Ôn tập “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài
Đề 1: Phân tích số phận bất hạnh của nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của tác giả Tô Hoài.
Mở bài
Giới thiệu tác giả
Tô Hoài là một nhà văn lớn thành công trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp.
Ông có vốn kiến thức sâu rộng về phong tục tạp quán của nhiều vùng đất xa xôi trên đất nước ta, đặc biệt là dân tộc ít người ở vùng đất Tây Bắc.
Tô Hoài đã từng nói: “Đất và người Tây Bắc đã để nhớ trong tôi nhiều quá”. Từ đó truyện “Tây Bắc” ra đời.
Giới thiệu tác phẩm
Xuất xứ: “Vợ Chồng A Phủ” được trích trong tập truyện “Tây Bắc” và là truyện ngắn thành công nhất của Tô Hoài cũng như của VHVN thời kháng chiến chống Pháp
Hoàn cảnh sáng tác: Truyện được sáng tác năm 1952 khi nhà văn cùng bộ đội vào giải phỏng Tây Bắc.
Ví trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm. Kể về số phận của những người bị áp bức, bốc lột bởi giai cấp thống trị miền núi. Tiêu biểu là nhân vật Mị và A Phủ.
Giới thiệu luận đề: Số phận bất hạnh của Mị.
Chuyển ý: Sau đây chúng ta cùng phân tích
Thân bài
Dẫn dắt: Cách giới thiệu nhân vật của Tô Hoài.
Tô Hoài đã rất tinh tế khi giới thiệu nhân vật Mị bằng những chi tiết hấp dẫn, lôi cuốn, gợi sự thắc mắc về nhân vật.
Vị trí: Mị luôn ngồi “quay sợi gai”, “bên tảng đá”, “cạnh tàu ngựa”.
+ “Bên tảng đá”: câm lặng, chai sạn về cảm xúc, trơ lì như tảng đá.
+ “Cạnh tàu ngựa”: Mị luôn được so sánh với trâu, với ngựa, cái buồng cô ở, cái chỗ cô làm luôn ở cạnh chuồng ngựa.
Thái độ của Mị: Lúc nào Mị cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị là
Ôn tập “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài
Đề 1: Phân tích số phận bất hạnh của nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của tác giả Tô Hoài.
Mở bài
Giới thiệu tác giả
Tô Hoài là một nhà văn lớn thành công trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp.
Ông có vốn kiến thức sâu rộng về phong tục tạp quán của nhiều vùng đất xa xôi trên đất nước ta, đặc biệt là dân tộc ít người ở vùng đất Tây Bắc.
Tô Hoài đã từng nói: “Đất và người Tây Bắc đã để nhớ trong tôi nhiều quá”. Từ đó truyện “Tây Bắc” ra đời.
Giới thiệu tác phẩm
Xuất xứ: “Vợ Chồng A Phủ” được trích trong tập truyện “Tây Bắc” và là truyện ngắn thành công nhất của Tô Hoài cũng như của VHVN thời kháng chiến chống Pháp
Hoàn cảnh sáng tác: Truyện được sáng tác năm 1952 khi nhà văn cùng bộ đội vào giải phỏng Tây Bắc.
Ví trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm. Kể về số phận của những người bị áp bức, bốc lột bởi giai cấp thống trị miền núi. Tiêu biểu là nhân vật Mị và A Phủ.
Giới thiệu luận đề: Số phận bất hạnh của Mị.
Chuyển ý: Sau đây chúng ta cùng phân tích
Thân bài
Dẫn dắt: Cách giới thiệu nhân vật của Tô Hoài.
Tô Hoài đã rất tinh tế khi giới thiệu nhân vật Mị bằng những chi tiết hấp dẫn, lôi cuốn, gợi sự thắc mắc về nhân vật.
Vị trí: Mị luôn ngồi “quay sợi gai”, “bên tảng đá”, “cạnh tàu ngựa”.
+ “Bên tảng đá”: câm lặng, chai sạn về cảm xúc, trơ lì như tảng đá.
