không hiểu được. Tôi

đ~ tưởng mình lâm vào tuyệt địa, tôi đ~ tưởng mình chạm tới chỗ tận cùng

tuyệt vọng và, một phen chấp nhận chịu khước từ không màng gì nữa hết,

thì tôi đ~ rõ được lẽ thanh thản yên vui. Tưởng chừng như trong giờ phút

đặc thù đó, người ta chợt kh|m ph| ra chính mình, v{ người ta trở thành

bạn thiết của chính mình. Không có gì có thể chiếm ưu thắng trước cái niềm

viên mãn sung thiệm, đ|p ứng mọi đòi hỏi cốt yếu, một nhu cầu thiết thân

n{o đó ở trong ta, mà bấy l}u nay ta không để bụng quan hoài. Bonnafous,

tôi thiết nghĩ, Bonnafous từng lãng phí thân mình trong những cuộc theo

đuổi bóng vang mây gió, Bonnafous đ~ th}m cảm niềm bình thản thanh

thoát kia. Guillaumet phiêu bồng trong tuyết gi|, cũng th}m cảm nỗi niềm

đó. Còn tôi, tôi l{m sao quên được cảnh huống mình. L{m sao quên được

rằng một phen lấp thân trong cát tới tận mang tai, một phen suýt chết vì

kh|t nước, mà còn cảm thấy máu tim ấm cúng êm đềm túc mục đến thế

dưới vòm sao vây phủ?

Làm thế nào giúp cho niềm phơi phới nọ có được dịp phi dương? Mọi

sự trong con người đều bao hàm mâu thuẫn, ai cũng biết thế. Người ta bảo

đảm cơm nước cho anh chàng nọ để anh rảnh rang sáng tác, thì anh ta lại

ngủ khì; kẻ anh hùng chinh phục chiến thắng rạch đôi sơn h{ xong, bỗng

đ}m ra nhu nhược mềm dịu như hồn đ{n b{; kẻ hào hoa phóng dật, nếu

được ban cấp của cải giàu sang, lại đổ ra bo bo biển lận. Những chủ nghĩa

chính trị, tin quyết là mình mở lối khai hóa tốt tươi cho con người, những

chủ nghĩa li bì kia, đối với chúng ta thật chẳng có chi cần ích liên can cả, nếu

tự ban đầu ta chẳng biết cái loại người nào sẽ được khai hóa tốt tươi ra. Kẻ

sắp nảy nở là ai? Chúng ta không phải một bầy mục súc cần nuôi cho đông

đảo để ăn thịt hoặc để lấy phân, hoặc để lùa v{o đồi sim mà thẫn thờ bá láp,

và sự xuất hiện của một Pascal bần cùng lại nặng ý nghĩa hơn ba kẻ lai rai

lùa bò hoặc chăn dê thịnh vượng.

Cái cốt yếu, c|i anh hoa, c|i tường vi hương tính, c|i kỷ độ phát tiết

phiêu bồng, đố ai dám biết mình tiên đo|n được cho ru! Mỗi kẻ trong chúng ta đều có rõ những niềm vui lừng vai phố chị, những nỗi sướng chấn động

khe em, ấm cúng tại chính cái chốn c|i nơi m{ không có gì của ban sơ d|m

lên lời hẹn ước sẽ mai sau là tổ vọng tự ban đầu. Những niềm trước vui

sướng đó còn lưu lại trong ta xiết bao ngậm ngùi tiếc thương tơ tưởng mãi,

những cựu tình vàng sự bốc ô hinh, những vân yên về sau sầu bến cũ,

những thứ đó lung trạo đến thế nào mà xui ta nhớ nhung tới c|i độ yêu dấu

luôn cả những khốn đốn vô ngần ta phải chịu, nếu những khốn đốn nọ giúp

ta th}u góp được những vui kia. Chúng ta đứa n{o cũng đều có khoan khoái

lạ thường lúc gặp lại những thằng bạn cũ, m{ thấy lại những diễm kiều

huyền ảo của những kỷ niệm tồi tàn.

Chúng ta biết gì đ}u, ngo{i c|i điều: có những điều kiện khôn hiểu gây

mạch đời dào dạt cho chúng ta. Chân lý của con người nằm tại đ}u như vậy?

Chân lý không phải là cái gì có thể minh giải, minh thị, biểu minh

được. Nếu trong đ|m đất này chứ không trong đ|m đất kh|c, c}y cam đ}m

rễ mạnh và kết trái nhiều, thì đ|m đất đó l{ ch}n lý của cam. Nếu tôn giáo

nọ, nếu văn hóa nọ, nếu giai độ giá trị nọ, nếu thể thức hoạt động nọ, chứ

không phải thể thức kia, giai độ văn hóa tôn gi|o kia, giúp cho nảy nở viên

m~n trong con người ta nỗi sung thiệm lai láng vuông tròn, và giải phóng

được trong mình con người ta một vị lãnh chúa lộng lẫy vốn không tự giác

được chính mình từ trước, thì quả thật c|i giai độ giá trị nọ, c|i văn hóa

dưỡng dục nọ, cái thể thức hoạt tồn nọ, chính là cái chân lý của người ta.

Còn luận lý học? Thôi xin nàng luận lý học hãy cứ liều liệu mà xoay xở để

mài miệt biện minh cho đời sống đó nhé.

Suốt tập sách này tôi có kể một vài kẻ trong cái số người dường có

nghe theo tiếng gọi của khuynh hướng tối thượng, đ~ có chọn sa mạc hoặc

h{ng không, cũng như những kẻ khác ắt có chọn cổng vào tu viện; nhưng tôi

chỉ vi bội mục đích của tôi, nếu tôi đ~ tỏ ra có vẻ như muốn nhiếp dẫn các

bạn hãy tán tụng trước tiên là những con người. C|i đ|ng t|n tụng trước

tiên, ấy là cái mảnh đất l{m căn cớ thiết lập nên những con người vậy.

Hẳn l{ khuynh hướng có đóng một vai trò. Có kẻ khép mình trong

quán hàng. Có kẻ khẩn thiết bước theo con đường của mình một cách tuyệt

đối thiết tha, theo một hướng đi tối yếu: trong lịch sử tuổi thơ của những kẻ

nọ, ta tìm thấy trở lại những manh nha của niềm hưng phấn khả dĩ minh

giải được định mệnh nào của họ đ~ nhiếp dẫn họ đi theo. Nhưng Lịch Sử, được nhìn thao láo về sau, lúc mọi sự đ~ th{nh tựu rồi, Lịch Sử lại gây ảo

tưởng lẩn thẩn. Bởi rằng những hưng phấn, hăm hở nói trên, ta có thể tìm

nhận thấy ra nơi hầu hết mọi người. Chúng ta đều có biết những anh chàng

bán quán, nhân một đêm n{o có b~o giông đắm thuyền, nhân một đêm n{o

có hỏa hoạn, bỗng dưng anh ch{ng lai rai nọ đột ngột trút bỏ bản chất bê

bết đi, v{ hiển lộ ở trong vòng những hào quang lộng lẫy: anh chàng tỏ ra

cao cả hơn chính mình. V{ anh ch{ng cũng không lầm về tính chất niềm

sung mãn thiệm túc của anh: đêm đắm tàu, đêm hỏa hoạn kia, sẽ mãi mãi là

c|i đêm vô song của đời anh. Nhưng vì thiếu những cơ hội mới, thiếu đất

thuận lợi, thiếu tôn giáo nghiêm mật yêu sách, những anh chàng lại ngủ khì

trở lại, kê đầu trên gối mộng mà vắng bóng chiêm bao, và quên, quên tuốt,

không còn tin tưởng nữa nơi tinh thể hoằng viễn của chính mình. Quả thật,

khuynh hướng quả có giúp cho con người tự giải tho|t: nhưng cũng cần làm

sao để giải tỏa cho những khuynh hướng được nảy hột vọt ra.

Đêm thinh không, đêm sa mạc… l{ những cơ hội ngẫu nhĩ hiếm hoi,

không đi tr{n lan tới để hiến thân mình cho mọi người thiên hạ. Ấy tuy

nhiên, lúc cảnh huống giậy giàng về n|o động, thì tất cả mọi người cùng

biểu thị lai láng những nhu cầu xao xuyến như nhau. Tôi không đi xa đề tài,

nếu đem kể lại đ}y một đêm tại T}y Ban Nha đ~ thức tỉnh cho tôi nhìn vỡ lẽ

ra sự vụ nọ. Tôi đ~ nói qu| nhiều về một vài kẻ riêng tây, và bây giờ tôi

muốn nói về mọi kẻ.

Chuyện tại mặt trận Madrid, tôi tới viếng với tư c|ch phóng viên. Tối

hôm đó, tại một cái hầm trú ẩn, tôi dùng bữa với một vị đại úy trẻ.

2

Chúng tôi đang trò chuyện thì điện thoại reo. Đối thoại kéo dài: một

cuộc tấn công do bản doanh truyền lệnh, một cuộc tấn công phi lý não nùng,

tuyệt vô hy vọng, quyết chiếm lấy v{i căn nh{ thuộc vùng ngoại ô thợ

thuyền, đã biến thành những ph|o đ{i xi măng. Viên đại úy nhún vai và

quay trở lại bảo: “Những đứa nào trong bọn chúng ta sẽ thò đầu đi tiên

phong…”, rồi anh ta đẩy hai ly cô-nhắc lại, một cho viên đội đang ngồi tại đó,

và một cho tôi. Anh bảo viên đội:

- Anh ra trước hết, với tôi. Uống đi, rồi ngủ một trận nhé.

Viên đội đ~ đi ngủ rồi. Quanh chiếc bàn ấy, chúng tôi mười hai người

cùng thức. Trong căn phòng kín bưng ấy, không một tia sáng lọt ra ngoài,

ánh chói gay gắt quá, khiến tôi nháy nheo mãi hai mắt. Tôi đ~ có dòm liếc ra

ngoài một c|i, trước đó năm phút, qua một lỗ hở ẩn kín ở trong v|ch tường.

Vén tấm vải che cái lỗ hở nọ, tôi nhìn thoáng ra ngoài thấy dưới bóng trăng

rờn rợn khí u cốc, những căn nh{ hoang phế như nh{ ma mời quỷ đi về. Lúc

đặt mảnh vải trở lại trên cái lỗ hổng đ~ dòm xong, tôi có cảm tưởng như

mình đ~ lau chùi giúp ai c|i |nh v{ng của chị nguyệt, như lau chùi một vệt

dầu loang lai láng. Cho tới bây giờ, tôi vẫn còn giữ gìn trong hai mắt cái hình

ảnh những ph|o đ{i rờn rợn lục pha lam.

Mấy anh lính này chắc hẳn sẽ đi không mong kỳ hậu hội, nhưng họ

làm thinh theo tiết tháo thói nhà. Cuộc tấn công n{y cũng l{ theo lẽ hằng

nghề nghiệp. Quân mạc tiếu… Người ta thò tay hốt một nắm ở trong cái kho

người dự trữ. Người ta thò tay vốc một nắm ở trong cái vựa thóc tích tụ

th|ng ng{y. Người ta đưa tay gieo hột, vãi giống, cho rớt v{o đường xẻ

ruộng nương, mai sau mọc mạ.

Và cô-nhắc bây giờ cũng l{ bồ đ{o mỹ tửu thiên thu, thì chúng tôi xin

uống. Bên phải tôi, người ta lạo xạo đ|nh cờ. Bên tr|i tôi, người ta gieo câu

nói rỡn. Tại đ}y tôi ở chốn nào? Thế ru? Một ch{ng lướt khướt cơn tỉnh cơn

say mò mẫm bước v{o. Anh đưa tay ve vuốt chòm râu rậm rì hi hữu, v{ đưa

hai con mắt cợt l{n như mơn trớn chúng tôi. Làn sóng mắt lướt trên ly cô-

nhắc, lờ lững ngó lơ đi, lại trở về vuốt ve cô-nhắc, xoay một c|i, đậu vào

th}n đại úy, rất mực vòi vĩnh van n{i. Đại úy âm ỷ cười ngầm, hoang vu một

cách. Anh chàng chớm dậy cơn hy vọng mê ly, cũng nhoẻn miệng cười theo,

hoang vu một cách. Một trận phiêu bồng mỉm miệng đ~ lan tràn lung trạo

khắp mặt cô b|c đương hiện diện b{ con. Đại úy khẽ dịu dàng kéo lùi chai

yểu điệu, làn mắt anh chàng chợt trở cơn ra trò tuyệt vọng, một trận hú tìm

lất l}y thơ dại đ~ động tình mở cõi ra phơi, tịch mịch khinh khiêu, im lìm vũ

lộng, chập chờn trong xiết bao làn khói thuốc vươn lên, trong mòn hao vợi

t{n đêm trắng lậu, trong hình ảnh sắp đi về trấu lặng lẽ của chiến trận ngày

mai, ấy đó l{ mơ? Ấy chiêm bao là mộng.

