Chào các quý thầy cô, hôm nay LogaVN gửi tới quý thầy cô giáo án "Khái luận về thơ và kĩ năng phân tích thơ". Hi vọng sẽ giúp ích cho các quý thầy cô giảng dạy.
KHÁI LUẬN VỀ THƠ VÀ KĨ NĂNG PHÂN TÍCH THƠ
Khái luận chung về thơ:
I. Định nghĩa về thơ:
Trước hết, ai cũng biết thơ ca lấy ngôn ngữ làm chất liệu. Nói cách khác, thơ ca là một công trình nghệ thuật sáng tạo bằng ngôn từ. Những thể loại văn học khác cũng lấy ngôn từ làm chất liệu, song ngôn ngữ thơ được nhà nghệ sĩ tổ chức thành một hệ thống vừa tinh tế, ngắn gọn, súc tích, vừa tuân theo những quy luật ngữ âm nhất định.
Thơ ca luôn phản ánh đời sống con người , xã hội thông qua những hình tượng nghệ thuật. Thơ là bày tỏ tâm trạng, thái độ, tình cảm của người nghệ sĩ về cuộc đời qua những hình tượng thơ độc đáo - hình tượng là nơi kết tinh những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Nội dung của bài thơ là những rung động từ con tim, là những thổn thức từ tấm lòng của nhà nghệ sĩ trước cuộc đời.
Hình dung về thơ : Thơ là một thể loại văn học được xây dựng bằng hình thức ngôn ngữ ngắn gọn súc tích, theo những quy luật ngữ âm nhất định, nhằm phản ánh tâm trạng, thái độ, tình cảm, ... của người nghệ sĩ về đời sống thông qua những hình tượng nghệ thuật.
II. Những đặc điểm cơ bản của thơ :
1. Chủ thể trữ tình-Khách thể trữ tình ;
a- Tính trữ tình
Tác phẩm thơ luôn thiên về diễn tả những cảm xúc, rung động, suy tư của chính nhà thơ về cuộc đời(vui, buồn,…). Những rung động ấy xét đến cùng là những tiếng dội của những sự kiện, những hiện tượng đời sống vào tâm hồn nhà thơ.
b- Chủ thể trữ tình(Chủ thể trữ tình : có lúc được gọi là nhân vật trữ tình, cái tôi trữ tình, chủ thể thẩm mỹ...) : Trữ (thổ lộ , biểu đạt), Tình (tình cảm, xúc cảm)
Trong tác phẩm thơ ta luôn bắt gặp bóng dáng con người đang nhìn, ngắm, đang rung động, suy tư về cuộc sống. Con người ấy được gọi là chủ thể trữ tình. Trong tác phẩm thơ, chủ thể trữ tình là yếu tố luôn có mặt để thể hiện nội dung trữ tình của tác phẩm. Bất kỳ thi phẩm nào cũng đều có chủ thể trữ tình.
PAGE \* MERGEFORMAT 4
KHÁI LUẬN VỀ THƠ VÀ KĨ NĂNG PHÂN TÍCH THƠ
Khái luận chung về thơ:
I. Định nghĩa về thơ:
Trước hết, ai cũng biết thơ ca lấy ngôn ngữ làm chất liệu. Nói cách khác, thơ ca là một công trình nghệ thuật sáng tạo bằng ngôn từ. Những thể loại văn học khác cũng lấy ngôn từ làm chất liệu, song ngôn ngữ thơ được nhà nghệ sĩ tổ chức thành một hệ thống vừa tinh tế, ngắn gọn, súc tích, vừa tuân theo những quy luật ngữ âm nhất định.
Thơ ca luôn phản ánh đời sống con người , xã hội thông qua những hình tượng nghệ thuật. Thơ là bày tỏ tâm trạng, thái độ, tình cảm của người nghệ sĩ về cuộc đời qua những hình tượng thơ độc đáo - hình tượng là nơi kết tinh những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Nội dung của bài thơ là những rung động từ con tim, là những thổn thức từ tấm lòng của nhà nghệ sĩ trước cuộc đời.
Hình dung về thơ : Thơ là một thể loại văn học được xây dựng bằng hình thức ngôn ngữ ngắn gọn súc tích, theo những quy luật ngữ âm nhất định, nhằm phản ánh tâm trạng, thái độ, tình cảm, ... của người nghệ sĩ về đời sống thông qua những hình tượng nghệ thuật.