+ “Cạnh tàu ngựa”: Mị luôn được so sánh với trâu, với ngựa, cái buồng cô ở, cái chỗ cô làm luôn ở cạnh chuồng ngựa.
Thái độ của Mị: Lúc nào Mị cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị làm việc như một cỗ máy, 1 cái xác không hồn. Nó như một quá trình được lặp đi lặp lại với nhịp điệu mòn mỏi, chán nản, thiếu sinh khí, thiếu sức sống.
Không gian: đối lập, tương phản giữa:
+ Hình ảnh tấp nập, nhộn nhịp của nhà Thống lí giàu sang quyền quý.
+ Hình ảnh một cô gái nhỏ nhoi, yếu ớt, cô đơn, buồn bã
Cách giới thiệu nhân vật của Tô Hoài rất khéo với cách miêu tả quan sát từ xa đến gần,từ khái quát đến cụ thể nhằm vén lên bức màn bí mật về số phận của một con người.
Phân tích:
Giai đoạn 1: Mị khi còn tự do:
Mị sinh ra trong một gia đình nghèo, mẹ mất sớm, bố thì già yếu
Trước khi bị bắt về làm dâu nhà Thống lí, Mị vốn là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, có tài thổi sáo rất hay. Cô đã có người yêu và đang có một cuộc sống hạnh phúc với bố:
+ Mị là niềm mơ ước của biết bao chàng trai, nên trong đêm tình mùa xuân “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”.
+ Tài hoa của Mị không chỉ dừng lại ở việc thổi sáo mà “Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.
Mị còn là người con hiếu thảo, chấp nhận lao động để trả nợ cho bố. Cô còn là người có lòng tự trọng cao, có nhân phẩm tốt đẹp khi cô ý thức được rằng: Thà lao động cực khổ mà được tự do còn hơn sống trong cảnh giàu sang nhưng phải chịu đày đọa trong kiếp nô lệ. Điều này đã thể hiện qua câu nói đầy xúc động của Mị nói với bố: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô. Con phải làm nương ngô để giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.
Mị khao khát yêu và đang được yêu: Trái tim Mị đã bao lần hồi hợp trước âm thanh hẹn hò trong những đêm tình mùa xuân.
Ở Mị, ta thấy được khát vọng tự do, mãnh liệt, niềm tin trong sáng, sự hồn nhiên của tuổi trẻ. Cô yêu đời, yêu lao động và tràn đầy sức sống. Ở cô, hội tụ tất cả những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Cô xứng đáng có một cuộc sống tốt đẹp, được hưởng tự do và hạnh phúc.
Giai đoạn 2: Số phận của Mị khi về làm dâu nhà thống lí.
Nguyên nhân:
Cha mẹ của Mị nghèo, không có tiền làm đám cưới, phải vay tiền nhà thống lí Pá Tra
Thống lí đã lợi dụng thủ tục cướp vợ của người Mèo để bắt Mị về làm con dâu trừ nợ
Thống lí đã lợi dụng sự mê tín của người dân (tục cúng trình ma) để trói buột, giam hãm cuộc đời của Mị.
Tác giả đã phản ánh sự giã man. Sự tàn nhẫn của giai cấp thống tri miền núi. Chúng đã lợi dụng những hủ tục, lợi dụng cường quyền và thần quyền để đàn áp, bốc lột những người dân thấp cổ bẻ họng.
Mị bị bốc lột, vắt kiệt sức lao động bị hành hạ một cách dã man.
Mị phải làm việc từ sáng đến tối, từ năm này qua tháng nọ, không một phút nghỉ ngơi, làm quần quật như trâu như ngựa. Công việc của Mị là: “tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cách tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”.
Cô không còn tìm thấy niềm vui trong lao động, cô chỉ là người ở không công cho nhà thống lí.
Mị còn bị đánh đập một cách dã man, không thương tiếc:
+ Lần 1: Mị bị A Sử trói đứng bằng chính mái tóc của mình vào cột khi có ý định đi chơi trong đêm tình mùa xuân.