Và chúng tôi chịu chơi trong cuộc, khép kín cõi mình rất ấm trong cái

hầm tàu phiêu dạt đương trôi, trong khi ngo{i kia hốt tung, hốt hấng, những

tiếng nổ ròn gia bội như cơn sóng từng đợt điệp trùng vỗ trên mặt biển khơi.

Những người kia chốc nữa sẽ trút sạch làu làu những mồ hôi hiện đại,

những tơ tưởng bồ đ{o cô-nhắc trì diên, những nhơ bẩn b|m đầy thân

trong chờ đợi, giữa những cơn nước hòa hoa đổ quán của canh trường

chiến trận đêm th}u. Tôi cảm thấy họ tới sát mép bờ của thuần thanh thánh

thiết. Nhưng còn một khắc nào chậm rãi, thì cứ ở lại nấn ná thong dong

nhảy cỡn cho kéo dài tới đ}u cơn nhảy thì tới đó nhảy cơn c|i vũ khúc mê ly

của g~ say tình rượu, trút bình nốc chén, thù tạc chiêu đăm. V{ đuổi theo

cho tới chỗ kiệt cùng của đuổi theo, cái cuộc cờ kỳ tuyệt trên vạn lý biển

dâu. Họ kéo d{i ra c|i cơn sống cuộc đời nhứt thì thiên tải, được chút nào có

thể, thì được chút đó thể hiện ra. Nhưng họ đ~ lên gi}y c|i đồng hồ đ|nh

hiệu nó ngự tròn trên một cái giá kệ chơi vơi. Đồng hồ sẽ điểm chuông. Thì

bọn người kia sẽ đứng lên, vươn mình, nai nịt. Đại úy sẽ vớ khẩu súng lục

trúc mai ái giắt v{o mình. Rượu hết men rồi. Tỉnh táo chứ. Ch{ng rượu dứt

áo với thiếp men. Và mọi người sẽ chậm rãi nối đuôi nhau theo con đường

du lang lài lài giôn lên thong dong ghé lại như dặn dò rất mực với một mảnh

xanh ngần hình chữ nhật hương lừng chị nguyệt bích liên thiên. Họ sẽ nói

v{i c|i đơn sơ như: “Tấn công cà gật… Chiến địa chết bằm… Tiền tuyến toi

đ}m…” hoặc “C|i rét chịu chơi… Gió sầu tay tổ”. Rồi các cha nội sẽ phóng ầm

ra xông tới.

Đến giờ, tôi chứng kiến cơn tỉnh giấc của viên đội. Anh nằm ngủ duỗi

dài trên một chiếc giường sắt, giữa những đống vôi gạch đổ nát trong một

xó căn hầm. Tôi nhìn anh nằm ngủ. Tôi tưởng mình cũng có biết c|i hương

vị của giấc ngủ kia không khắc khoải không hoang mang, nhưng bình yên

hạnh phúc làm sao! Nó xui tôi nhớ lại c|i ng{y đầu tiên trong sa mạc Libye,

Prévot và tôi, mắc nghẽn giữa trời, không nước uống, mắc nghẽn giữa cát

nghe hiểm họa trùng trùng, v{ trước khi cơn kh|t trở nên qu| điêu linh,

chúng tôi vẫn còn có thể ngủ được một lần, chỉ một lần thôi hai giờ thẳng

giấc. Lúc nhắm hai con mắt lại, khởi sự vào giấc ngủ, tôi đ~ có cảm tưởng

mình sử dụng một quyền hành kỳ diệu: quyền khước bỏ thế giới hiện hữu.

Làm chủ một tấm hình h{i chưa lên cơn n|o động, còn để tôi túc mục yên

bình, đối với tôi lúc đó, một phen đ~ vùi đầu trong hai cánh tay rồi, thì

chẳng còn cái gì phân biệt chia xa c|i đêm của tôi với một đêm hạnh phúc.

Cũng vậy, viên đội nằm khoanh tròn mà ngủ, không ra dạng hình

người, và lúc những kẻ vào gọi anh dậy đ~ thắp một ngọn nến lên và cắm nó vào một miệng chai, thì thoạt tiên tôi chẳng biện biệt được cái gì ra cái gì

đương nhô lên khỏi c|i đống lù lù vô dạng, trừ ra đôi gi{y lính. Đôi gi{y thật

bự, có đóng đinh, bọc sắt, đôi gi{y của người lao công hay của người phu

khuân vác ở bến tàu.

Anh chàng n{y mang nơi ch}n những khí cụ làm việc, và tất cả mọi thứ

trên th}n anh cũng to{n l{ khí cụ: bao đạn, súng lục, giây da, nịt lưng. Anh

mang đủ yên cương, gi{m, |ch, đầy đủ các mã cụ của một con ngựa cày bừa.

Tại Maroc, nơi những hầm s}u, ta thường thấy những con ngựa mù kéo cối

xay. Tại đ}y, trong c|i hầm n{y, dưới ánh le lói lắt lay đỏ nhợt nhạt của ngọn

nến, người ta cũng đang đ|nh thức một con ngựa mù để xô nó vào cuộc

phiêu bồng với tiết điệu cối xay.

- Hép! Thầy đội ơi!

Thầy đội rục rịch thong dong, lò gương mặt còn ngái ngủ ra một chút,

miệng lằm bằm chẳng rõ nói chi. Nhưng lại xoay trở v{o tường, không

muốn tỉnh giấc, còn muốn rúc s}u v{o trong đ|y thẳm của giấc ngủ như rúc

vào trong cõi bình an bụng mẹ, như lặn xuống đ|y nước sâu hang, hai nắm

tay loay hoay mở khép như bấu vào một cục rong rêu đen sì đong đưa tròn

xinh đ}u đố ai biết, để ghì thân ở lại đ|y lu}n trầm. Thôi đ{nh phải gỡ ngón

tay chàng ra vậy. Chúng tôi ngồi lên giường anh, một người nhẹ đưa c|nh

tay luồn dưới cổ anh và mỉm cười nâng c|i đầu nặng như thiên lôi nọ. Thật

cũng có bề êm dịu giống như trong ấm áp chuồng ngựa cái cảnh tượng dịu

dàng của đôi lứa ngựa cụng đầu vào cổ nhau cho cọ cọ. “Ê! Anh bạn!”. Trong

đời tôi chưa hề thấy gì th}n |i như thế. Viên đội gắng một lần cuối để trở

vào trong những cơn mộng vui tươi của mình, để từ khước c|i vũ trụ của

chúng ta đầy rẫy những cốt mìn, những mòn hao, những canh dài giá buốt;

nhưng chậm mất rồi. Một c|i gì đương lung trạo bức bách, một c|i gì đi tới

tự bên ngo{i. Như tiếng chuông nhà trường sáng Chủ Nhật chầm chậm đ|nh

thức cậu học trò bị phạt. Cậu đ~ quên hết những bàn ghế, những bảng đen

phấn trắng, những bài chép phạt. Cậu mơ m{ng nghĩ tới những cuộc chơi

ngo{i đồng; luống công. Tiếng chuông dội mãi và nghiêm khốc lôi cậu trở

vào giữa cuộc bất công của nh}n gian, không c|ch gì cưỡng nổi. Cũng tương

tự thế, viên đội dần dà thu nhận trở về cái tấm thân hao mòn nhọc mệt, cái

tấm thân dạn d{y lăn lóc ch|n chường, cái tấm thân mà mình không còn

thiết tới nữa, nhưng biết trút cái của phá gia nọ đi đ}u, c|i tấm thân sắp sửa

phải nếm lại mùi tiền oan, nghiệt chướng trong lạnh lẽo sực tỉnh cơn, những rã rời đốt khớp, những tàn rụng da xương, rồi tới cái khối nặng yên cương

giàm ách, rồi cái cuộc chạy lịch kịch cuồng điên, rồi cái chết. Cái chết cũng

chẳng đến nỗi n{o, nhưng n~o dạ là cái chết oan gia: cái máu tuôn bầy nhầy

đống vũng, c|i mười ngón tay nhúng v{o gượng gạo chống chỏi đứng lên,

cái hổn hển thở từng cơn, c|i gi| buốt chạy khắp ch}u th}n hay bước tự bốn

bề ùa vào vây bọc; cái chết cũng chưa đến nỗi n{o, nhưng còn c|i tồi tàn của

cuộc chết. Nhìn viên đội, tôi tư lự mãi, tôi gẫm lại cái cảnh ảo não của mình

lần kia tỉnh giấc, cái cuộc dồn dập gia tăng của khát, của nắng, của cát, mình

phải đưa th}n ra mang lấy, g|nh v{o, ôi đời, ôi mộng, cái mộng đời tôi

không được phép chọn theo tình tự tôi chiêm bao.

Nhưng anh đ~ đứng lên, nhìn thẳng chúng tôi trong con mắt:

- Tới giờ?

Chính đó l{ lúc con người xuất hiện. Chính tại đ}y l{ chỗ con người

đứng ngoài vòng dự toán của luận lý: viên đội mỉm cười! Thế l{ nghĩa lý gì?

Cám dỗ nào lôi? Du hoặc nào cuốn? Tà dục nào lung trạo suốt tâm linh? Tôi

nhớ lại một đêm Paris. Đêm đó, Mermoz v{ tôi đ~ yến tiệc tạc thù với vài bè

bạn, mừng một chu niên n{o đó chẳng nhớ. Tinh sương tờ mờ, hai đứa còn

ngồi tại qu|n rượu, ch|n chường vô độ vì c|i vô độ của uống, đ~ ăn, đ~ cười,

đ~ nói đến ăm ắp buồn nôn rã rời vô lối. Nhưng trời hửng s|ng, Mermoz đột

ngột chụp lấy cánh tay tôi bóp mạnh đến nỗi nghe cả mấy móng tay anh

bấm v{o. “Anh nhớ chứ, giờ này tại Dakar…”. Giờ này các anh thợ m|y đang

dụi mắt, lột lớp vải bọc chong chóng phi cơ, giờ n{y phi công đi hỏi khí

tượng, giờ này mặt đất chỉ còn đón b{n ch}n nao nức của bạn đồng nghiệp

qua lại dập dìu. Trời ửng hồng rồi, yến tiệc soạn sửa rồi, nhưng cho ai kia,

khăn bàn trải ra rồi cho một lễ hội mà chúng tôi sẽ không làm thực khách

tham dự. Những kẻ kh|c đang liều mình…

“Tại đ}y sao m{ dơ d|ng…”

Mermoz dứt lời.

Còn anh, anh đội, yến hội n{o anh được mời vào tham dự, rất đ|ng

liều thân?

Trước kia, tôi đ~ từng được nghe anh thổ lộ t}m tình. Anh đ~ từng kể

lại chuyện đời anh: một chân kế to|n lai rai đ}u đó tại Barcelone, tại đ}y

anh đ~ th|ng ng{y biên chép h{ng ng{n con số, và anh không bận tâm nhiều

vì những chia rẽ trong nước anh. Nhưng một thằng bạn anh bỗng tòng

quân, rồi một thằng thứ hai, rồi một thằng thứ ba, và anh bỗng ngạc nhiên

nhận thấy mình đang chịu một cơn biến đổi dị thường: công việc làm bỗng

dần dần thấy tẻ nhạt vô nghĩa. Những vui chơi, những lo nghĩ, những tiện

nghi tủn mủn, thảy thảy biến thành những thứ gì đ}u của một xa xôi quá

v~ng. Nhưng đó chưa phải là cái hệ trọng. Cho tới lúc nghe tin một thằng

bạn chết, tử trận bên Malaga. Thằng bạn cũng chẳng phải là chí thiết chi cho

lắm mà nói tới ý muốn trả thù cho nó. Còn như nói về chính trị, thì đó lại là

thứ chẳng bao giờ anh quan tâm. Thế tuy nhiên, cái tin kia lại phóng tới trên

mình, trên căn số tủn mủn đời mình, mạnh như trận gió biển. Một thằng bạn

nhìn anh sáng nọ:

- Đi chứ ta?

- Đi chứ.

V{ hai đứa đ~ “đi”. Hai đứa “đi chứ ta – đi chứ” đ~ lên đường tới đó, tại

chốn kia.

Và hình ảnh chợt đến để giải thích với tôi cái chân lý mà anh không

tìm được lời để diễn tả, nhưng tính c|ch hiển nhiên của nó đ~ chi phối lòng

anh.