II. Những đặc điểm cơ bản của thơ :
1. Chủ thể trữ tình-Khách thể trữ tình ;
a- Tính trữ tình(
):
Tác phẩm thơ luôn thiên về diễn tả những cảm xúc, rung động, suy tư của chính nhà thơ về cuộc đời(vui, buồn,…). Những rung động ấy xét đến cùng là những tiếng dội của những sự kiện, những hiện tượng đời sống vào tâm hồn nhà thơ.
b- Chủ thể trữ tình( Chủ thể trữ tình : có lúc được gọi là nhân vật trữ tình, cái tôi trữ tình, chủ thể thẩm mỹ...
) : Trữ (thổ lộ , biểu đạt), Tình (tình cảm, xúc cảm)
Trong tác phẩm thơ ta luôn bắt gặp bóng dáng con người đang nhìn, ngắm, đang rung động, suy tư về cuộc sống. Con người ấy được gọi là chủ thể trữ tình. Trong tác phẩm thơ, chủ thể trữ tình là yếu tố luôn có mặt để thể hiện nội dung trữ tình của tác phẩm. Bất kỳ thi phẩm nào cũng đều có chủ thể trữ tình.
Cho nên, khi phân tích thơ, ta phải phân tích nội dung trữ tình . Muốn phân tích nội dung trữ tình thì nhất thiết, nắm bắt và phân tích được chủ thể trữ tình. Bởi lẽ, nội dung trữ tình luôn chứa trong chủ thể trữ tình.
c. Khách thể trữ tình:
Đối tượng được miêu tả.
2. Đặc điểm ngôn ngữ thơ:
+ Ngôn ngữ thơ phải có tính tạo hình.
+ Ngôn ngữ thơ phải có tính biểu hiện.
+ Ngôn ngữ thơ phải biểu cảm.
. Đó là cách tổ chức sắp xếp ngôn ngữ sao cho từ một hình thức biểu đạt có thể có nhiều nội dung biểu đạt. Đó là quá trình chuyển nghĩa tạo nên lượng ngữ nghĩa kép trong thơ.Ví dụ :
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
III. Hai giai đoạn trong quá trình tiếp nhận thơ :
1- Cảm thơ
Việc đánh giá, khen chê một tác phẩm thơ mà không có lý do (hay chưa tìm ra lý do) thì gọi là cảm thơ. Đây chính là bước khá quan trọng trong quá tình tiếp nhận thơ.
Mỗi tác phẩm thơ được xem như là một cơ thể sống. Nó có cảm xúc, tiếng nói, cái nhìn riêng về con người và đời sống. Như đã nói ở phần trên, thơ là tác phẩm trữ tình, do vậy mỗi bài thơ có một trường cảm xúc riêng (gọi là trường cảm xúc của bài thơ). Khi tiếp nhận tác phẩm thơ, người đọc chuẩn bị cho mình một tâm thế, một thái độ, một cảm xúc (gọi là trường cảm xúc của người đọc).
Một bài thơ, người khen hay, kẻ chê dở là chuyện thường tình, lắm khi có người không có cảm xúc hay chính kiến. Việc cảm thơ phụ thuộc rất lớn vào độ mẫn cảm của từng người
- Việc cảm thơ thường diễn ra theo sự mách bảo của con tim, chịu sự chi phối bởi tâm lý, thể trạng, hoàn cảnh của độc giả... Do vậy, nó mang tính chủ quan, cảm tính; nên việc cảm thơ không phải lúc nào cũng chính xác.
2. Phân tích thơ
Việc khám phá và chiếm lĩnh một cách có cơ sở những giá trị thẩm mỹ của tác phẩm thơ là phân tích thơ. Tất cả quá trình ấy phải được biểu hiện bằng ngôn ngữ của người đọc .
Khác với cảm thơ, phân tích thơ luôn tuân theo những nguyên tắc nhất định có tính khách quan, khoa học đối với nhiều người. Những nguyên tắc ấy là những công cụ đáng tin cậy để người làm văn có những nhận xét, đánh giá chuẩn xác về giá trị thẩm mỹ của tác phẩm thơ.