+ Lần 2: Mị bị A Sử đạp thẳng vào mặt khi ngừng tay thoa thuốc cho chồng.
+ Lần 3: Vì thức để thổi lửa sưởi ấm trong đêm đông, Mị bị A Sử vô cớ đạp thẳng vào cửa bếp.
Mị là nạn nhân của giai cấp thống trị miền núi tàn ác, vô nhân đạo. Cô thực chất không phải là con dâu của nhà thống lí Pá Tra mà chỉ là một nô lệ, một công cụ để cho A Sử trút giận.
Mị còn bị áp bức về mặt tinh thần:
“Mỗi ngày Mỵ càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Cô không biết buồn, biết vui, không nói, không cười thậm chí là không suy nghĩ, lúc nào cũng cuối mặt Với nghệ thuật so sánh vật hóa, tác giả đã cho ta thấy được số phận của nhân vật Mị, thậm chí cách so sánh giảm dần ấy đã dẫn đến cuối cùng Mị nghĩ “Mị nghĩ mình không bằng cả con trâu, con ngựa”. Cách nói đầy xót xa, tủi nhục cho thấy sự cam chịu của nhân vật Mị.
Dần dần Mị không còn nhận thức rõ về thời gian lẫn không gian. Mị không thể nhớ nỗi ngày khủng khiếp nhất cuộc đời mình – ngày bị A Sử bắt về làm vợ. Cô không nhận thức được bên ngoài là ngày hay đêm bởi “ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lõ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng”. Đó là thứ tù ngục, giam hãm tinh thần của Mị, giết chết tuổi xuân của cuộc đời Mị. Đây là chi tiết nghệ thuật đắt giá mà Tô Hoài xây dựng.
Mị đã bị tê liệt, cô mất cả ý thức phản kháng. Lúc đầu cô còn khóc lóc, than thở thậm chí cô còn muốn tự tử nhưng rồi cô cam chịu, buông xuôi và chấp nhận số phận cho dòng đời đưa đẩy.
Mị thật đáng thương và tội nghiệp
Đánh giá
Nội dung
Cuộc đời làm dâu của Mị đầy cay đắng và tủi nhục. Mị bị áp bức bốc lột lẫn thể xác và tinh thần. Cô bị tước đoạt quyền sống, tuổi trẻ, tự do một cách triệt để, cô còn bị bốc lột sức lao động, bị xúc phạm nhân phẩm. Cô sống mà như đã chết, nó dường như chỉ là một dạng tồn tại, một cái xác không hồn. Cuộc đời của Mị như bị ngưng đọng: “Không quá khứ, không hiện tại, không tương lai.”. Đây cũng chính là số phận của những người phụ nữ nghèo miền núi trước CMT8.
Giá trị hiện thực của tác phẩm: Tô Hoài đã tố cáo tội ác của giai cấp thống trị miền núi. Chúng đã lợi dụng cường quyền và thần quyền để cai trị, áp bức bốc lột những người dân lao động nghèo khổ, đẩy họ vào kiếp sống nô lệ.
Nghệ thuật
- Nghệ thuật kể chuyện: lối trần thuật hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, giọng văn trầm lắng. Lối trần thuật ăn nhập vs nội dung , tư tưởng tác phẩm.-Nghệ thuật miêu tả tâm lí và tính cách nhân vật :+ Nhà văn ít miêu tả hành động mà chủ yếu là khắc họa tâm tư, thế giới đời sống nội tâm nhân vật.+ Giong kể có lúc hòa nhập vào dòng tâm tư của nhân vật, vẻ lên đủ loại cung bậc tình cảm của nhân vật.- Nghệ thuật tả cảnh : cảnh thiên nhiên thơ mộng được miêu tả bằng ngôn ngữ giàu chất thơ, giàu tính tạo hình. Cảnh miền núi TB hiện lên bởi cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán.