Vào mùa chim di thê, lúc những bầy vịt trời từng đợt bay ngang qua

trời rộng, thì chúng gây nên những triều sóng dị thường tại những miền đất

ở phía dưới dặm m}y bay. Lũ vịt nh{, ngong ngóng nhìn lên, như dường bị

nhiếp dẫn bởi đường bay lớn rộng của h{ng ngũ vịt trời xếp theo hình tam

giác dìu dặt tiện gió lướt đi, lũ vịt nhà bỗng dang cách sập sè vụng về đạp

nhảy. Tiếng gọi hoang vu đ~ đ|nh thức dậy nơi chúng những tàn tích hoang

vu nào chẳng rõ. Và bỗng dưng trong một phút, lũ vịt nhà biến làm chim di

thê thiên tẩy. Bỗng dưng trong c|i đầu âm u bé bỏng cứng rắn kia, vốn chỉ

ghi lại quẩn quanh những hình ảnh ao con, nước đục, s}u đen, chuồng tối,

thoắt thôi bỗng trào dậy những cơn phiêu bồng thênh thang lục địa, hương

vị những gió dàn trên mặt sóng mênh mông, những địa lý đại dương, những

họa đồ đại hải… Con vật ngu ngơ vẫn không biết rằng cái óc não bé bỏng của mình lại đủ rộng để mang chứa được bao nhiêu là kỳ quan kiều diễm, thế

m{ đột nhiên nó đ~ đập cánh chịu chơi, khinh thường hột thóc, khi dễ con

sâu, và muốn mình phải trở nên vịt trời hoang vu n|o động.

Nhưng tôi nhớ nhiều nhất là mấy con nai sa mạc cũ: tại Juby ngày

trước tôi có nuôi mấy con nai sa mạc, tục gọi l{ linh dương. Bọn chúng tôi

thủa đó, tại xứ xa xôi kia, ai ai cũng có nuôi linh dương tròn trịa đôi mắt.

Chúng tôi nhốt chúng nó trong một căn nh{ bằng dây kẽm đan mắt c|o, để ở

ngoài trời, bởi vì linh dương cần có những ngọn nước của gió động phi

tuyền, và không có giống gì yếu thơ, ng}y dại, mãnh khảnh du dương bằng

linh dương được cả. Bắt về nuôi lúc chúng còn bé, chúng vẫn sống được, và

đưa mõm gặm nhai tại trong b{n tay người đút. Chúng bằng lòng để cho

người vuốt ve, và dụi c|i mõm ướt của chúng vào giữa lòng sũng của bàn

tay chúng ta. V{ ta tưởng chúng đ~ thuần tính, chịu dan díu cư trú với

người, và quen thuộc nết nhau. Ta tưởng đ~ che chở được chúng trước sức

xâm nhập của mối sầu khôn tả, khó hiểu lạ lùng, vốn âm ỷ nung nấu hao

mòn hồn linh dương trong lặng lẽ, v{ đưa chúng nó tới cái chết vô hạn êm

đềm… Nhưng một ngày kia bỗng ta thấy chúng thẫn thờ tỳ cặp sừng bé

bỏng vào tấm lưới kẽm gai, hướng đầu về phía sa mạc. Một sức nam châm

đang hút linh hồn óng ả của linh dương. Chúng không biết rằng chúng trốn

tr|nh con người ta. Chén sữa ta mang lại cho chúng, chúng vẫn tiến đến

uống. Chúng cũng đứng yên đưa hình h{i cho ta vuốt, chúng vẫn dụi mõm

vào lòng bàn tay chúng ta, càng thân ái thiết tha muôn v{n hơn nữa. Nhưng

ta vừa thả lỏng ngón tay buông chúng ra, ta mới nhận thấy rằng sau một lúc

động mình tuyết bạch chúng nhảy tung tăng có chiều như vui, có chiều như

hạnh phúc hân hoan bỗng nhiên chúng bị thu hút trở lại bởi niềm gì khác

đó, v{ quay trở lại bên lưới kẽm gai, tì đầu vào kẽm đan mắt cáo. Và nếu ta

không can thiệp vào nữa, chúng nằm yên tại đó, cũng chẳng gắng phá

chuồng, chẳng chống chọi vì với c|i lưới chắn ngang, chỉ giản dị tỳ cặp sừng

bé bỏng vào đó, cúi cổ thấp ngẩn ngơ, lặng thinh cho tới chết. Phải chăng

mùa yêu đương n|o động, phải chăng tuần ân ái than van, hoặc phải chăng

chỉ là khát vọng thiết tha một cuộc nhảy tung trời khiêu dược cho phí sức

ngất hơi? Linh dương không rõ. Gặng hỏi nàng, nàng chẳng nói cho ta hay.

Hỡi ôi, từ thủa sơ sinh, ngay khi hai con mắt còn chưa mở mi ra, các cô bé

đ~ vội lìa vú mẹ mà lọt sang tay người. Các cô nào có hay có biết một tý gì

đ}u của chất hằng sa mạc, của thói thường tự do, của hương lừng hưng dật,

phong dụ tình trai. Con đực l{ c|i gì, c|c cô không rõ. Nhưng c|c anh, c|c

anh thông thạo hơn nhiều. C|i điều xui các cô trở cơn xao x|c, c|i sự khiến các cô trở chứng kiếm tìm, c|i đó c|c anh biết rõ, và duy chỉ khoảng rộng

tuyết mù là có thể thành tựu giúp các cô thôi. Các cô muốn trở thành linh

dương v{ nhảy múa theo tiết nhịp linh dương. Tốc độ tung bay theo nhịp

nhún nhảy của một trăm ba chục cây số một giờ, dặt dìu, lướt gió, các cô

muốn biết thế nào là trận nhảy thẳng băng trên ho{ng sa trực tuyến, thế

nào là chợt dừng phiêu hốt, thế nào là chợt vút thẳng lên cao, như bất thình

lình tại đ}y, tại đó, những tia lửa hừng đột ngột từ lòng cát vọt lên. S| gì lũ

sài lang rình rập, nếu chân lý của linh dương l{ phải nếm cái vị kinh hoàng,

cái mùi hoảng vía, cái lạc phách xiêu hồn riêng đủ sức xô ép các cô vào cõi

mộng tự vượt qu| mình, để nảy hột tinh anh giữa tuyền oa lộng múa. Sá gì

sư tử kim mao, nếu chân lý của linh dương l{ được quyền nhập v{o cơn

nắng mặt trời để vỡ tan hình hài trong móng nhọn! Bạn nhìn chúng và bạn

nghĩ: { ra thế, c|c cô n{y đương chịu trận tư hương. Tư hương l{ kh|t vọng

quê nào của chân trời gì chẳng biết… Đối tượng của kh|t khao, c|i đó l{

thật, nhưng lại không lời để nói được nó ra.

Còn chúng ta, chúng ta đang thiếu thốn cái gì?

Anh đội ơi, anh tìm ra c|i gì tại đ}y khả dĩ đem lại cho anh cái cảm

tưởng mình không vi bội định mệnh của mình? Có lẽ c|i c|nh tay huynh đệ

n}ng đầu anh lúc anh còn ngái ngủ, mà sẻ chia chung? “Ê! Anh bạn…”. Ái

ngại giùm, là kẻ đứng rẽ riêng mà nhìn ngó. Thế vẫn còn cách biệt. Nhưng

trong tình giao hảo, còn có một độ cao vời hảo hợp, tại đó lòng tri }n, lòng

thương hại, cùng không còn nghĩa nữa. Tại đó người ta hô hấp như một tên

tù được thoát ly cùm xích.

Chúng tôi có biết niềm hảo hợp đó, lúc chúng tôi bay từng đội hai phi

cơ vượt qua miền Rio de Oro thuở đó còn chưa quy thuận. Tôi không một

lần nào nghe thấy kẻ lâm nạn cảm tạ người giải nguy. Thường thường

chúng tôi lại còn chưởi bới nhau chán chê nữa là khác, nhân những cuộc lây

lất nhọc nhằn chuyền các bao thư tín từ phi cơ n{y sang phi cơ kh|c tại các

trạm nghỉ: “Thằng toi đ}m! Đồ chết bằm! Tao mà bị hỏng m|y lúc đó lại tại

m{y, m{y bướng bỉnh như quỷ gặp thiên lôi, cứ điên rồ đòi bay cao hai

nghìn thước cho được, giữa cơn gió thổi ngược chiều! Nếu mày biết thân mà

nghe theo tao bay thấp, thì có phải đ~ tới Port Etienne rồi không! Đồ toi

đ}m!”. V{ đứa kia đ~ liều thân phụng hiến, lại một phen thấy xấu hổ nhận ra

mình làm một cái thứ “toi đ}m” hoặc “lồi hang” chi đó. Nếu nói cảm tạ nhau,

thì cảm tạ thằng kia vì cái vụ gì mới được chứ? Nó cũng có c|i quyền vào sinh ra tử trên cuộc sống của chúng tôi đối với nó. Chúng tôi đều là các cành

nhánh của một thân cây. Mày cứu tao, thì tao rất lấy l{m kiêu h~nh được có

một thằng bạn chịu chơi như m{y!

Anh đội ơi, nó mà ái ngại giùm anh thì còn ra thể thống gì nữa. Mà tại

sao nó phải ái ngại, nó là kẻ sắp trang bị anh đủ đầy để anh đi ra ngo{i kia

chịu chết. Các anh chia nhau một hiểm nguy, c|c anh đảm nhận cuộc liều

th}n đứa n{y vì đứa kh|c. Trong phút gi}y đó, người ta nhận ra cái niềm

hảo hợp kia không cần lời phô diễn nữa. Tôi đ~ hiểu cái cuộc: “đi chứ ta – đi

chứ” của anh. Nếu ở Barcelone anh đ~ nghèo n{n, cô đơn sau buổi làm công

việc, nếu ngay cả tấm th}n anh cũng không nơi lưu trú, thì tại đ}y anh cảm

thấy mình đang th{nh tựu nghiệp mình, mình đang đi v{o cõi của xứ miền

bất tuyệt đại hòa đồng. Anh, con người bị ruồng bỏ, bây giờ anh được đón

nhận bởi tình thương.

Tôi chẳng cần biết là thật hay không, là hợp luận lý hay không, những

cái tiếng văn hóa to lớn của những người làm chính trị, những tiếng đó có lẽ

đ~ gieo mầm rắc mống v{o trong con người anh. Nếu những tiếng đó đ~

lung trạo được anh, v{ đ}m chồi ra được, như những hạt giống đ}m được

chồi ra, thì ấy bởi l{ chúng đ~ đ|p ứng được khát vọng của anh. Riêng anh là

quan tòa xét đo|n. Riêng đất đai nhận ra được hạt lúa của mình.

3

Liên kết các anh em bởi một mục đích chung nằm ngoài vòng chúng

ta, chỉ khi đó chúng ta mới đề huề hô hấp, và kinh nghiệm cho ta thấy rằng

yêu thương không phải là nhìn qua ngó lại nhau, mà ấy là cùng nhìn ngó

chung về một hướng. Chỉ thật là bạn hữu lúc cùng liên kết trong một đoạn

d}y leo núi, hướng lên một chóp, tại đó bồ bịch lại trùng phùng. Nếu không

thì tại sao ngay giữa thế kỷ tiện nghi an lạc này, chúng ta lại cảm thấy một

niềm vui viên m~n đến thế, lúc chia nhau những thức ăn cuối cùng trong sa

mạc? Trước sự vụ đó, những dự tính của những nhà xã hội học còn có nghĩa

lý chi? Đối với tất cả những ai trong chúng tôi đ~ từng biết niềm vui tót vời

của những lần cứu nạn trong Sahara, mọi khoái lạc đều tủn mủn tầm phào.

Có lẽ vì vậy mà thế giới ng{y nay đang khởi sự rạn vỡ quanh ta. Ai

cũng động cơn say cuồng vì những tôn gi|o đang hứa hẹn với họ niềm vui

túc mục tròn đầy kia. Tất cả chúng ta, bằng những tiếng mâu thuẫn nhau lốp đốp, chúng ta cùng phô diễn những kiền tình, hưng phấn giống nhau. Chúng

ta chia rẽ nhau trên bình diện những phương s|ch, chúng l{ kết quả của

những luận lý, chúng ta không chia rẽ nhau vì mục đích: mục đích giống

nhau.

Từ đó, ta đừng nên kinh ngạc. Kẻ nào không hay biết gì cả về cõi bí

nhiệm tiềm ẩn trong mình, nhưng chợt một lần cảm thấy nó trở cơn thức

giấc trong một căn nh{ hầm của những người chủ trương vô chính phủ tại

Barcelone, nhân vì chứng giám và tham dự những hy sinh, tương th}n

tương trợ, những hình ảnh nghiêm mật của công chính, kẻ đó suốt đời sẽ

biết riêng một chân lý: chân lý của người vô chính phủ. Và kẻ nào có lần đ~

mang thân canh gác bảo vệ một đo{n thể nữ tu bé bỏng quỳ gối kinh hoàng

trong những tu viện Tây Ban Nha, kẻ đó sẽ nguyện suốt đời liều thân cho

giáo hội.