Năng lực phân tích thơ tuỳ thuộc rất lớn vào trình độ hiểu biết văn chương, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ diễn đạt cũng như các thao tác, phương pháp phân tích của độc giả.
Thành công bao giờ cũng dành cho người nào nắm phương pháp. Phân tích thơ mà không có phương pháp thì khó bề đặt chân đến bờ chân - thiện - mỹ của thi phẩm.
Riêng giai đoạn phân tích thì phải trải qua hai bước theo nghĩa từ nguyên của phép chiết tự từ “ phân tích ”. “ Phân” là bước một, là việc chia nhỏ, lựa chọn tác phẩm ra thành nhiều phần (hoặc nhiều đoạn, nhiều câu, nhiều ý...) để tìm hiểu. “ Tích ” là bước thứ hai, là việc tổng hợp kết quả tìm hiểu.
Mỗi tác phẩm thơ là một chỉnh thể nghệ thuật. Ở đó, ngôn ngữ được nhà nghệ sĩ tổ chức thành một hệ thống bởi những nguyên tắc và lôgic nhất định.
Việc phân chia tác phẩm ra thành nhiều phần nhỏ sẽ tạo nên những đơn vị thơ và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận tác phẩm thơ. Thường thấy, khi phân tích một bài thơ, người đọc thường hay chia nhỏ thành từng đoạn (gọi là bố cục). Và hơn thế nữa, người đọc còn phân đoạn ra thành các yếu tố nhỏ hơn, như: Câu, ngữ, tổ hợp từ, tập hợp từ, từ...
Vậy, đơn vị thơ là những tập hợp từ, tổ hợp từ ,... chứa đựng ít nhất giá trị nào đó về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ. Là đối tượng cụ thể cho việc phân tích thơ. Cụ thể hơn, nó là cái để chúng ta thẩm bình và đánh giá giá trị của thi phẩm .
- Đơn vị thơ ít nhất phải chứa đựng một giá trị nội dung và nghệ thuật nào đó.
- Những giá trị của đơn vị thơ phải thống nhất, tô đậm chủ đề hoặc hình tượng của tác phẩm.
- Các đơn vị thơ phải có mối quan hệ và thống nhất với nhau trên mạch cảm xúc chính của tác phẩm.
- Xác định đơn vị thơ phải theo một trật tự nhất định, từ lớn đến nhỏ, từ khái quát đến cụ thể. Các đơn vị thơ phải được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên để thẩm bình. Do đó, khi đi tìm đơn vị thơ, cần tránh các khuynh hướng sau đây:
+ “Chẻ sợi óc làm tư ”
+ Thụ động, máy móc
Vài ví dụ về cách xác định đơn vị thơ được trình bày từ cấp độ lớn đến nhỏ.
- Đơn vị thơ là một đoạn:
- Đơn vị thơ là một tổ hợp từ (ngữ):
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có từ cái “ngày xửa ... ngày xưa “ mẹ thường hay kể ”
( Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm )
Câu thơ trên có nhiều tổ hợp từ. Song, tổ hợp từ có vị trí và vai trò quan trọng hơn cả là: “ngày xửa ... ngày xưa”. Về mặt nghệ thuật, tác giả vận dụng cách kể của chuyện cổ tích để biểu đạt nội dung là đất nước có từ lâu đời
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”
(Đây mùa thu tới - Xuân Diệu)
Đoạn thơ có một tập hợp từ rất quan trọng: Đìu hiu/ tang/ buồn/ lệ. Bốn từ này tập hợp lại, gắn bó, cộng hưởng về nghĩa để biểu đạt nỗi buồn của tác giả trong mùa thu chia ly.
- Đơn vị thơ là một từ: Bài thơ dĩ nhiên có nhiều từ, nhưng không phải từ nào cũng là đơn vị thơ (là cái để phân tích ). Có khi cả bài thơ chỉ có một từ, nhưng đó là từ đóng vai trò hạt nhân của nguyên tử, chứa đựng phần lớn năng lượng của thi phẩm, hay của đoạn thơ, dòng thơ.