III. Kết bài:
“Vợ chồng A Phủ” là một tuyệt tác nghệ thuật, là một trong nhưng tác phẩm hay nhất, tiêu biểu nhất của Tô Hoài. Tác phẩm là một bức tranh hiện thực sâu sắc về cuộc sống gian khổ của người dân miền núi, ở vùng cao. Họ luôn phải chịu sự bất công, sự áp bức bốc lột của giai cấp thống trị.
Phải là một người am hiểu, một người có kiến thức sâu rộng về phong tục tạp quán của những dân tộc it người của đất nước Việt Nam, Tô Hoài mới có thể miêu tả cụ thể chi tiết và hay đến thế.
Mỗi tác của Tô Hoài sẽ trở thành những bông hoa tỏa sắc trong khu vườn văn học Việt Nam
Đánh giá, cảm nhận của bản thân.
Đề 2: Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.
Mở bài:
Giới thiệu tác giả
Tô Hoài là một nhà văn lớn thành công trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp.
Ông có vốn kiến thức sâu rộng về phong tục tạp quán của nhiều vùng đất xa xôi trên đất nước ta, đặc biệt là dân tộc ít người ở vùng đất Tây Bắc.
Tô Hoài đã từng nói: “Đất và người Tây Bắc đã để nhớ trong tôi nhiều quá”. Từ đó truyện “Tây Bắc” ra đời.
Giới thiệu tác phẩm
Xuất xứ: “Vợ Chồng A Phủ” được trích trong tập truyện “Tây Bắc” và là truyện ngắn thành công nhất của Tô Hoài cũng như của VHVN thời kháng chiến chống Pháp
Hoàn cảnh sáng tác: Truyện được sáng tác năm 1952 khi nhà văn cùng bộ đội vào giải phỏng Tây Bắc.
Ví trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm. Kể về số phận của những người bị áp bức, bốc lột bởi giai cấp thống trị miền núi. Tiêu biểu là nhân vật Mị và A Phủ.
Giới thiệu luận đề: Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuận.
Chuyển ý: Sau đây chúng ta cùng phân tích
Thân bài:
Dẫn dắt:
Tô Hoài đã rất tinh tế khi giới thiệu nhân vật Mị bằng những chi tiết hấp dẫn, lôi cuốn, gợi sự thắc mắc về nhân vật.
Vị trí: Mị luôn ngồi “quay sợi gai”, “bên tảng đá”, “cạnh tàu ngựa”.
+ “Bên tảng đá”: câm lặng, chai sạn về cảm xúc, trơ lì như tảng đá.
+ “Cạnh tàu ngựa”: Mị luôn được so sánh với trâu, với ngựa, cái buồng cô ở, cái chỗ cô làm luôn ở cạnh chuồng ngựa.
Thái độ của Mị: Lúc nào Mị cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị làm việc như một cỗ máy, 1 cái xác không hồn. Nó như một quá trình được lặp đi lặp lại với nhịp điệu mòn mỏi, chán nản, thiếu sinh khí, thiếu sức sống.
Không gian: đối lập, tương phản giữa:
+ Hình ảnh tấp nập, nhộn nhịp của nhà Thống lí giàu sang quyền quý.
+ Hình ảnh một cô gái nhỏ nhoi, yếu ớt, cô đơn, buồn bã
Cách giới thiệu nhân vật của Tô Hoài rất khéo với cách miêu tả quan sát từ xa đến gần,từ khái quát đến cụ thể nhằm vén lên bức màn bí mật về số phận của một con người. Nhưng dẫu số phận của Mị có bất hạnh, có khổ sở như thế nào đi chăng nữa nhưng đâu đó trong thâm tâm Mị vẫn tồn tại những sức sống tiềm tàng, mãnh liệt.
Phân tích
“Tiềm tàng”: vốn có nhưng bị ẩn giấu. Sức sống, khát vọng được tự do, hạnh phúc trong nhân vật Mị không bị mất đi, không bị dập tắt bất chấp sự đàn áp của nhà thống lí. Và nó đã bùng cháy, đã trỗi dậy bộc phát một cách mãnh liệt khi có cơ hội. Cụ thể là qua ba lần:
Những tác nhân đã tác động đến Mị khiến sức sống ấy trỗi dậy:
Thời tiết thất thường ở Hồng Ngài: “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, rét càng dữ.”. Sự lạnh giá đã tác động đến con người khiến cho con người có nhu cầu được sưởi ấm.