Lúc Mermoz phóng phi cơ tới triền núi Andes thuộc địa phận Chili,

mang niềm tin thắng cuộc trong lòng, nếu ta bảo anh rằng anh lầm to, rằng

một l| thư của một người buôn bán có lẽ không đ|ng để anh liều th}n như

thế, thì Mermoz ắt hẳn đ~ cười anh. Chân lý, ấy l{ c|i con người đang nảy nở

ở trong anh, lúc anh vượt dãy Andes.

Nếu anh muốn chứng minh cho thấy thảm khốc ghê tởm của chiến

tranh, với một kẻ không từ chối chiến tranh, anh đừng coi họ là dã man, tìm

hiểu họ trước khi phê phán họ.

Ta thử gẫm chuyện vị sĩ quan chỉ huy một đồn binh tiền tuyến trong

buổi chiến tranh tại Rif, đồn binh đó nằm ép giữa hai ngọn núi địch. Một

đêm nọ, ông đón tiếp ph|i đo{n thương thuyết từ dãy núi phía Tây xuống.

Đang uống trà với nhau thì súng nổ. Qu}n địch d~y núi phía Đông tới đ|nh

đồn. Vị chỉ huy muốn xua các vị quân sứ ph|i đo{n thương thuyết đi, để

rảnh tay ra trận, thì các vị n{y đ|p: “Chúng tôi l{ kh|ch của ngài tối nay,

Thượng Đế không cho phép chúng tôi bỏ ng{i…”. Thế là họ nhập vào hàng

ngũ thuộc hạ của ông, giải tho|t đồn ông, rồi leo trở về sào huyệt chơi vơi

như tổ ó đầu non của họ.

Rồi tới lượt họ soạn sửa tấn công. Trước một ngày, họ phái sứ giả tới:

- Tối hôm trước, chúng tôi có giúp ng{i…

- Chính thế.

- Chúng tôi đ~ bắn ba trăm viên đạn…

- Chính thế.

- Phát hoàn số đạn ấy lại chúng tôi, là phải lẽ.

Vị đại úy, vốn người hào hoa quân tử, không thể lợi dụng c|i chút ưu

thế trong cuộc chơi, nó có được là do lòng quân tử hào hoa của phía địch.

Ông hoàn lại họ những viên đạn ngày mai họ sẽ dùng để đ|nh ông.

Ch}n lý đối với con người, l{ c|i gì l{m con người thành một con

người. Khi một kẻ nọ vốn biết giữ gìn phong thể trung chính trong giao tế,

trung thực đ{ng ho{ng trong cuộc chơi, trung tín trong quý chuộng nhau

can tràng tâm phúc “một lời đ~ biết đến ta”, khi kẻ đó gẫm tới cái cõi cao

thượng trong bầu không khí mình được “phép” hoạt du, và gẫm ra cái miền

lai rai tử tế của kẻ gian dối mỵ dân nếu gặp dịp thì ắt cũng đ~ tỏ tình tương

giao huynh đệ với cũng chính mấy ông Ả Rập này bằng những vỗ vai bá cổ,

cũng ắt đ~ nịnh nọt họ v{ đồng thời làm nhục nhã họ (toujours

amicalement, bien entendu!), kẻ ấy nếu gặp ta, nghe ta bảo rằng chàng vị tất

đ~ h{nh động đúng đường khôn ngoan khôn khéo, thì hẳn y chỉ chào ta

bằng một niềm thương hại pha chút khinh bỉ. V{ chính ch{ng ta có lý đó.

Nhưng m{ anh cũng sẽ có lý như thường, nếu anh ghét chiến tranh.

Muốn hiểu con người và những như cầu của nó, muốn biết nó trong

phần cốt thiết, thì chẳng nên đem những chân lý hiển nhiên của ta ra mà

cho chúng chọi nhau lại qua lốp đốp. Vâng, các anh có lý. Tất cả c|c anh đều

luôn luôn có lý. Luận lý minh giải được mọi sự. Cái anh chàng nọ cũng cứ có

ý luôn, c|i anh ch{ng đem trút lên đầu những g~ lưng gù tất cả những hoạn

nạn thống khổ trần gian. Nếu chúng ta một mai mở cuộc chiến tranh chống

bọn lưng gù, thì chúng ta cũng sẽ mau hăm hở nhiệt thành lắm đó. Chúng ta

sẽ trả thù tội ác của bọn gù lưng. V{ quả thật bọn gù lưng cũng l{m nên tội

ác của lưng gù.

Muốn thử giải khai cái phần cốt yếu nọ, cần phải tạm quên những mối

chia rẽ trong chốc lát, những mối chia rẽ bất hòa, một khi đ~ chấp nhận, sẽ

lôi theo cả một quyển Kinh Thánh thiêng liêng chứa những chân lý cứng

đen như đ| không bao giờ nhúc nhích, không bao giờ rục rịch, và mở đường

cho tinh thần cuồng tín… kể từ… tự đó… m{ ra… Người ta có thể chia thiên

hạ ra làm hai loại người, người phía hữu v{ người phía tả, người gù lưng v{

người không lưng gù, người ph|t xít v{ người dân chủ, và hỡi ôi, những

phân biệt chia xa kia đố ai m{ kích b|c cho được. Nhưng, bạn cũng biết đó,

chân lý là cái gì dung-dị-hóa cảnh đời, chớ đ}u phải là cái gì tạo lập cõi hỗn

độn nh{ ma. Ch}n lý, đó l{ c|i ngôn ngữ giải khai phơi mở cái phổ cập hòa

đồng. Newton không có “ph|t minh” một định luật ẩn giấu lâu ngày theo

c|ch điệu một lời giả ngữ mê, ngôn ẩn. Newton đ~ thực hiện một công trình

sáng tạo. Ông đ~ thiết lập một thứ ngôn ngữ trần gian khả dĩ đồng thời diễn

tả sự rụng rơi của một quả táo trên hai hàng cỏ mọc bờ đồng, hoặc sự vụ

mặt trời đỏ đăng thiên. Ch}n lý, không phải là cái gì có thể minh giải, chân lý

là cái gì giản dị hóa cho mê cung.

Ích gì đ}u việc bàn luận về những lý thuyết, những quan niệm luận,

những ý thức hệ? Nếu tất cả chúng đều có thể chứng minh, thì tất cả chúng

cũng chọi nhau thảy thảy, và những luận bàn kia chỉ gây tuyệt vọng cho sự

giải cứu con người. Trong khi đó thì con người, khắp nơi, quanh ta, vẫn bày

tỏ những nhu cầu giống nhau như hệt.

Chúng ta muốn được giải thoát. Kẻ đ{o một nhát cuốc muốn biết nhát

cuốc có một ý nghĩa n{o. V{ nh|t cuốc của kẻ tội đồ, đương l{m nhục nhã tội

đồ, không giống nhát cuốc của người khai mỏ, đang l{m lớn rộng tinh thần

người khai mỏ. Ngục tù áp bức không nằm trong cái việc đ{o nh|t cuốc. Lao

lực không có gì đ|ng tởm, vật chất không có gì đ|ng ghê. Ao tù thống khổ

nằm tại nơi: đ{o một nhát cuốc mà chẳng thấy ý nghĩa của nhát cuốc, những

nhát cuốc không kết liền kẻ đ{o đất vào với đo{n thể lo{i người.

Và chúng ta muốn thoát ra khỏi ao tù.

Tại Âu Ch}u có hai trăm triệu người sống dở chết dở, vì không thấy ý

nghĩa đời mình ở đ}u, v{ họ mong nảy nở. Kỹ nghệ đ~ lôi rứt họ lìa ra khỏi

ngôn ngữ truyền thống điền dã, phỉ phong thuần hức, và nhốt kín họ vào

trong những xóm “thương mại bình khang khổng lồ” giống như những nhà

ga lựa t{u, đầy rẫy ngổn ngang những d~y toa đen đủi như than. Từ đ|y thẳm những phường xóm thợ thuyền, họ muốn được thức giấc.

Cũng có kẻ, mắc nghẽn trong guồng máy xô bồ nghiệp nghề đủ lối, họ

không còn hưởng được những niềm vui của kẻ tiên khu khai khẩn, những

niềm vui tôn giáo, những niềm vui của người bác học. Người ta tưởng,

muốn n}ng cao đời sống của họ, chỉ cần ban áo quần, cấp lương thực, đ|p

ứng lại những nhu cầu của họ. V{ người ta đ~ dần dà gây dựng cho họ nên

anh chàng tiểu tư sản lai rai, hoặc anh làm chính trị thôn làng, hoặc tay

chuyên môn không có đời sống nội t}m. Người ta cho họ học tập đủ đầy,

nhưng người ta không bồi dưỡng, hàm dục họ. Cái kẻ tưởng rằng văn hóa l{

miệt mài nhớ nhiều công thức, kẻ đó quan niệm văn hóa một cách thật là

ngậm ngùi thiểu não. Một cậu học sinh hạng bét tại trường chuyên nghiệp

cũng biết về thiên nhiên và những định luật của thiên nhiên nhiều hơn

Descartes v{ Pascal. Nhưng ch{ng ta l{m sao có được cái khả năng vận dụng

tinh thần như những con người đó?

Tất cả mọi người cùng âm thầm cảm thấy nhu cầu được nảy nở.

Nhưng có những giải ph|p đ|nh lừa. Cho con người vận binh phục nhất tề

vào thân, chắc là có thể l{m cho y hăm hở nao nức. Y sẽ hát to những bản

quân ca, và cùng bạn đồng đội bẻ b|nh đề huề chia nhau ăn rộn rịp. Y sẽ tìm

ra c|i điều y kiếm, l{ c|i hương vị hòa đồng đại thể. Nhưng từ cái miếng

bánh cung cấp cho y, y sẽ ra sao nữa? Y sẽ chết.

Người ta có thể đ{o bới trở ra những ngẫu tượng tà ma, và làm sống

trở dậy những thần thoại hồ đồ hay hữu lý, ta có thể làm sống trở dậy

những huyền thoại lung lạc như Liên Đức lý thuyết, Đại Nhật Nhi Man chủ

nghĩa, hoặc La M~ Đế Quốc chủ nghĩa. Người ta có thể làm ngất ngây dân

Đức bằng cái men ngây ngất được l{ người Đức phiêu bồng, v{ l{ đồng bào

của Beethoven –Tố-Như-Tử, v{ đồng quận của Nietzsche – Liệp-Hộ-Hồng-

Sơn. Người ta có thể l{m say sưa tót vời ngay cả kẻ giữ hầm rượu vốn đ~

tuyệt diệu say sưa. V{ quả thật điều đó dễ l{m hơn l{ g}y dựng nên một

Beethoven ở trong con người coi kho rượu.

Nhưng những ngẫu tượng kia là những tà ma khát máu. Những ma cà

rồng vốn thuộc lo{i ăn thịt. Kẻ chịu chết vì cuộc tiến bộ của trí năng kiến

thức, chịu chết vì lo chữa bệnh tật, kẻ đó phụng sự đời sống lúc chịu chết đi.

Chết để b{nh trướng đất đai, mở rộng bờ cõi, có lẽ cũng l{ việc đẹp lắm,

nhưng chiến tranh ngày nay lại tàn phá mất những gì nó tưởng đang bồi dưỡng. Ngày nay, chiến tranh không còn là vấn đề chịu hy sinh một ít máu

để hồi sinh một giống nòi. Chiến tranh, từ c|i ng{y nó được trị liệu, được

giải quyết bằng phi cơ v{ bom đạn chất độc, chiến tranh chỉ là chuyện đổ

máu điêu t{n. Mỗi bên nấp sau một bức tường xi măng, mỗi bên, không làm

gì hơn được, thì chỉ còn biết đêm đêm đưa c|c phi đội len vào trong nội địa

của địch mà dội bom ở giữa ruột r{ địch, cho tan hoang tim phổi địch, tại

trung tâm sinh hoạt của địch, làm tê cóng sản xuất v{ thương mại của địch.

Bên n{o tan n|t sau, thì bên đó thắng. V{ đôi bên tha hồ mà mục nát song

song.

Trong một thế giới biến thành sa mạc, chúng ta khao khát tìm lại bạn

hữu: vị bánh mì bẻ chia nhau giữa bạn bè đồng đội đ~ xui chúng tôi chấp

nhận những giá trị của chiến tranh. Nhưng chúng tôi không cần chiến tranh

mới tìm thấy hơi ấm của những chen vai thích cánh trong cuộc chạy đua về

chung một đích. Chiến tranh lừa gạt chúng tôi rồi. Lòng căm thù không thêm

gì vào niềm hưng phấn trong cuộc.