Ví dụ: Từ “đế” trong “Nam quốc sơn hà” (Lý Thường Kiệt), từ “hồng” trong bài “Mộ ” (Hồ Chí Minh), từ “Điền” trong (Hàn Mặc Tử), tháng giêng (Vội vàng), tràng giang (Tràng giang), mình, ta (Việt Bắc)...
Kĩ năng phân tích thơ:
Phân tích thơ từ mặt hình thức.
1. Phân tích về mặt tiết tấu (Nhạc thơ):
- Tiết tấu là do sự luân phiên những mặt đối lập của các thuộc tính âm thanh ngôn ngữ. Nghĩa là một trong hai mặt đối lập của chúng (cao- thấp, dài- ngắn, mạnh- nhẹ) luân phiên trong một khoảng thời gian nào đấy tạo nên nhạc thơ.
Nhạc thơ là gì? Ngôn ngữ thơ ca luôn được độc giả tiếp nhận ở ba mặt (âm thanh, ý nghĩa, hình thức trình bày). Nhạc thơ là do âm thanh của ngôn ngữ tạo ra, khi chúng được nhà nghệ sĩ sắp xếp, tổ chức theo những nguyên tắc, trật tự nhất định. Vậy bàn đến nhạc thơ là bàn đến việc tổ chức ngữ âm trong thơ.
“ Thơ là sự giao động giữa âm thanh và ý nghĩa ”
( Valéry)
“Ý nghĩa của bài thơ đi bộ, còn nhạc điệu bay cao”. R.D.Tagor
2. Số “tiếng” trong một dòng thơ( Loại thể thơ):
Ví dụ: Bài thơ “ Đất nước “(Nguyễn Đình Thi) chủ yếu 7tiếng/dòng, nhưng khổ cuối có sáu tiếng/ dòng. Do vậy, nhạc thơ ở khổ cuối trở nên nhanh, mạnh hơn các khổ trên. Điều này giúp nhà thơ thể hiện sức mạnh, tư thế hùng tráng của đất nước Việt Nam ở thời điểm quật khởi đứng lên chống Pháp.
“ Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà “
3. Phép điệp: Là hiện tượng lặp lại một hay nhiều đơn vị âm thanh của ngôn ngữ. Có hai trường hợp lặp lại một cách đặc biệt là từ láy và hiện tượng gieo vần.
* Điệp phụ âm đầu: Là hiện tượng lặp lại phụ âm đầu.
Ví dụ : Đi lang thang về miền đơn độc
(Đàn ghita của Lor-ca)
* Điệp cấu trúc:
Ví dụ 2: “ Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta ”
(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
Điệp ngữ “của chúng ta” tạo nên âm hưởng chủ đạo của đoạn thơ là niềm tự hào của tác giả về thiên nhiên, đất nước và con người Việt Nam. Nghĩa của ngữ này chỉ sự sở hữu (đây là một hình thức sở hữu cách trong tiếng Việt ). Do đó, đoạn thơ còn diễn tả niềm vui sướng của tác giả khi thức nhận tinh thần làm chủ đất nước.
* Điệp đoạn (còn gọi là điệp khúc):
Ví dụ 1: Bài thơ “Tâm tư trong tù” của Tố Hữu có một điệp đoạn 4 dòng thơ:
“Cô đơn thay là cảnh thân tù
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu”
4.Phép đối:
* Khái niệm: Là hiện tượng bố trí song hành về mặt âm thanh và ý nghĩa ở 2 vế của một dòng thơ hay hai dòng thơ trong một bài thơ. Tần số xuất hiện nhiều hay ít, cố định hay không cố định của phép đối tuỳ thuộc vào đặc trưng của từng thể thơ. Ở thể thất ngôn bát cú thì luôn có hai cặp câu đối với nhau: Cặp câu thực và cặp câu luận. Ở thể song thất lục bát thường xuất hiện cặp câu đối ở cặp câu thất. Ở thể lục bát thỉnh thoảng có phép đối trên một dòng.
+ Tiểu đối: là phép đối xảy ra trong nội bộ một dòng thơ.
Ví dụ: “Gió theo lối gió mây đường mây "
(Đây thôn Vĩ dạ))
+ Bình đối: là phép đối xảy ra giữa hai dòng thơ với nhau.
Ví dụ: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu”
(Tràng giang)
* Chức năng: Phép đối góp phần làm nên tính hài hoà của tiết tấu.