Cảnh mùa xuân ở vùng núi cao Tây Bắc đã khơi dậy ở thiên nhiên, con người niềm vui và sức sống cùng với những sắc màu và âm thanh rộn rã. Đó là màu của “những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ”, là hình ảnh “đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Cảnh sắc ấy đã tác động đến Mị.
Âm thanh tiếng sáo: Đây là một tác nhân quan trọng, xuyên suốt cả tác phẩm. Tiếng sáo ấy được tác giả miêu tả từ xa đến gần, từ ngoài vào trong: Đầu tiên, là ở “Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.” Sau đó tiếng sáo đã được miêu tả gần lại, “tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Tiếp theo, tiếng sáo ấy lại càng gần hơn nữa, “Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.” Cuối cùng tiếng sáo ấy đã xâm nhập vào trong tâm hồn của Mị, “Trong đầu Mị rập tờn tiếng sáo”.
Tiếng sáo ấy đã chạm đến nỗi cô đơn, nỗi đau thầm kín của Mị qua lời bài hát. Nó còn chạm vào nỗi nhớ, một quá khứ huy hoàng của cuộc đời Mị. Tiếng sáo ấy đả thổi đi cái lớp tro tàn đang bao phủ lấy Mị, làm bừng dậy sức sống tiềm tàng bấy lâu này.
Men rượu: Đây là tác nhân quyết định, khiến Mị đã có những phản kháng, chi tiết “Mị cũng uống rượu” cho thấy Mị đang chống lại luật lệ nhà thống lí Pá Tra. Cách Mị uống rượu, “uống ực từng bát” cho thấy Mị như đang nuốt chửng sử uất úc, căm phẫn, cay đắng vào trong lòng. Thế nhưng khi uống càng say lại càng nhớ, càng nhớ lại càng đau. Chính men rượu đã dẫn đến hay động nổi loạn của Mị sau này.
Tác nhân thứ nhất chỉ là dấu hiệu, là điềm báo. Tác nhân thứ hai là quan trọng, xuyên suốt cả tác phẩm. Còn tác nhân thứ ba chính là yếu tố quyết định cho hành động này của Mị.
Quá trình thức tỉnh, diễn biến tâm trạng của Mị:
Dấu hiệu cho thấy Mị thức tỉnh là : “Mị ngồi nhẫm thầm theo lời bài hát của người đang thổi”. Đây là âm thanh đầu tiên của Mị sau bao nhiêu năm căm lặng. Hát có nghĩa là Mị đang vui, tâm hồn Mị đang háo hức hướng về tiếng sáo
Mị uống rượu, trong men rượu Mị lâng lâng, lúc đó Mị như phân thành thành 2:
+ Thể xác: “ngồi lịm mặt giữa nhà thống lí nhìn những người lên đồng, người hát”.
+ Tâm hồn: như sống lại những ngày trước, những ngày còn hạnh phúc, vui vẻ, tự do trong quá khứ.
Tâm trạng Mị đã thay đổi, Mị “thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Một cô Mị trẻ trung, yêu đời, có tài thổi sao khiến bao nhiêu người mê đã quay trở lại.
Mị “từ từ bước vào buồng, ngồi xuống giường và trông ra cái lỗ vuông”
+ Hành động này có vẻ nghịch lí nhưng thực chất, Tô Hoài đã rất tinh tế khi xây dựng như vậy vì đây là hành động theo bản năng, thói quen đã hình thành sau bao nhiêu năm bị áp bức, bốc lột ở nhà thống lí
+ Nhìn ra lỗ vuông lần này tâm trạng Mị khác hẳn:
Mị nhận ra một sự thật đã bị bỏ quên bấy lâu nay, đó là “Mị còn trẻ”. Sau bao nhiêu năm tháng mất hết ý niệm về thời gian và không gian, về bản thân thì đây là lần đầu tiên Mị ý thức về bản thân mình.
Sự bất công của cuộc đời mình: “Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mỵ không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.”
Trở về với thực tại, Mị cay đắng nhận ra hiện thực nghiệt ngã của cuộc sống chính mình: chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Nếu trước đây Mị quen khổ đến mức chai sạn về cảm xúc thì giờ đây Mị nghĩ: “nếu có nắm lá ngói trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Đây là biểu hiện của sự phản kháng với hoàn cảnh, của sự xung đột gay gắt giữa một bên là khát vọng sống chân chính đã thức tỉnh với một bên là thực tại đau khổ đang hiện hữu.
Lúc này ý thức của Mị đã hoàn toàn quay trở lại, cô không thể chấp nhận thực trạng ê chề này thêm nữa.
Mị thắp đèn: Hành động này của Mị có vẻ dư thừa nhưng thực chất đây là một hành động đầy ý nghĩa: Mị muốn thắp sáng căn buồng, xua đi bóng tối bao năm phủ trùm xuống cuộc đời mình. Khát vọng sống mãnh liệt
Mị thực hiện một loạt hành động mà không màng đến sự xuất hiện của A Sử: “Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” để chuẩn bị đi chơi:
+ Mị muốn làm đẹp cho mình, đây là nhu cầu tất yếu của người phụ nữ. Mị đã bắt đầu quay trở lại.
+ Mị không quan tâm đến A Sử không phải là sự chống đối, mà thực chất cô đang bị chi phối bởi tiếng sáo, men rượu, cô hành động hoàn toàn theo cảm tính, theo bản năng mà không suy xét theo lí trí.
Lúc khát vọng sống được tự do ở Mị trỗi dậy mạnh mẽ nhất, cũng là lúc nó đã bị vùi dập một cách dã man bởi A Sử. Hắn trói đứng Mị vào cột nhà. “Tóc Mị xõa xuống, hắn quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cuối, không nghiêng đầu được nữa”.
+ A Sử chỉ có thể trói buộc Mị về mặt thể xác chứ không thể giam cầm cô về mặt tinh thần.
+ Dù bị trói, nhưng Mị vẫn thả hồn theo tiếng sáo. “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Lúc này tiếng sáo đã hoàn toàn xâm nhập vào tâm hồn của nhân vật Mị.
Sức sống ấy chỉ bị dập tắt khi Mị tỉnh rượu, bị trói cả đêm, nhớ lại người đàn bà đã chết. Nhớ thế Mị sợ quá, cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Sợ chết có nghĩa là Mị vẫn còn khao khát được sống. Nỗi sợ hãi đã khiến Mị phải từ bỏ việc phản kháng để trở lại một cô Mị vô hồn, vô cảm
Đánh giá:
Nội dung
Cuộc trỗi dậy lần 2 này của Mị không thành. Mị không thoát khỏi căn nhà ấy dù chỉ là một giây nhưng ít ra Mị đã thay đổi. Mị đã sống lại những thời khắc vinh quang của tuổi thanh xuân tươi trẻ và tự do. Chứng tỏ, lòng yêu đời, khát vọng được hạnh phúc trong cô gái Mèo ấy vẫn chưa tắt hẳn.
Cuộc trỗi dậy lần như một đợt sóng dâng lên rồi lại vở tan ra, dù không làm thay đổi cuộc đời Mị nhưng nó sẽ trở thành những đợt sóng ngầm mãnh liệt hơn bao giờ hết và thậm chí là trở thành những con sóng thần làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời Mị ở cuộc trỗi dậy lần 3.
Nghệ thuật
- Nghệ thuật kể chuyện: lối trần thuật hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, giọng văn trầm lắng. Lối trần thuật ăn nhập vs nội dung , tư tưởng tác phẩm.-Nghệ thuật miêu tả tâm lí và tính cách nhân vật :+ Nhà văn ít miêu tả hành động mà chủ yếu là khắc họa tâm tư, thế giới đời sống nội tâm nhân vật.+ Giong kể có lúc hòa nhập vào dòng tâm tư của nhân vật, vẻ lên đủ loại cung bậc tình cảm của nhân vật.- Nghệ thuật tả cảnh : cảnh thiên nhiên thơ mộng được miêu tả bằng ngôn ngữ giàu chất thơ, giàu tính tạo hình. Cảnh miền núi TB hiện lên bởi cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán.
III. Kết bài
“Vợ chồng A Phủ” là một tuyệt tác nghệ thuật, là một trong nhưng tác phẩm hay nhất, tiêu biểu nhất của Tô Hoài. Tác phẩm là một bức tranh hiện thực sâu sắc về cuộc sống gian khổ của người dân miền núi, ở vùng cao. Họ luôn phải chịu sự bất công, sự áp bức bốc lột của giai cấp thống trị.
Phải là một người am hiểu, một người có kiến thức sâu rộng về phong tục tạp quán của những dân tộc it người của đất nước Việt Nam, Tô Hoài mới có thể miêu tả cụ thể chi tiết và hay đến thế.
Mỗi tác của Tô Hoài sẽ trở thành những bông hoa tỏa sắc trong khu vườn văn học Việt Nam
Đánh giá, cảm nhận của bản thân.
Đề 3: Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm đông cứu A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.
Mở bài:
Giới thiệu tác giả
Tô Hoài là một nhà văn lớn thành công trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp.
Ông có vốn kiến thức sâu rộng về phong tục tạp quán của nhiều vùng đất xa xôi trên đất nước ta, đặc biệt là dân tộc ít người ở vùng đất Tây Bắc.
Tô Hoài đã từng nói: “Đất và người Tây Bắc đã để nhớ trong tôi nhiều quá”. Từ đó truyện “Tây Bắc” ra đời.
Giới thiệu tác phẩm
Xuất xứ: “Vợ Chồng A Phủ” được trích trong tập truyện “Tây Bắc” và là truyện ngắn thành công nhất của Tô Hoài cũng như của VHVN thời kháng chiến chống Pháp
Hoàn cảnh sáng tác: Truyện được sáng tác năm 1952 khi nhà văn cùng bộ đội vào giải phỏng Tây Bắc.
Ví trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm. Kể về số phận của những người bị áp bức, bốc lột bởi giai cấp thống trị miền núi. Tiêu biểu là nhân vật Mị và A Phủ.
Giới thiệu luận đề: Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm đông cứu A Phủ.
Chuyển ý: Sau đây chúng ta cùng phân tích
Thân bài:
Dẫn dắt:
Tô Hoài đã rất tinh tế khi giới thiệu nhân vật Mị bằng những chi tiết hấp dẫn, lôi cuốn, gợi sự thắc mắc về nhân vật.
Vị trí: Mị luôn ngồi “quay sợi gai”, “bên tảng đá”, “cạnh tàu ngựa”.
+ “Bên tảng đá”: câm lặng, chai sạn về cảm xúc, trơ lì như tảng đá.
+ “Cạnh tàu ngựa”: Mị luôn được so sánh với trâu, với ngựa, cái buồng cô ở, cái chỗ cô làm luôn ở cạnh chuồng ngựa.
Thái độ của Mị: Lúc nào Mị cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị làm việc như một cỗ máy, 1 cái xác không hồn. Nó như một quá trình được lặp đi lặp lại với nhịp điệu mòn mỏi, chán nản, thiếu sinh khí, thiếu sức sống.
Không gian: đối lập, tương phản giữa:
+ Hình ảnh tấp nập, nhộn nhịp của nhà Thống lí giàu sang quyền quý.
+ Hình ảnh một cô gái nhỏ nhoi, yếu ớt, cô đơn, buồn bã
Cách giới thiệu nhân vật của Tô Hoài rất khéo với cách miêu tả quan sát từ xa đến gần,từ khái quát đến cụ thể nhằm vén lên bức màn bí mật về số phận của một con người. Nhưng dẫu số phận của Mị có bất hạnh,