Tại sao căm hờn nhau? Chúng ta liên đới nhau, cùng phiêu dạt trên

một quả hành tinh, cùng là thủy thủ trên một con tàu trên mặt biển. Những

nền minh chọi nhau, nếu đ~ l{m thuận lợi thiếp thiết cho những tổng hợp

mới, thì đó l{ điều rất tốt, nhưng nếu để điển diệt nhau thì thật là tàn khốc.

Muốn giải thoát chúng ta, chỉ cần giúp nhau ý thức được một mục đích

chung nó kết nối mọi người lại, thì hợp nhẽ nhất là nên tìm mục đích đó tại

nơi n{o nó đo{n kết tất cả chúng ta. Nhà giải phẫu đi thăm bệnh nhân,

không có lắng tai nghe những lời than thở của bệnh nh}n: qua người bệnh

nọ, ông ta tìm chữa chạy cho chính Con Người. Nhà giải phẫu nói một ngôn

ngữ chung. Cũng vậy, nhà lý học khi ông nghiền ngẫm những phương trình

huyền diệu nhờ đó ông lĩnh hội được cùng một lúc cả nguyên tử và cả giải

tinh v}n. Cho đến anh mục tử đơn sơ, cũng vậy nữa. Vì cái kẻ âm thầm coi

sóc vài con cừu dưới ánh sao, nếu anh ta ý thức được vai trò của mình, sẽ

nhận thấy mình không chỉ là một tên đ{y tớ. Mà một tuần binh, một người

lính canh, một trường sở trụ. Mà mỗi lính canh đều mang trách nhiệm cho

toàn quốc.

Anh tưởng rằng kẻ mục tử kia không mong giác ngộ? Tại chiến tuyến

Madrid, tôi từng có viếng một nh{ trường dựng lên cách các chiến h{o năm

trăm thước, phía sau một bờ tường đ| nhỏ, trên một ngọn đồi. Một thầy cai dạy thực vật học tại đó. Thầy cầm một đóa mỹ nhân thảo, thầy tách rời từng

bộ phận mỏng manh của đóa hoa, thầy “thu hút” tới bao nhiêu người râu ria

vượt từ các vùng bùn lầy lân cận, lũ lượt kéo tới như đo{n h{nh hương,

không kể gì lửa đạn. Họ ngồi xếp bằng xung quanh thầy cai, chống cằm trên

tay, chăm chú lắng nghe thầy giảng. Họ nhíu mày, cắn chặt h{m răng lại, họ

không hiểu gì mấy tí, nhưng người ta đ~ bảo họ: “C|c ông l{ những kẻ man

rợ như lồi hang, chưa tho|t hẳn cuộc sống toi đ}m ăn lông ở lỗ, phải gắng

tiến cho kịp nhân loại chớ!” v{ họ vội vã lịch kịch kéo bước tiến lên cho kịp.

Lúc ta ý thức được vai trò của ta, dù vai trò mờ nhạt mấy đi nữa, thì

khi đó ta mới thấy hạnh phúc. Chỉ khi đó ta mới sống yên bình và chết yên

bình, bởi vì c|i gì đem lại một ý nghĩa cho cuộc sống cũng đem lại một ý

nghĩa cho c|i chết.

Cái chết êm dịu xiết bao nếu nó nằm trong vòng tuần hoàn ổn định của

mọi sự, lúc một nông dân miền Provence đi tới chung cục đời mình, đem ký

thác cho con mình thừa kế cái tài sản gồm những con dê cái, và những cây ô

liu, để mai sau tới lượt chúng sẽ giao phó lại cho cháu họ. Trong dòng dõi

điền d~, con người ta chỉ chết một nửa đời mà thôi. Mỗi đời sống cứ theo

nhau lần lượt mà rạn nứt như một quả đậu khô nứt vỏ, để cái hạt nó nẩy ra

con người ta đón nhận.

Một lần, tôi có dịp đứng cạnh ba người nông d}n trước giường mẹ họ

lúc bà lâm chung. Vâng, cảnh tượng thật l{ đau đớn. Lần thứ nhì, cuống rốn

đứt ngang. Lần thứ nhì, một cái gút sổ tung: cái gút nối kết thế hệ trước với

thế hệ sau. Ba đứa con thấy mình lẻ loi, còn phải học hỏi một trăm điều,

thiếu mất một b{n ăn để quây quần ngày giỗ, thiếu mất một từ - cực quy tụ

tình thương. Nhưng trong lần tử biệt đó, tôi cũng nhận thấy rằng đời sống

có thể được ban cấp một lần thứ hai. Những người con ấy, tới lượt họ, họ

cũng l{m kẻ đầu đ{n, t}m điểm cho sự tập trung đo{n kết, họ thành tộc

trưởng, cho tới giờ họ sẽ trao quyền điều khiển lại cho lứa đầu thơ dại hiện

đang chơi đùa ngo{i s}n.

Tôi nhìn người mẹ, người đ{n bà nhà quê già nua với khuôn mặt yên

bình và nghiêm khắc, môi cắn chặt, cái khuôn mặt biến th{nh đ| lạnh. Và tôi

nhận ra khuôn mặt những người con trong đó. Khuôn mặt bà mẹ đ~ nắn đúc

khuôn mặt con. Tấm thân bà mẹ đ~ đúc th}n thể những người con tráng

kiện. Và bây giờ, bà nằm yên tan n|t, nhưng giống hệt một tr|i khô đ~ trao hạt cho đời. Tới lượt con cái bà sẽ đúc nên những tấm th}n con người khác,

bằng xương m|u mình. Tại nông thôn, người ta không chết. Bà mẹ chết rồi,

bà mẹ sống muôn năm.

Đoạn trường, vâng, nhưng giản dị xiết bao là hình ảnh đó của giây

dòng dõi trường tại, lần lượt trút bỏ dọc đường những vỏ khô tóc bạc da

mồi, mà thẳng bước tới một chân lý u huyền nào, qua bao bận thay hình đổi

dạng.

Vì thế cho nên, cũng trong đêm đó, tiếng chuông chiêu hồn tại thôn

bản nọ vẳng nghe như chất chứa những gì không phải tuyệt vọng đau

thương, m{ dạt dào một niềm hân hoan ẩn kín dịu dàng. Tiếng chuông tiễn

đưa người chết, tiếng chuông đón tiếp lễ rửa tội người còn, cũng vang một

giọng, và tối nay lại vang lên báo hiệu giờ nối tiếp của hai thế hệ giao nhau.

V{ người ta cảm thấy một niềm thanh thản bàng bạc khi nghe tiếng chuông

mừng một b{ l~o đi về trong lòng đất yên vui.

Cái gì chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác, chậm r~i như sự tiến

triển của một thân cây? Ấy là cuộc sống m{ cũng l{ ý thức tâm linh. Một tiến

triển thăng cao huyền bí! Từ một phún thạch hỏa sơn nung nấu, từ một chất

dẻo tinh tú, từ một tế b{o sinh động huyền diệu nảy mầm, chúng ta thoát

thai và dần dà, tiến triển tuyệt vời cho tới lúc viết những bản dao ca, v{ ước

lượng những giải ngân hà.

Bà mẹ không những chỉ truyền cuộc sống cho con: bà mẹ còn dạy cho

con học một ngôn ngữ, ký thác cho con gói hành tranh thu nhặt bao ngày

trải qua bao thế kỷ, cái kho di sản tinh thần m{ b{ đ~ đón nhận, gồm những

truyền thống, những khái niệm, những truyền kỳ, tất cả những gì làm nên

sự chia biệt giữa Newton, Shakespeare v{ con người thái cổ ở trong hang

tối.

C|i điều ta cảm thấy lúc ta đói, c|i cơn đói của khát vọng đ~ giục

những người lính Tây Ban Nha lướt qua lửa đạn mà học bài thực vật, cái

cơn đói đ~ xui Mermoz bay qua Nam Đại T}y Dương, hoặc khiến kẻ nọ tới

gạ gẫm với n{ng thơ, c|i điều ta cảm thấy đó l{: cuộc phôi dựng chưa ho{n

tất, và chúng ta còn phải ý thức về mình và về vũ trụ. Chúng ta phải bắc cầu

gieo nhịp trong đêm tăm. Những kẻ không biết tới điều đó, l{ riêng những

kẻ thờ ơ vị kỷ mà làm nề nếp cho lối sống họ tưởng là khôn ngoan, là minh trí. Nhưng khôn ngoan đó l{ khôn vặt. Thảy thảy trong đời đều chối bỏ cái

loại khôn kia. Ô, những bạn hữu, những bạn hữu thân mến của tôi, xin các

anh làm chứng giúp: chúng ta thật sự cảm thấy sung sướng là những lúc

nào?

4

Và tới đ}y, tại trang cuối cuốn sách này, tôi nhớ lại những công chức

gi{ đ~ “th|p tùng” tôi, buổi bình minh chuyến thư đầu tiên nọ, thuở may

mắn được chọn đi, chúng tôi soạn sửa lột x|c để nên người. Họ vẫn rất

giống chúng tôi, nhưng lại không biết rằng mình đói.

Quá nhiều l{ c|i đ|m người mà thiên hạ để ngủ yên.

C|ch đ}y mấy năm, nh}n một chuyến viễn du bằng xe lửa, tôi có ý

muốn viếng c|i quê hương đang chạy trên đường rầy, trong đó tôi giam

mình ba ngày, chịu đựng ba ngày cái tiếng sào sạo bên tai. Tôi đứng dậy. Tôi

đi dọc suốt con t{u đêm, từ đầu tới cuối, khoảng một giờ khuya. Những toa

giường ngủ, trống vắng cả. Những toa hạng nhất cũng trống vắng.

Nhưng những toa hạng ba thì chứa ngổn ngang h{ng trăm thợ thuyền

Ba Lan mất việc làm tại đất Pháp phải tìm về quê hương. Tôi dọc theo hành

lanh tiến lên, bước qua thân mình những người nằm ngủ. Tôi dừng lại nhìn.

Đứng dưới những ngọn đèn t{u, nhìn v{o toa chung chạ giống một phòng

ngủ công cộng, nghe nồng hơi đồn binh hoặc cảnh sát cục, tôi thấy cả một

đ|m người hỗn độn nằm ngửa ngang mặc cho tàu tốc hành dồi dập. Cả một

lũ người đắm trong ác mộng, đang quay về cõi khốn cùng. Những cái đầu to

cạo trọc gối bừa bãi trên thành gỗ những băng d{i. Đ{n ông, đ{n b{, con nít,

lăn lộn từ phải sang tr|i, như bị dày vò bởi tiếng xe chạy ì ầm, những rung

chuyển nhồi xóc hăm dạo mãi không nguôi. Họ tìm không ra chỗ yên thân

trong giấc ngủ.

Và tôi thấy dường như họ đ~ mất hết nửa tính chất con người, bị xô

đẩy trôi dạt từ đầu này tới cuối nọ châu Âu bởi những cuồng lưu kinh tế, bị

đ|nh bật ra khỏi căn nh{ phương Bắc, ra khỏi khu vườn bé bỏng với ba

chậu phong lữ thảo m{ ng{y xưa tôi đ~ từng có dịp ngắm xem tại khung cửa

sổ những nhà thợ mỏ Ba Lan. Họ chỉ gom góp mang theo những đồ dùng

bếp núc, những chăn m{n, gói trong những cái bọc cột bó lôi thôi luộm thuộm. Còn những gì họ đ~ ve vuốt thân yêu, những gì họ đ~ nuôi dưỡng

thuần thục, chăm sóc }n cần suốt bốn năm hay năm năm lưu trú tại đất

Pháp, con mèo, con chó và chậu phong lữ thảo, họ đ{nh phải hy sinh bỏ lại,

chỉ mang theo những nồi niêu nấu nướng.

Một đứa bé ôm vú mẹ m{ bú, người mẹ mỏi mệt qu|, trông như

đương ngủ. Cuộc sống đang chuyền nhau trong hỗn độn thê thảm của

chuyến đi kia. Tôi nhìn người cha. Một cái sọ trơn trụi nặng nề như một hòn

đ|. Một thân thể gập lại trong giấc ngủ nham nhở, bọc trong lớp áo quần lao

động, lồi lõm nhấp nhô. Con người anh giống như một khối đất sét. Là thế

đó, trong đêm tăm, những vật lênh đênh trôi dạt tấp bừa tại đ}y, không ra

cái hình thù gì cả. V{ tôi nghĩ: vấn đề không nằm trong hoàn cảnh khốn cùng

nọ, trong dơ bẩn nọ, trong xấu xí hỗn độn nọ. Nhưng chính người đ{n ông

đó, chính người đ{n b{ đó, một ng{y xưa ngẫu nhĩ gặp nhau, v{ người đ{n

ông chắc đ~ mỉm cười nhìn người đ{n b{: sau buổi làm việc, chắc hẳn anh ta

có mang hoa tới tặng nàng. Nhút nhát vụng về, có lẽ anh đ~ run như cầy sấy

vì sợ bị từ khước. Nhưng người đ{n b{, vốn bản chất tự nhiên l{ đong đưa

l{m đỏm, người đ{n b{ tin chắc ở cái duyên hấp dẫn của mình, có lẽ n{ng đ~

thích đùa rỡn để ch{ng đ}m lo cưới. Và anh chàng ngày nay chỉ còn là cái

m|y để cuốc đất, để đập đe bửa củi, anh chàng ấy xưa kia đ~ từng biết rung

động bàng hoàng trong mối khắc khoải êm dịu làm sao. Chỗ huyền bí, là

những kẻ đó đ~ biến thành những đống đất sét nọ. Họ đ~ chịu qua cái khuôn

đúc |c nghiệt n{o, như một thứ m|y d|t, đ~ tạc ra hình thù oan uổng thế

này? Một con vật già, còn giữ c|i duyên gi{ lưu lại cho cái duyên trẻ. Thì tại

sao cái chất đất thó tốt đẹp của con người lại chịu hủy hoại như điêu đứng

thế kia?

Tôi tiếp tục đi tuần du giữa c|i đ|m người ngủ hắt hiu thấp thỏm nọ,

như n~o nùng l{ chốn… Một tiếng ồn mơ hồ thoang thoảng gồm những

giọng ngáy ồ ồ, những than thở âm u, những tiếng giày thô cọ vào gỗ, của

những kẻ thân xác rã một bên, trằn trọc tìm lăn sang bên kh|c. V{ m~i m~i

vẫn âm thầm gõ nhịp là cái tiếng động liên miên ì ầm của con t{u nghe như

tiếng sỏi bị sóng vỗ bật trên bãi biển.

Tôi ngồi đối diện với một cặp vợ chồng. Giữa người cha v{ người mẹ,

đứa con thu hình chen ở giữa mà ngủ. Trong giấc ngủ, nó trở mình, và

gương mặt nó hiện ra dưới bóng đèn. A! Một gương mặt thật đ|ng yêu. Cặp

vợ chồng kia đ~ đẻ ra một thứ tr|i tươi óng ả. Từ những khối luộm thuộm nặng nề r|ch rưới kia, đ~ nảy ra một thành tựu viên mãn duyên dáng yêu

kiều. Tôi nghiêng mình nhìn vầng tr|n trơn tru, c|i miệng phụng phịu núng

nính, tôi tự nhủ: đ}y l{ khuôn mặt nhạc sĩ, đ}y l{ Mozart lúc nhỏ, đ}y l{ một

hứa hẹn đẹp đẽ của đời sống. Những hoàng tử thơ dại trong những câu

chuyện thần tiên, cũng vậy mà thôi: Nếu được che chở, nâng niu, bồi dưỡng,

nó sẽ th{nh đạt vô chừng! Khi trong vườn có một đóa hồng nở do nhiều

giống ghép thành, một đóa thanh t}n, thôi thì c|c b|c l{m vườn thi nhau

trầm trồ không ngớt tiếng. Người ta để riêng nó ra, người ta chăm sóc, hậu

đ~i. Nhưng không có kẻ l{m vườn chăm sóc cho con người ta. Chú Mozart

bé n{y cũng như bao đứa bé khác, sẽ không thoát khỏi cái máy dát gọt.

Mozart sẽ tìm thấy những khoái cảm tuyệt vời trong thứ âm nhạc thối tha:

giữa xú khí những h{ng c{ phê khiêu vũ, Mozart bị lên án mất rồi.

Tôi quay trở về toa mình. Tôi tự nhủ: những người kia không hề đau

đớn với thân phận họ. V{ đ}y không phải lòng b|c |i đang xui tôi bứt rứt.

Đ}y không phải việc lân mẫn xót xa trên một vết thương thiên thu còn chảy

máu trở lại. Những kẻ mang vết thương kia không hề cảm thấy mình bị

thương. Bị tổn thương, bị xúc phạm tại đ}y, dường như l{ to{n thể nhân

loại, chứ không phải là một cá nhân. Tôi không tin ở lòng thương hại. Cái xui

tôi bứt rứt l{ quan điểm kẻ l{m vườn. Điều xui tôi bứt rứt không phải là sự

khốn cùng kia, vì con người ta dù sao rồi cũng nằm yên trong đó được như

bọn lười biếng ôm bồng c|i “con lười biếng” m{ nằm yên. Bao nhiêu thế hệ

người Đông Phương sống trong hẩm hiu hiu hắt mà vẫn h{i lòng. Điều xui

tôi bứt rứt, những tổ chức tô cháo bình dân không giải tỏa được. Điều xui

tôi bứt rứt, không phải chuyện đói r|ch lồi lõm đó, không phải cảnh xấu xa

tồi t{n đó. Điều xui tôi bứt rứt là trong mỗi con người kia, có một Mozart bị

giết hại.

Chỉ có Tinh Thần thổi qua đất thó, là có thể tạo nên con Người.

[1]

cf. Nguyễn Du:

“Ai ngờ một phút tan tành thịt xương”

Biển mây vùng vẫy ngang tang.

Dẫn mình đi bỏ suối v{ng như không.

[2]

André Malraux, trong Les Voix du Silence, ở cuối tập, trang 639, có tỏ ý không hài lòng

với câu này. Malraux chắc l{ không đọc cuốn sách Saint-Exupéry, nên lầm nghĩa lời nói; tách

rời khỏi tiết mạch câu chuyện dị thường, lời nói cô lập chơ vơ, mất hết chân trời viễn vọng.

Một kẻ vào sinh ra tử, vừa thoát tay thần chết mở môi nói lời đó lúc nhìn thấy mặt bạn bên

mình, bình diện lập tức ở về phía-bên-kia. Nghĩa l{?

- “Anh Saint-Exupréry, anh thấy đó chứ? Bạn anh đ}y, tôi giỏi hơn con vật “một chút”, anh hài lòng vì thằng

bạn của anh đi. Không bao giờ một con vật làm cái việc tôi đ~ l{m. Vậy mọi con người h~y h}n hoan h{i hòa đi

chứ.” Nếu đẩy sang bình diện lập luận trí thức, ắt là cái tinh thần vừa bi tráng, vừa tươi vui kia sẽ bị tổn thương,

hoặc biến mất.

Camus cũng cuộc sống một lần bác một câu nói của Saint-Exupréry (xem L’Été). Nhưng do một phép lập

ngôn của trường hợp yêu sách. Vốn hoàn toàn chấp thuận nhau, m{ người tư tưởng đôi khi phải giả vờ bác

nhau trước mặt mọi người. Điệu bài bác kia không hề hiểm độc. Trái lại, nó phơi mở những chân trời giúp kẻ

kh|c lên đường tư tưởng nhận định lại phương hướng, phương vị của mình.

[3]

Cước chú

Đến đ}y tôi cảm thấy cần trở lại với cước chú ở trong trang 57. André Malraux viết như thế này:

“Nh}n bản chủ nghĩa, không phải l{ nói: “C|i điều tôi đ~ l{m, không một con vật nào ắt đ~ l{m”; nh}n bản

chủ nghĩa, l{ nói: “Chúng tôi đ~ khước từ cái mà con thú vật trong chúng tôi đ~ muốn, và chúng tôi muốn tìm

thấy trở lại con người ở mọi nơi n{o chúng tôi đ~ tìm thấy những gì ch{ đạp nó”.

Nguyên văn: L’ humanisme, ce n’est pas dire: “Ce que j’ai fait, aucun animal ne l’aurait fait”, c’est dire:

“Nous avons refusé ce que voulait en nous la bête, et nous voulons retrouve l’homme partout où nous avons

tronvé ce qui L’écrase”.

“C|i điều tôi đ~ l{m, không một con vật nào ắt đ~ l{m”, c}u đó, lúc Malraux trích dẫn, ông bỏ bớt vài lời

không cần yếu. Số là Saint-Exupéry viết trong Terre des Hommes thế n{y: “Ce que j’ai fait, je te le jure, jamais

aucune bête ne l’éaurait fait” (trang 51). V{ tới trang 59, ông bỏ bớt chữ “te” (Ce que j’ai fait, je le jure, jamais

aucune bête ne l’aurait fait).

Kể ra, danh từ “nhân bản chủ nghĩa” cũng l{ một danh từ nên tr|nh, vì cũng như tiếng “giá trị”, nó đ~ bị

đầu độc bởi biết bao nhiêu thế kỷ triết học T}y Phương (Xem Martin Heidegger – Lettre sur l’Humanisme).

Nhưng muốn dùng chơi, cũng chẳng sao. Miễn là dùng trong một dòng suy tư xa thẳm hơn về cỗi nguồn.

Tuy nhiên, c|i điều đ|ng tr|ch Malraux nhất là ở chỗ: câu nói của ông đưa ra ho{n to{n đúng – cái mới

chết! – đúng theo tinh thần của chính Saint-Exupéry nữa, nhưng lại không thể đúng với một linh hồn thuần phác

anh-dũng-sơ nguyên như Guillaumet, đương vùng vẫy chống với Tử Thần vì tinh thần trách nhiệm. Và chính

Saint-Exupéry mến phục tuyệt đối người bạn chí thiết của mình, cũng l{ bởi lẽ đó.

Còn Camus? Ông không thuận nghe theo câu nói của Saint-Exupéry? Ông viết theo điệu nào?

… “Je hais mon époque”, écrivait avant sa mort Saint-Exupéry, pour des raisons qui ne sont pas très

éloignées de celles don’t j’ai parlé. Mais, si bouleversant que se soit ce cri, venant de lui qui a aimé les homes dans

ce qui’ils ont d’admirable, nous ne le prendrons pas { notre compte. Quelle tentation, pourtan, { certaines heures, de se détourner de ce monde morne et décharné! Mais cette époque est la nôtre et nous ne pouvons vivre en nous

haissant”.

(L’ÉTÉ – trang 117)

Xin dịch:

… “Tôi thù ghét thời đại tôi”, không bao l}u trước ngày ông chết, Saint-Exupéry đ~ viết thế, vì những lý do

không quá xa biệt với những lý do tôi vừa nói tới. Nhưng, cho dẫu tiếng kêu kia xui cảm kích bàng hoàng thảng

thốt bao nhiêu đi nữa, tiếng kêu vọng tới từ ông ta, là kẻ đ~ yêu thương con người trong những gì đ|ng kính

phục nhất nơi con người, tiếng kêu kia chúng ta vẫn sẽ không nhận về phần mình được. Tuy nhiên, quyến rũ xiết

bao l{, đôi giờ đôi lúc, niềm mong muốn quay mặt lánh xa cái cõi trần u buồn v{ xương xẩu đến cỗi cằn này!

Nhưng thời đại này là thời đại chúng ta và chúng ta không thể sống m{ căm thù, đầy đọa nhau”.

Camus nhìn nhận sự cao nhã hoằng viễn của Saint-Exupéry, nhưng ông phải buộc lòng viết câu cuối – thể

theo một phép lập ngôn mà trạng huống thời đại nọ ở Âu Ch}u đương đòi hỏi thiết tha, sau những cuộc đau đớn

của Saint-Exupéry, của Nietzsche… đ~ đ{nh lòng chịu mang tất cả những nguyền rủa của nhân gian – để cho

trong nh}n gian, con người còn có thể sống trở lại.

Đó chính l{ c|i phần Im-pensé (Ungedachte) trong tác phẩm của nh{ tư tưởng sâu rộng. Đó cũng chính l{

cái chỗ xui nh{ tư tưởng đau lòng: “Il n’est pas une vérité qui ne porte avec elle son amertume”. (Camus): không

một chân lý nào không mang theo với mình niềm cay đắng của nó.

Còn đối với những người lơ đễnh, không bao giờ chịu chậm r~i tư lự, thì chúng ta có thể lý luận theo lối trực

tiếp này – v{ như vậy, đ{nh phải cay đắng làm tổn thương Camus một cách tối ư bất công:

Chẳng hạn, ta thử nói thế n{y: “Ông Camus nghe lộn rồi. Ông bảo: “Nous ne pouvons vivre en haissant”.

Chúng ta không thể căm thù đ{y đọa nhau mà sống được. Nhưng Saint-Exupéry có căm thù ai đ}u. Ông căm thù

cái thời đại ông đ~ xui con người n{y, con người nọ biến thành những sài lang. Mà những thị, phi, đen, trắng đều

bị xô đẩy lộn phèo đi tất cả. Kẻ vô tội phải vào tù. Kẻ giết người lại lên |n người khác sát nhân. Nếu thỉnh thoảng

Saint-Exupéry có công kích kịch liệt một vài kẻ, cũng l{ với tinh thần nọ, ở tầng thâm viễn nọ. Ông không hề căm

giận con người”.

Nhưng lý luận như vậy là lý luận theo lối hời hợt thông thường trên bình diện tục tĩu, rất cần thiết đối với

số đông – v{ cũng l{m tổn thương ch}n lý không phải ít. Vì chân lý uyên viễn bao giờ cũng phải hiện ra trong

tính chất bội nhị, hàm hỗn – đó l{ c|i m{ người T}y Phương gọi l{: La Duplicité de l’Être: tính chất bội nhị của

Tồn Thể.

Vì sao như vậy? Đó không phải l{ điều có thể giải đ|p tại đ}y. Vì vội vã giải đ|p tại đ}y l{ phản bội câu hỏi

ngay – ngay từ trên cơ sở, suy tư vậy. C}u đ|p, nó nằm tại trong suy gẫm lặng lẽ của từng người soạn sửa tương

ứng về sau.

V{ trường hợp: một lời cước chú mà phải chia ra làm hai đoạn, ấy cũng l{ trong tinh thần tôn trọng tính

cách bội nhị của Tồn Thể trường lưu vậy. Nhưng c|i “vậy” lặp lại hai lần, ba lượt, bốn phen, năm trận, chưa chắc

gì đ~ đúng l{ c|i “hệt”. Vì sao như vậy? Xin bỏ lửng lời đ|p. Vì: c}u hỏi, tự trong tinh thể của nó đ~ mang ý nghĩa

một lời đ|p – theo nghĩa một tặng vật hàm hỗn vô song cánh mây khép mở.

Nói vậy nghe chừng không hợp lý. Nhưng c|i Lý nguyên sơ trong tình thế của nó l{ gì? Khi c|i lý nguyên sơ

biến thành luận lý hoặc nh{ trường (logique) rồi cái luận lý học nh{ trường biến thành tiểu luận lý nhà trại

(logistique) – thì chúng ta sa ngay vào giữa mê hồn trận ngày nay.

Tôi xin đưa một thí dụ cụ thể, cho thấy cái luận lý nó có thể đưa ta tới Ngõ Cụt nào của lý luận:

Ông Jésus, ông Lão Tử, cũng nhận thấy và nhìn ra rằng trẻ con là Thánh, trẻ con theo cho nghĩa con trẻ, chứ

không phải trẻ con là ù lì trẻ con. Mà thánh là kẻ “dạy” người. Vậy thì trẻ con phải dạy người. Ngược lại, người

n{o đòi dạy trẻ con l{ người đó l{m loạn xã hội, cần phải bài trừ. Muốn bài trừ bọn người đông đảo đó, cần phải

tổ chức những đo{n thể lớn, những đảng phái mạnh thì mới có cơ chống nổi và bài trừ. Bài trừ ai? Những kẻ dạy trẻ con. Những kẻ đó l{ ai? L{ gi|o sư vậy. Gi|o sư ở đ}u? Ở tại c|c nh{ trường. L{m sao rúc v{o trường để bài

trừ họ? Trước tiên, phải đập ph| nh{ trường!!!

Hỡi ôi! Đó l{ luận lý! Buồn thay!

Jean Walh b{i b|c Heidegger cũng lý luận gần giống như vậy, Sartre b{i b|c Camus cũng giống như vậy.

Xin cử ra một thí dụ đơn sơ hơn nữa:

Dịch văn thơ bao giờ cũng phải tôn trọng nguyên tác tận trong mạch ngầm tinh thể của tinh thần nó. Vậy

bản dịch đúng tất nhiên phải là bản dịch phơi mở được mọi tinh túy của nguyên tác trên mọi bình diện nó di

chuyển ở mọi chốn, mọi nơi. V{ do đó mọi bản dịch đúng về một tác phẩm phải có một nội dung hình thể giống

hệt như nhau. Nhưng xét ra, tự cổ chí kim, chưa hề có hai bản dịch nào, lại giống hệt nhau về cả nội dung lẫn

hình thức. Vậy biết làm sao mà nhìn cho ra cái bản dịch đúng. Vì c|i đúng, c|i ch}n x|c bao giờ cũng l{ chỗ để

mọi c|i “phải” chịu đồng quy. M{ như ta thấy, trong hàng triệu bản dịch chẳng có bản n{o l{ đồng quy cho một

bản nào. Vậy tất nhiên mọi bản đều sai be bét cả. Đ~ sai, còn giữ làm gì. Phải nên vội v~ đốt hết một cách thật

hấp tấp. Không còn một bản dịch nào còn lý do để tồn tại.

Hỡi ôi! Đó l{ luận lý! Thật đ|ng buồn thay.

Bởi đ}u m{ có tình huống thảm thê nọ? Nguyên do có lẽ bởi vì: chúng ta quên suy gẫm về tiếng tồn tại. Tồn

tại không hẳn là tồn lưu. Chúng ta quên suy gẫm về tiếng lý do. Lý (lý) do không hẳn là Do Lý. Chúng ta quên suy

gẫm về tiếng “hấp tấp vội v~”. Vội vã không hẳn là vội vàng. Chúng ta quên suy gẫm về tiếng sai và tiếng đúng.

Sai không hẳn là quấy; đúng không hẳn là chính xác; chính xác không hẳn là xác thực; xác thực không hẳn là

nghiêm mật – nghĩa l{ lầm lẫn một cách tai hại hai tiếng: l’exactitude v{ la pensée. L’exactitude scientifique

không phải là la rigueur de la pensée, chúng cùng thiết yếu ở lĩnh vực mình, nhưng ho{n to{n không có gì gần

nhau – từ trong bản chất. Hai tiếng đó ho{n to{n biệt lập nhau. Tại sao vậy? Có lẽ tại vì bấy l}u nay người ta

thấy chúng gần nhau quá! Và có lẽ nhất, là tại nh{ tư tưởng biến thành triết học gia. Mà triết-học-gia là quên

mất “gia” l{ “nh{”, m{ chỉ còn nhớ “b|c” l{ “học”. Triết gia biến làm bác học giả. Và cả học giả, cả triết gia cũng

có mặc cảm tự-ti-điên-đảo trước khoa học. Như vậy vừa phụ mình lại vừa phụ khoa học. Nhưng khoa học hoằng

viễn tự buộc mình phải chọn lĩnh vực mình, mà vẫn nguyện cầu cho nh{ tư tưởng phải trưởng thành mà thành

tựu cho tư tưởng để cùng nhau góp sức giải cứu con người trong hiểm họa về sau, để cùng mong sớm có ngày

trùng ngộ bắt tay nhau qua bốn biển giữa một nh{. Nhưng nh{ tan v{ biển mất. Vâng. Mọi nhà khoa học hoằng

viễn hẳn phải nguyện cầu chừng đó. Ngờ đ}u nh{ tư tưởng lại ưa l{m nô lệ ru rú theo đuổi khoa học: lúc nào

thấy tư tưởng có-vẻ-không-khoa-học, thì vội v~ cho đó không phải l{ tư tưởng. Do đó, cố công gắng sức làm sao

chứng minh cho rõ ràng rằng: tư tưởng của mình thật có tinh thần khoa học một cây! Rồi lại cố công chứng

minh một việc thừa, một việc ai ai cũng rõ: ph}n biệt khoa học và tinh thần khoa học!

Người tư tưởng triết gia nào, trong thời đại chúng ta, mang nặng mặc cảm nhiều nhất đối với khoa học? Ấy

không ngờ lại là Merleau-Ponty! Ông kh| hơn Sartre ở chỗ ông không có mauvaise foi. Ông thua hẳn Sartre về

cái thông minh và tài hoa. Cả hai ông cùng thiếu mất cái tinh thần – là cái cốt yếu của tư tưởng Phương Đông.

Phương Đông không hẳn là của riêng đông phương. Nerval, Hoelderlin vẫn là những thi nh}n tư tưởng Đông

Phương. Parménide, Héraclite, Homère, cũng vậy. Ngược lại người Đông Phương ng{y nay phần đông lại là

người nô lệ cho T}y Phương. Suốt đời viết tiếng Việt mà vẫn l{ văn sĩ Ph|p. Cũng như có kẻ suốt đời – tức là một

trăm năm – viết tiếng Pháp mà vẫn l{ văn sĩ Việt. Trở lại với Merleau-Ponty. Xem lại cái bài ông công kích

Einstein mà buồn cười vỡ mật. (Và phải bấm bụng nín cho khỏi cười). Và cái việc buồn cười nhất lại là: ông công

kích kịch liệt nhà khoa học Einstein, mà lại vô tình đưa những luận chứng do tinh thần khoa học hạ đẳng đ~

ngấm ngầm t|c động tâm linh ông ở tiềm thức, mặc dù bao lần ông vùng vẫy để tho|t ly. Trường hợp Sartre

cũng khó m{ phận biệt được l{ ông cũng qu| nhiều mauvaise foi (mauvaise foi không hẳn là ác ý) hoặc là ông ta

muốn mở một cuộc đùa (đùa không hẳn l{ chơi) hoặc chịu chơi trong nhất cuộc kỳ - vẫn một cuộc đùa đồ sộ

giữa mê hồn trận hiện đại – theo tinh thần ông gán cho một nhân vật: “Tại sao anh l{m điều xấu? Vì điều tốt,

thiên hạ đ~ l{m rồi”. Cái nguy nhất là tới đ}y, ta lại phải nêu câu hỏi: Biết đ}u chính Merleau-Ponty cũng lại thử đùa rỡn-một-

trận với tinh thần hùng vĩ của Einstein??? Nếu không thì tại sao ông lại lý luận như trẻ con, theo lối Platon bàn

việc Thi Ca???

Nêu được câu hỏi đó, l{ biết luận lý tồn lưu, theo nghĩa: luận lý về cái lý-Lô-Gô sơ nguyên ban thủy (nên nhớ

sơ, nguyên, ban, thủy, xin được hiểu mỗi tiếng theo hai nghĩa bội nhị khác nhau – hai nghĩa vừa xa vừa gần

nhau).

Có thể giải thích cụ thể hơn, rõ r{ng hơn nữa không? Về cái lối luận lý tồn lưu? Có thể lắm. Xin cử một thí dụ

cụ thể về cái lối luận lý tồn-lưu-phiêu-bồng vì rất mực cụ thể mà biến thành siêu thể:

Bấy l}u nay ta nghĩ rằng ta-tư-tưởng. Làm sao có thể tin như thế được? Bởi vì thật ra ta không tư tưởng,

m{ chính tư tưởng về với chúng ta. Vậy ư? Chính vậy. Ai chẳng thường kinh nghiệm điều này: nhiều lúc ta vò

đầu, bứt tóc, ngắt lông, m{ n{o có nghĩ ra c|i tư tưởng n{o đ}u. Bỗng một bình minh (theo nghĩa bóng: bình

minh có thể là hoàng hôn, có thể là nửa đêm g{ g|y bỗng dưng sau một giấc chiêm bao, từ đ}u chẳng rõ) ta – “A

ha! Gặp rồi! Nhận thấy rồi”. Thử hỏi: nếu tư tưởng không về với ta trong chiêm bao mà ứng mộng, theo lối Đạm

Tiên về với Kiều, thì làm sao ta lại thấy ra, m{ kêu to như thế? Lúc ta tìm thì nó không tới; ta tìm dữ, thì chính ta

điên đầu. Sau một giấc chiêm bao ta phiêu bồng theo cánh bướm, bỗng tư tưởng đến với ta như đ~ đến với

Trang Tử, hoặc lớn hơn đôi chút, theo c|nh bướm dìu về.

Người bị ảnh hưởng tâm lý học T}y Phương hạ đẳng, sẽ lôi những giải thích lai rai về tâm lý ra mà bác ý

kiến trên đ}y. Họ bảo: “Không thể nói l{ tư tưởng đến với ta. Chính l{ ta tìm ra tư tưởng. Bởi đ}u? Cứ thử luận lý

theo cái thí dụ anh nêu ra. Anh tưởng rằng khi anh ngủ, là anh triệt để ngủ nướng như l| cỏ? Không. Lúc anh

ngủ, tiềm thức anh vẫn tiếp tục làm việc một cách sâu thẳm mà minh mẫn vô cùng. Rồi tỉnh cơn ngủ, trở giấc

trút trận chiêm bao, anh tưởng rằng: bỗng dưng m{ tư tưởng đến? Không có thế đ}u. Vì anh đ~ từng nghĩ lui,

nghĩ tới, nghĩ tỉnh, nghĩ say, nghĩ miên man bồn chồn trong trận ngủ, rồi cuối cùng anh thu hoạch được kết quả,

chớ n{o đ}u có phải là tự dưng m{ tư tưởng đến với anh”.

Hỡi ôi. Lời ông bạn thật l{ chí lý. Nhưng có m{ quỷ sứ nó nghe. Bởi đ}u? Bởi rằng: hễ người đứng đắn mà

nghe c}u đó lọt được vào trong cái lỗ tai, thì té ra những lời ông Jésus, ông Lão Tử, tất nhiên phải là sai bét hết.

Lời nào của ông Lão, ông Jésus? Xin bỏ lửng lời đ|p vậy. Tại sao bỏ lửng? Vì trên đ}y cũng đ~ có bỏ lửng một

cách không bỏ lửng một chút nào rồi.

- Thôi đừng nói rỡn nữa chứ. Sự thật là thế nào? Có thật l{ tư tưởng tới với ta không? Hay thật là ta tư

tưởng tới?

Đ|p rằng: thật ra là thể (không phải thế) thật; thật ra là thể gọi, ta thưa; thật ra là ta tạm thể gọi, v{ tư

tưởng tồn thể đ|p lời; ta kêu, và tồn lưu gieo giọt; ta xin uống và tồn lưu ban khen ngọt cho. Vậy thì rõ ràng là

hai c|ch nói đều đúng cả, đúng mỗi bên một cách – là bội nhị tịch hạp song liêm. “Vì trong lẽ phải, có người có

ta” l{ vậy.

Và vì vậy, nên cái chỗ tối cao là vô ngôn, không lời. Hoặc có nói lời thì nói bi bô c{ lăm theo lối con trẻ không

trẻ con.

Để ý: Nên nhớ rằng ngạn ngữ Việt Nam có c}u: “Sai một con toán, bán một con tr}u”. Nên nhớ

thêm rằng: người phẩm bình mà chẻ lệch một chút con to|n, thì người tư tưởng phải bán

hai con trâu. Tôi không thể tự biết mình đ~ buộc những ông tư tưởng hiện đại phải b|n đi

mỗi ông là mấy chục con tr}u. Nhưng ai ai cũng phải nhận thấy rằng các nhà phê bình – dù

chấp nhận, dù kích bác – đ~ từng buộc tôi b|n đứng nhiều nhất là một triệu rưỡi con trâu

tồn lưu, v{ ít nhất là một phần tư con bò tồn thể. Suy rộng ra theo tinh thần đó, chúng ta

bỗng chợt thấy rằng từ lâu lắm, người Trung Hoa, người T}y Phương, cũng vì tính sai một

con toán tồn lưu, m{ Việt Nam và một số bạn hẩm hiu, đ~ phải bán thật là nhiều con trâu.

Đột nhiên tôi sực nhớ thêm điều n{y, nó cũng giúp nhiều cho cuộc tồn lưu tư tưởng: Đọc Saint-Exupéry, lúc

nào ta thấy ông nói nghe đúng, r{nh rẽ, ấy chính là chỗ ông phải buộc lòng hạ thấp tư tưởng của mình. Trái lại, lúc nào xem chừng ông viết có vẻ ba rơi hoặc ba gai ba góc, ấy chính l{ lúc tư tưởng lên tới tột cao tồn thể phiêu

bồng. Thí dụ? Như lúc ông nói về cứu c|nh v{ phương tiện l{ lúc tư tưởng xuống thấp tới mức thông thường.

Trái lại, lúc tư tưởng lên cao viễn nhất là lúc ông nói tới gái Sa Mạc, người Maure và Bonnafous. Vì sao? Vì

Maure đọc trại ra th{nh Mô. M{ “mô” có nghĩa là một câu hỏi tự tại, nghĩa l{ tự mình tìm ra lời đ|p ngay ở

trong mình. Bởi vì “mô” vừa có ý nghĩa nghi vấn (Mi ở mô?), vừa có nghĩa x|c định lẽ hư vô (Tôi có biết chi

mô!). Còn Bonnafous có nghĩa l{ Bon-à-faire-le-fou. Et comment est le fou? Leftou est foudroyant comme la

foudre est ondoyante. (Chấm dứt Cước chú).

[4]

Saint-Exupéry đưa ra c|i lý do duy nhất đ~ quyết định sự chọn lựa của ông. Đối với

chúng ta, câu hỏi nêu ra tại đ}y l{: vì sao c|i lý do kia lại đủ sức quyết định? Đ|p: chính bởi

lúc chọn lựa là nhắm mắt theo linh cảm, nghĩa l{: sự chọn lựa mang tính chất tin-yêu-không-

chọn-lựa. Nghĩa l{: c|i lý do sơ thủy đ~ bất chấp cái lý do của luận-lý-lý-trí eo hẹp nhà

trường..

Trên một bình diện tư tưởng kh|c, cũng rất âm thầm, cũng theo thể điệu chiêm bao mộng triệu ta lại nhận

thấy rằng trước kia, cách Saint-Exupéry một thế kỷ, Gérard de Nerval v{ Hoelderkin cũng đ~ từng linh cảm như

vậy… Ng{y nay, người T}y Phương tìm tới chúng ta, để xin một bài học tư tưởng, thì họ lại ngạc nhiên thấy

chúng ta không chịu đóng vai bậc thầy, lại cứ đòi theo đuôi họ, ở mọi lĩnh vực. Những chủ nghĩa, những học

thuyết của họ, họ vốn biết là cặn bã của văn minh T}y Phương đang điêu t{n, thì chúng ta o bế như đ{o tiên. Họ

tự hỏi: tại sao Đông Phương có một lực lượng tinh thần khủng khiếp trong truyền thống, lại không chịu sử dụng

nó để đ|nh lại chúng ta, thì không bao giờ người T}y Phương chúng ta chịu đầu hàng cả. Trái lại, nếu họ đưa

tinh thần Á Đông ra, thì lập tức chúng ta buông tay.

[5]

Trong võ hiệp tiểu thuyết của Kim Dung, thường thấy những nhân vật chính trong giờ bị khốn đốn, trong

nguy cơ thập tử nhất sinh, đột nhiên giác ngộ được thứ võ công gi|p trĩ thượng thừa, bước vào quai nhai cảnh

giới, tự giải phóng kinh mạch một cách huyền diệu, và thành tựu tinh thể của c|i đẹp Võ Công Siêu Đẳng.

[6]

Quê ngoại của Saint-Exupéry.

Bạn đọc cũng nên giở lại đoạn 4 chương IV (trang…) nhìn lại gương mặt U gi{… V{, một câu nói riêng biệt

của Saint-Exupéry: “Mon plus lointain souvenir? J’avais une gouvernante Tyrolienne, qui s’appelait Paula. Kỷ

niệm xa xôi xưa cũ nhất của tôi? Xưa kia tôi có một người vú già vốn quê quán ở Tyrol, và tên gọi là Paula ạ”.

[7]

Nons sommes embarqués – lời bất hủ của Pascal, có nghĩa l{: “chúng ta đáp tàu”, dù muốn dù không,

bị xô ra đời sống là suốt trăm năm phải lên đường, phiêu du trong cõi, phiêu dạt biển khơi, phiêu linh lục hải,

phiêu lạt thường hồ, phiêu bồng vào hố thẳm của Cực Chung.

[8]

Chắc là Saint-Exupéry rất quên và rất nhớ hai người con gái tại một Oasis xứ

Argentine, gần quận Concordia, tao phùng buổi nọ…(Xem lại chương V ở trước, trang 112-

113… )

[9]

Cước chú

Ý tại ngôn ngoại – hoặc ngôn tại ý ngoại – là ở tại đ}y. Xin bạn đọc đo|n ý chỗ ý tại ngôn ngoại trong câu

trên của Saint-Exupéry, theo viễn tượng Tồn Lưu T}y Phương.

“… Das zunaechst Befremdliche bleibt jedoch dies: Sein schickt sich uns zu, indem es zugleich sein Wesen

entzieht dieses im Entzug verbirgt”.

Dịch theo thông thường, thì rằng: “C|i đầu tiên đ|ng xui ngạc nhiên vẫn lại là cái này: Tồn Lưu tự trao thân

cho chúng ta, chính trong lúc mà Tinh Thể của nó, thì nó lại để vắng thiếu mất, nó che giấu Tinh Thể của nó

trong sự vắng bóng kia”.

Diễn dịch nghiêm mật ý đó theo những yêu sách của Ngôn Ngữ Việt thì rằng:

“Điều đầu tiên đ|ng ngạc nhiên

Ấy là cái vậy tuy nhiên thế này:

Tồn Lưu tự cấp hai tay

Hai hàng khép mở hai dày mỏng dâng

Tặng trao Tinh Thể ngại ngùng

Xuân Vân nép mặt, Thu Mồng dấu mi”.

Dịch sang H|n văn, thì rằng:

Ban sơ khả dĩ thị Lưu Tồn

Tự phó thân ban cấp tử tôn

Sa hợp tức phân hồn hướng hậu

Lộ nùng tinh thể ẩn tinh thôn.

Chia sẻ ebook: http://www.downloadsach.com

Follow us on Facebook: https://www.facebook.com/caphebuoitoi

Xem thêm
Từ khóa: / Tài liệu / Tài liệu
Đề xuất cho bạn
Tài liệu
de-minh-hoa-toan-lan-2-nam-2019
Đề Minh Họa Toán lần 2 năm 2019
33969 lượt tải
mot-so-cau-hoi-trac-nghiem-tin-hoc-lop-11-co-dap-an
Một số câu hỏi trắc nghiệm Tin học lớp 11 (có đáp án)
16103 lượt tải
ngan-hang-cau-hoi-trac-nghiem-lich-su-lop-11-co-dap-an
NGÂN HÀNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM LỊCH SỬ LỚP 11 - CÓ ĐÁP ÁN
9694 lượt tải
tong-hop-toan-bo-cong-thuc-toan-12
Tổng Hợp Toàn Bộ Công Thức Toán 12
8544 lượt tải
bai-tap-toa-do-khong-gian-oyz-muc-do-van-dung-co-dap-an-va-loi-giai-chi-tiet
Bài tập tọa độ không gian Oxyz mức độ vận dụng có đáp án và lời giải chi tiết
7122 lượt tải
mot-so-cau-hoi-trac-nghiem-tin-hoc-lop-11-co-dap-an
Một số câu hỏi trắc nghiệm Tin học lớp 11 (có đáp án)
154451 lượt xem
bai-tap-toa-do-khong-gian-oyz-muc-do-van-dung-co-dap-an-va-loi-giai-chi-tiet
Bài tập tọa độ không gian Oxyz mức độ vận dụng có đáp án và lời giải chi tiết
115379 lượt xem
de-luyen-tap-kiem-tra-mon-tieng-anh-lop-10-unit-6-gender-equality
Đề luyện tập kiểm tra môn Tiếng Anh lớp 10 - Unit 6: Gender equality
103737 lượt xem
de-luyen-tap-mon-tieng-anh-lop-10-unit-4-for-a-better-community-co-dap-an
Đề luyện tập môn Tiếng Anh lớp 10 - Unit 4: For a better community (có đáp án)
81432 lượt xem
de-on-tap-kiem-tra-mon-tieng-anh-lop-11-unit-4-caring-for-those-in-need-co-dap-an
Đề ôn tập kiểm tra môn Tiếng Anh lớp 11 - unit 4: Caring for those in need (có đáp án)
79558 lượt xem

  • Tài liệu

    • 1. Đề ôn kiểm tra cuối kì 2 số 1
    • 2. hoa hoc 12
    • 3. Đề Kt cuối kì 2 hóa 8 có MT
    • 4. Các đề luyện thi
    • 5. Đề luyện thi tốt nghiệp THPT năm 2023 môn Hóa Học
  • Đề thi

    • 1. tổng ôn môn toán
    • 2. sinh học giữa kì
    • 3. Toán Giữa Kì II
    • 4. kiểm tra giữa hk2
    • 5. Kiểm tra 1 tiết HK2
  • Bài viết

    • 1. Tải Video TikTok / Douyin không có logo chất lượng cao
    • 2. Cách tính điểm tốt nghiệp THPT Quốc gia 2020 mới nhất : 99% Đỗ Tốt Nghiệp
    • 3. Chính thức công bố đề Minh Họa Toán năm học 2020
    • 4. Chuyên đề Câu so sánh trong Tiếng Anh
    • 5. Chuyên đề: Tính từ và Trạng từ ( Adjectives and Adverbs)
  • Liên hệ

    Loga Team

    Email: mail.loga.vn@gmail.com

    Địa chỉ: Ngõ 26 - Đường 19/5 - P.Văn Quán - Quận Hà Đông - Hà Nội

2018 © Loga - Không Ngừng Sáng Tạo - Bùng Cháy Đam Mê
Loga Team