5.Ngắt nhịp: Nhịp là hiện tượng được tạo nên do những “dấu lặng” trên chuỗi âm thanh của dòng thơ.
Thường nhịp thơ là do thể thơ quy định.
Thơ tự do có cách ngắt nhịp tự do hơn cả, ngắt nhịp theo mạch cảm xúc.
Xác định đúng nhịp thơ sẽ giúp ích rất nhiều cho việc phân tích thơ. Ngắt nhịp sai thì cảm, hiểu sai.
Ví dụ: “ Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Nếu ngắt nhịp “Sau lưng / thềm nắng lá rơi đầy” thì sẽ hiểu sai ý đồ của tác giả. Phải ngắt nhịp: “Sau lưng thềm / nắng lá rơi đầy” thì mới hiểu đúng tinh thần câu thơ.
Ví dụ 2: “Ngàn thước lên cao/ngàn thước xuống”
(Tây Tiến - Quang Dũng)
Câu thơ như bị bẻ đôi bởi nhịp thơ ở sau âm tiết thứ tư, tạo nên biểu tượng như một ngọn núi, nhằm mục đích gợi tả tính chất hiểm trở của địa hình vùng thượng nguồn sông Mã và những gian lao trên bước đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến.
6. Phối thanh: Là hiện tượng luân phiên các thanh bằng - trắc trong một hay nhiều dòng thơ, tạo nên tính du dương trầm bổng, đồng thời góp phần tạo nên nội dung cảm xúc
Tây Tiến của Quang Dũng là một bài thơ thành công về sự phối hợp giữa câu thơ bình thanh và câu thơ trúc trắc.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên, cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
(T B T T T B T
B T B B T T B
B T B B B T T
B B B B B B B )
Ba câu đầu trúc trắc về mặt thanh điệu,dùng để gợi tả tính chất hiểm trở của vùng thượng nguồn sông Mã và những khó khăn trên bước đường hành quân của binh đoàn. Ngược lại, câu cuối toàn bằng, phù hợp cho việc dùng để tả cảm giác thi vị và những phút giây lãng mạn của người linh trước thiên nhiên rất huyền ảo, nên thơ. Từ đó bài thơ thể hiện được hai nét đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc: Hùng vĩ - Thơ mộng, hai nét đặc trưng của lính Tây Tiến: Bi hùng - Lãng mạn.
7. Vần:
Khái niệm : Là hiện tượng lặp lại khuôn vần trên một hay nhiều dòng thơ ( cấu tạo của vần gồm hai phần: Nguyên âm và phụ âm cuối).
Chức năng: Vần trong thơ tiếng Việt có biểu tượng âm thanh. Nghĩa là, mỗi khuôn vần có khả năng thể hiện một loại cảm xúc, tâm trạng, ... nào đó.
II. PHÂN TÍCH THƠ TỪ MẶT NỘI DUNG
Tìm hiểu chủ đề của tác phẩm thơ:
Chủ đề tác phẩm thơ là tâm trạng của nhân vật trữ tình trước một vấn đề nào đó trong hiện thực đời sống.
Muốn tìm hiểu chủ đề của một thi phẩm, ta cần làm các bước sau:
a- Xác định nhân vật trữ tình trong bài thơ:
b- Xác định tứ thơ:
Tứ thơ là một sự việc hay hiện tượng nào đó trong đời sống được đề cập trong bài thơ và nhờ các sự việc, hiện tượng ấy mà nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc. Nhiêu khi tứ thơ chỉ là cái cớ nghệ thuật, là giả định nhưng có lúc nó là một sự kiện, sự việc có thật trong cuộc sống.
Người làm thơ muốn diễn đạt tốt cảm xúc (ý) thì phải chọn tứ. Tứ hay là tứ mới lạ, diễn tả trọn vẹn, độc đáo, sâu sắc cảm xúc của nhà thơ.
c. Xác định mạch tâm trạng chính của bài thơ (Cảm nhận sơ bộ nội dung cảm xúc của bài thơ):
Nội dung cảm xúc trong thơ luôn được thể hiện một trong hai hình thức sau: Trực tiếp và gián tiếp trên ngôn ngữ thơ.
+ Thể hiện trực tiếp bởi các từ ngữ chỉ tâm trạng.
Ví dụ: "Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng"
(Tràng Giang - Huy Cận)
Khổ thơ có hai từ "buồn", "sầu" trực tiếp thể hiện tâm trạng nhân vật trữ tình. Nỗi buồn sầu ấy là mạch cảm xúc của khổ thơ này nói riêng và bài Tràng Giang nói chung.
+ Nhân vật trữ tình: tác giả (Một người khách tha phương).
+ Tứ thơ: Không gian mênh mông của dòng Tràng giang, của vũ trụ.
+ Cảm xúc chính: Nỗi buồn sầu, sự cô đơn.
Vậy chủ đề của bài Tràng giang là: Bài thơ thể hiện nỗi buồn sầu, sự cô đơn của tác giả trước không gian mênh mông.
Hay
"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng"
(Đây mùa thu tới - Xuân Diệu)
Tuy nhiên, để phân tích, tìm hiểu đầy đủ giá trị nội dung và nghệ thuật của một thi phẩm ta cần đi sâu vào việc phân tích hình tượng ngôn ngữ thơ.
Hình tượng ngôn ngữ thơ:
Khái niệm:
Hình tượng thơ là một hình ảnh vừa có khả năng thể hiện cái cụ thể sinh động của đời sống, vừa mang ý nghĩa biểu trưng về cuộc sống thông qua sự sử dụng ngôn ngữ tài tình, trí tưởng tượng, óc sáng tạo và cách đánh giá của người nghệ sĩ.
Chất liệu thơ (thi liệu):
Là hệ thống hình ảnh, sự vật được ngôn ngữ gọi tên có cùng một đặc điểm tính chất và có mối quan hệ tương cận với nhau.
Thơ Hàn Mặc Tử thường sử dụng cụm 3 thực thể: Trăng - Hồn - Máu.
- Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa.
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô.
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy cuồng điên mửa máu ra.
- Kìa ai gánh máu đi trên tuyết
Manh áo da cừu ngắm nở nang
Với Tử, trăng đồng nghĩa với thế giới cái đẹp, cái vĩnh hằng, thế giới huyền ảo, hồn - máu là nỗi ám ảnh về cái chết từ thực tại nỗi đau bệnh tật. Trăng - hồn - máu làm nên sự cân bằng tâm trạng, cảm xúc trong thơ Hàn Mặc Tử.
Ví dụ :
Chất liệu thơ của Nguyễn Bính thường là các hình ảnh, sự vật gắn liền với đời sống làng quê Việt Nam. Đó là thi liệu dân gian: Trầu, cau, đền, đò, chè, mẹ già, thầy u, hoa xoan, luỹ tre, cây bàng, đầu đình, hội làng, ...
Chương “Đất nước” (Trích trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm) sử dụng thi liệu là văn hoá dân gian, như: các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, truyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết, ... giúp tác giả thể hiện thành công hình tượng đất nước.
3. Không gian và thời gian trong thơ:
-Không gian và thời gian là hai phạm trù luôn có mặt trong mọi hoạt động, sinh hoạt của con người. Đó là sự miêu tả, trần thuật xuất phát từ một điểm nhìn :Xa –gần, cao-thấp, rộng dài,…
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật(Vội vàng)
Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu(Thơ duyên)
Nắng xuống trời lên sâu chót vót(Tràng giang)
Mơ khách đường xa, khách đường xa ( Đây mùa thu tới)
MỞ RỘNG VĂN XUÔI: Không gian phố huyện rộng->chật (Không gian thu nhỏ:Ngọn đèn con chị Tí, gánh phở Bác Siêu.
Không gian cho chữ (Chữ người tử tù)
Không gian nghệ thuật dùng để mô hình hóa các phạm trù như: Con đường cách mạng, bước đường đời
Trong thơ, hai phạm trù này thường xuyên xuất hiện, nhưng hẳn đó không phải là sự ngẫu nhiên của việc miêu tả hiện thực, cảm xúc.
Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ không gian, thơ ông luôn thể hiện nỗi khắc khoải về không gian, cụ thể là: sầu vũ trụ, buồn sông núi, buồn tràng giang, nhớ quê hương... Bài thơ Tràng giang là một ví dụ:
Không gian trong bài “Tràng giang” trước hết là một không gian tự nhiên, cụ thể là không gian nông thôn được xác định từ các chất liệu: cồn, bãi, bến, ... Cồn thì lơ thơ, bãi thì lặng lẽ, bến thì cô liêu. Nét độc đáo là không gian ấy được khắc hoạ ở trạng thái tĩnh, gần với cách sống hướng nội, suy tư, buồn lặng của nhà thơ. Thứ hai quan trọng hơn cả, nhà thơ miêu tả không gian mênh mông của Tràng giang bằng các tính từ: sâu, rộng, cao, dài, các động từ mở rộng biên độ không gian: xuống, lên, gợn, dạt, và bằng những vật thể bé nhỏ như: củi, cồn, bèo tạo nên sự đối lập giữa con người và không gian làm hiện lên cảm giác rợn ngợp cô đơn của tác giả.
Và cuối cùng, người đọc còn nhận ra không gian Tràng giang là một không gian chết, thiếu vắng hơi ấm của sự sống. Tất cả những hình ảnh về con người, liên quan đến con người và sự sống đều không thấy:
- Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
- Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
- Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Cái mênh mông kết hợp với băng giá càng đẩy người thơ vào tình trạng cô đơn tột độ. Hồn thơ không còn nơi nương tựa nào ngoài một nỗi nhớ quê.
Không gian trong bài Tây Tiến (Quang Dũng) là vùng núi rừng thượng nguồn sông Mã. Một trong những chất liệu để xây dựng hình tượng không gian ấy là những địa danh có khả năng gợi lên những vùng đất xa lạ hoang vu và đầy nguy hiểm : Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu,...Những địa danh ấy còn gợi lên địa bàn hoạt động rộng lớn của binh đoàn . Cho nên hình tượng không gian trong bài Tây Tiến trước hết mang tính đối nghịch, uy hiếp con người. Xây dựng hình tượng không gian này, Quang Dũng muốn đề cập đến những khó khăn, thử thách, hiểm nguy mà lính Tây Tiến thường xuyên phải đối mặt, phải vượt qua và từ đó nhấn mạnh vẻ đẹp bi tráng của người lính.
-Xuân Quỳnh dùng thời gian làm thước đo nỗi nhớ người yêu, nỗi nhớ thường trực đến mức vô thức, nên nó tự nhiên thấm vào ý tứ, câu chữ:
- “Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
(Sóng)
Hình tượng thời gian vận động phi lôgic trong thơ Hàn Mặc Tử đa dạng: sáng, tối
Trong chương trình trung học, bài thơ “Tảo giải ”(Hồ Chí Minh) là một ví dụ. Hình tượng không gian và thời gian trong bài thơ được tác giả nhận thức, miêu tả theo sự vận động tích cực từ đêm sang ngày, từ u ám sang tươi sáng .Sự vận động ấy thể hiện niềm tin, lạc quan của người tù Hồ Chí Minh vào tương lai tươi đẹp. Và nó cũng chính là nguồn thi hứng của bài thơ.
4. Nghệ thuật sử dụng tính từ:
Quá khứ thanh bình, dòng sông Đuống êm đềm trôi xuôi, rực rỡ trong sắc màu trắng tinh khiết:
- Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”
- “Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng…đổ vàng”
Để xây dựng hình tượng đất nước giàu đẹp, rộng lớn, bên cạnh việc sử dụng điệp từ “những”, Nguyễn Đình Thi còn sử dụng các tính từ có chất lượng tạo hình cao.
- “Những ngả đường bát ngát
Những cánh đồng thơm mát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa”
(Đất nước).
5. Nghệ thuật sử dụng từ láy.
* Tính từ láy hoàn toàn: Có chức năng giảm nhẹ tính chất được đề cập, nhưng lại gợi ra một tính chất khác của sự vật hiện tượng.
Ví dụ 1: “Xanh xanh” chỉ màu xanh nhưng sắc độ nhạt hơn sắc độ do từ “xanh” gợi nên. Tuy nhiên nó lại gợi ra một không gian rộng lớn mà cái sắc xanh ấy bao phủ:
“Xanh xanh bãi mía bờ dâu”
(Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm)
“Quân đi điệp điệp trùng trùng”.( Việt Bắc)
“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” (Tây tiến)
“đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa