1.
Chào các bạn trẻ! Ta là Thuỷ Tinh, một người đã không biết hao nhiêu lần đánh nhau với Sơn Tinh để cướp Mỵ Nương, nhưng không hiểu tại sao lần nào ta cũng thua.
Nguyên do cũng vì hôm ấy, ta nghe bọn thuỷ binh bàn tán xôn xao rằng: Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mỵ Nương, người đẹp như hoa, tính nết hiền dịu, ngài thương yêu con gái hết mực, muốn kén cho con một người chồng xứng đáng. Không đợi chờ gì nữa, ta liền đến xin cầu hôn nàng. Nào ngờ khi vừa đến thì gặp một người cùng chung mục đích. Anh ta mặc bộ áo giáp, bước đi rất mạnh mẽ. Cúi xuống lạy vua Hùng: rồi anh ta bắt đầu trổ tài: vẫy tay về phía đông, bỗng dưng phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía lây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Mọi người đồn rằng, anh ta vốn là Sơn Tinh, là chúa tể của vùng non cao. Anh chàng giỏi giang đấy, nhưng so sao được với ta, chúa miền nước thẳm. Ta vuốt nhẹ bộ quần áo được thết bằng những chiếc vẩy cá to và cứng đang mặc rồi xin được trổ tài. Ta vung tay, cất tiếng gọi oang oang. Bỗng đâu một luồng gió mạnh nổi lớn, rồi mây đen ùn ùn kéo đến, mưa trút xuống ào ào. Nhìn xung quanh nhà vua và triều thần, ai nấy đều khiếp sợ, ta vui lắm. Trổ tài xong, ta cũng lạy tạ vua Hùng. Ngài băn khoăn không biết chọn ai, từ chối ai, Ngài phán:
- Hai chàng đều vừa ý ta, nhưng ta chỉ có một người con gái. Thôi thì ngày mai, ai đem sính lễ đến trước ta sẽ gả con gái cho.
Chúng ta tâu hỏi đồ sính lễ cần sắm những gì, ngài nghĩ ngại một lúc rồi bảo:
- Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ phải đủ một đôi.
Thật tức, những thứ đó sẵn có ở chỗ Sơn Tinh, ta tìm kiếm thì khó khăn lắm. Nhưng một người tài giỏi như ta, không có gì là không làm được. Nào ngờ hôm sau, mới tờ mờ sáng, Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến rước Mỵ Nương về núi.
Ta đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận, đem quân đuổi theo đánh Sơn Tinh. Vừa đuổi theo, ta vừa hét; "Sơn Tinh, trả Mỵ Nương cho ta!" Trận đánh giữa hai chúng la diễn ra thật ác liệt. Ta hô mưa, gọi gió, làm thành giông bão rung chuyển cả đất trời. Nước ngập nhà cửa, ruộng đồng, tưởng như thành Phong Châu đang nổi lềnh bềnh trên biển nước. Ta đinh ninh chắc hẳn mình giành lại được Mỵ Nương nên rất đắc chí. Nhưng không, dù gió thét ào ào, mưa trút như thác, Sơn Tinh vẫn đứng vững vàng, nét mặt bình thản bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi ngăn chặn dòng nước lũ. Hắn và ta đánh nhau ròng rã mấy tháng trời. Cuối cùng, ta đuối sức, đành rút quân về.
Từ đó oán nặng, thù sâu, năm nào ta cũng làm mưa gió bão lụt dâng nước đánh hắn. Nhưng lần nào cũng vậy, vẫn không thắng nổi hắn để cướp lại Mỵ Nương, ta lại lủi thủi rút quân về, với tâm trạng đầy oán hận.
2.
Các cháu có biết ta là ai không? Ta chính là Thánh Gióng, người năm xưa đã một mình đánh thắng lũ giặc Ân hung ác. Bây giờ ta sẽ kể cho các cháu nghe về cuộc đời của ta lúc bấy giờ nhé!
Các cháu ạ! Ta vốn là sứ thần của Ngọc Hoàng sai xuống giúp đỡ dân làng đánh đuổi quân xâm lược đang nhăm nhe xâm chiếm nước ta. Muốn được sống cùng với nhân dân, Ngọc Hoàng ra lệnh cho ta đầu thai xuống một gia đình lão nông hiếm muộn đường con cái. Một ngày đẹp trời ta thấy bà lão phúc hậu vào rừng, ta liền hoá thành một vết chân to và bà lão đã tò mò ướm thử vậy là ta đầu thai vào bà cụ. Khỏi phải nói hai ông bà đã vô cùng mừng rỡ khi chờ mãi, sau mười hai tháng ta mới ra đời. Ông bà càng vui hơn khi thấy ta rất khôi ngô tuấn tú. Hai ông bà chăm sóc yêu thương ta hết lòng, ông bà ngày ngày mong ta khôn lớn như những đứa trẻ khác ấy vậy mà mãi đến tận năm ba tuổi ta vẫn chẳng biết cười, nói cũng chẳng biết đi. Các cụ rất buồn, thấy vậy ta rất thương nhưng vì sứ mệnh mà Ngọc Hoàng đã trao cho nên ta vẫn phải im lặng.
Thế rồi giặc Ân đến xâm lược nước ta, chúng kéo đến đông và mạnh khiến ai ai cũng lo sợ. Nhìn khuôn mặt lo âu của dân làng và cha mẹ, ta biết rằng đã đến lúc ta phải ra tay giúp đỡ họ. Một hôm, đang nằm trên giường nghe thấy sứ giả đi qua rao tìm người giỏi cứu nước, thấy mẹ đang ngồi buồn rầu lo lắng, ta liền cất tiếng bảo mẹ:
- Mẹ ơi! Mẹ đừng buồn nữa, mẹ hãy ra mời sứ giả vào đây cho con nói chuyện.
Nghe ta cất tiếng nói mẹ vô cùng ngạc nhiên, mừng rỡ và mẹ ta càng ngạc nhiên hơn khi ta đòi gặp sứ giả vì đó không phải là chuyện đùa, đọc thấy nỗi lo của mẹ ta vội trấn an mẹ:
- Mẹ đừng lo lắng gì cả cứ ra mời sứ giả vào đây!
Nửa tin nửa ngờ nhưng mẹ ta vẫn vội vã ra mời sứ giả vào. Sứ giả bước vào căn nhà nhỏ tuềnh toàng của cha mẹ ta, ông ta vô cùng ngạc nhiên nhìn thấy ta lúc này vẫn chỉ là thằng bé nằm ở trên giường, sứ giả có vẻ không tin tưởng lắm nhưng khi nghe ta nói: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này". Nghe những lời nói đầy quả quyết của ta sứ giả hiểu rằng ta không phải là một đứa trẻ bình thường, sứ giả vội vã trở về tâu với vua và vua cũng vui mừng truyền thợ giỏi ở khắp nơi đến làm gấp những thứ ta cần. Ai ai cũng phấn khởi khi thấy vua đã tìm được người tài.
Còn ta khi sứ giả đi rồi ta liền vùng dậy và vươn vai mấy cái đã thành người lớn. Ta bảo mẹ nấu cho ta nồi cơm ăn cho no để chuẩn bị đi đánh giặc. Mâm cơm vừa bưng lên ta ăn một loáng đã hết nhẵn mà chẳng thấy no gì cả, mẹ lại đi nấu nồi khác cho đến khi nhà không còn gì để ăn. Ta ăn vào bao nhiêu thì lớn như thổi bấy nhiêu, đến nỗi quần áo phải thay liên tục. Mẹ ta thấy ta ăn ba nhiêu cũng chưa no trong khi gạo thì đã hết, bà cụ liền chạy nhờ bà con hàng xóm. Bà con đều vui lòng giúp mẹ ta vì biết ta là người sẽ đi đánh giặc cứu dân làng. Mọi người đến nhà ta nườm nượp, người có gạo góp gạo, người có rau, cà góp rau cà, tóm lại ai có gì góp nấy. Mọi người còn đến giúp mẹ ta thổi cơm cho ta ăn, ta ăn bao nhiêu lại to lớn lừng lững bấy nhiêu. Những ngày đó làng ta ai cũng khấp khởi vui mừng vì mong đợi ta nhanh chóng đi giết giặc, cứu nước.
Một ngày, dân làng nhận được tin giặc đã kéo đến chân núi Trâu. Làng ta lại được một phen khiếp sợ, trẻ con kêu khóc, người lớn thì lo âu, các cụ già thì trầm ngâm, ai ai cũng khiếp sợ. Mọi người nhìn ta như cầu cứu. Ta rất hiểu tâm trạng của họ và đúng lúc đó sứ giả đem những thứ ta cần đến. Lúc này, ta vùng đứng dậy, vươn vai một cái đã biến thành một tráng sĩ cao lớn phi thường, thế nên tất cả những thứ sứ giả vừa mang đến chẳng còn vừa với ta nữa. Thấy vậy, mọi người lại tức tốc đi tìm thợ về rèn ngựa sắt, áo giáp sắt cho ta, họ làm ra chiếc nào lại cho ta thử chiếc ấy và ta chỉ khẽ bẻ đã gẫy, mãi sau mới có những thứ vừa với sức ta. Mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn sàng, ta liền mặc áo giáp sắt, tay cầm roi sắt, nhảy lên mình ngựa, oai phong lẫm liệt. Ta nhớ hôm đó bà con ra tiễn ta rất đông mọi người nhìn ta đầy tin tưởng, khắp nơi vang lên lời chúc chiến thắng và ta còn nhìn thấy cả những giọt nước mắt tự hào, yêu thương của cha mẹ ta. Từ biệt bà con xóm giềng, cha mẹ những người đã yêu thương, nuôi nấng, ta thầm hứa sẽ chiến đấu hết lòng để không phụ công của bà con dân làng, cha mẹ.
Sau phút chia tay, một mình một ngựa ta lao thẳng vào trận đánh. Ngựa đi đến đâu phun lửa rừng rực đến đó, lũ giặc vô cùng khiếp sợ. Chúng đổ rạp và tan xác dưới roi sắt của ta và ngọn lửa của con chiến mã. Cả bãi chiến trường đầy thây quân giặc. Đúng lúc thế trận đang lên như vũ bão thì cây roi sắt trong tay ta gẫy gập, ta liền nhổ lấy những khóm tre quanh mình quật liên tiếp vào lũ giặc. Lũ giặc lại được một phen khiếp sợ, rơi vào thế hỗn loạn và chẳng mấy chốc bỏ chạy tan tác khắp nơi. Những tên may mắn sống sót vội vã thoát thân bỏ chạy vào hẻm núi sâu, tìm cách trở về nước. Làng quê sạch bóng quân thù. Tiếng reo vui của dân làng vang lên rộn rã.
Nhìn trăm họ hạnh phúc ta vô cùng sung sướng, vậy là sứ mệnh Ngọc Hoàng giao cho ta đã hoàn thành, chợt nhớ đến cha mẹ già ta cũng muốn về thăm nhưng lời Ngọc Hoàng dặn dò khi hoàn thành sứ mệnh phải trở về trời khiến ta chẳng dám trái lệnh. Nhìn đất nước, dân làng một lần cuối ta thúc ngựa phi lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt, rồi cả người và ngựa lẳng lặng bay về trời. Ta ra đi nhưng trong lòng đầy tiếc nuối vì không được sống cùng những người dân hiền lành tốt bụng. Dẫu vậy, ta cũng hài lòng vì từ đây ai ai cũng được sống trong cảnh thanh bình, hạnh phúc.
Sau đó, vua đã phong cho ta là Phù Đổng Thiên Vương. Ta cảm thấy rất vui khi được nhận danh hiệu đó, bởi ta đã đem đến sự bình yên và hạnh phúc cho mọi người. Đó chính là điều quý giá nhất đối với ta, nó còn quý hơn cả ngọc ngà châu báu mà nhà vua hứa ban tặng cho ta sau khi đánh thắng quân giặc.
3.
thạch sanh:
Ngày xưa, ở huyện Cao Bình có hai vợ chồng tiều phu lần hồi chặt củi đổi lấy gạo nuôi thân. Tuy nghèo khổ, nhưng họ thường giúp đỡ mọi người. Thấy họ tốt bụng và hiếm muộn, Ngọc Hoàng sai thái tử xuống đầu thai làm con của họ. Thế là bà vợ có mang. Nhưng kì lạ thay, đã qua mấy năm mà bà vợ vẫn không sinh nở. Người chồng lâm bệnh qua đời. Mãi sau, bà vợ mới sinh được một cậu con trai, và đặt tên là Thạch Sanh. Khi cậu bé vừa lớn khôn thì bà mẹ cũng qua đời.
Thạch Sanh một mình thui thủi sống dưới túp lều nát dưới gốc đa, tài sản chỉ có mỗi chiếc búa của cha để lại. Cậu tiếp tục đôn củi kiếm sống. Ngọc Hoàng sai các thiên thần xuống dạy Thạch Sanh võ nghệ và các phép thần thông.
Một hôm, Lí Thông, một tay bán rượu đi ngang qua gốc đa. Hắn thấy Thạch Sanh vạm vỡ vừa gánh một gánh củi lớn về. Hắn nghĩ : Chà ! Người này khoẻ như voi. Nó mà về ở cùng ta thì lợi biết mấy. Lí Thông lân la gợi chuyện làm quen. Thạch Sanh thật thà kể cho hắn nghe gia cảnh. Lí Thông vội gạ chàng kết nghĩa anh em. Đang cô đơn, nay có người thông cảm, quan tâm, Thạch Sanh cảm động vui vẻ nhận lòi. Chàng từ biệt gốc đa, về sông với mẹ con Lí Thông.
Bấy giờ, trong vùng có một con chằn tinh hung dữ, có phép lạ, hay ăn thịt người. Dân làng phải lập miếu thờ và mỗi năm phải nộp cho nó một mạng người để cho nó đỡ phá phách. Năm ấy, đến lượt Lí Thông nộp mình, mẹ con hắn vô cùng lo sợ. Chiều hôm ấy, chờ Thạch Sanh kiếm củi về, mẹ con Lí Thông dọn một mâm rượu ê hề mời Thạch Sanh ăn, rồi bảo :
- Đêm nay, đến phiên anh canh miếu, ngặt vì dở cất mẻ rượu, em chịu khó thay anh, đến sáng thì về.
Thạch Sanh thật thà nhận lời đi ngay.
Nửa đêm, Thạch Sanh đang thiu thiu ngủ thì chằn tinh từ sau miếu hiện ra, giơ nanh vuốt định vồ lấy chàng. Thạch Sanh choàng tỉnh lấy búa đánh lại. Chằn tinh hoá phép, lúc biến lúc hiện. Không hề sợ hãi, Thạch Sanh trổ hết võ nghệ đánh lại chằn tinh. Lưỡi búa của chàng đã chém xả chằn tinh làm hai mảnh. Chằn tinh hiện rõ nguyên hình là một con trăn khổng lồ, cạnh xác nó là một cầy cung bằng vàng. Thạch Sanh chặt đầu chằn tinh, rồi lấy bộ cung tên mang về. Đang ngủ, bỗng nghe tiếng gọi cửa, tưởng hồn oan Thạch Sanh hiện về, mẹ con Lí Thông hoảng sợ, lạy van rối rít. Thạch Sanh vào nhà kể lại chuyện chúng mối hoàn hồn. Nhưng Lí Thông vốn là một tay thâm hiểm, tham lam, độc ác, hắn nảy ra một kế khác, hắn nói :
- Chết, con trăn ấy là của vua nuôi đã lâu. Nay em giết nó ắt phải tội chết. Thôi em mau trốn đi ! Mọi việc ở nhà anh sẽ lo liệu.
Thật thà, Thạch Sanh tin ngay lời hắn. Chàng vội vàng từ biệt mẹ con Lí Thông rồi trở về gốc đa, lại ngày ngày kiếm củi nuôi thân. Còn Lí Thông hí hửng đem đầu chằn tinh vào cung nộp cho nhà vua. Hắn được trọng thưởng và được phong làm Quận công.
Công chúa con vua đến tuổi lấy chồng. Hoàng tử nhiều nước đến cầu hôn, nhưng không ai vừa ý nàng. Nhà vua mở hội lớn cho hoàng tử các nước, và con trai trong thiên hạ đến để công chúa lựa chọn. Khi công chúa chuẩn bị ném quả cầu lựà chọn hôn phu thì bỗng bị một con đại bàng khổng lồ quắp đi. Đại bàng bay qua lều của Thạch Sanh. Chàng dùng cung tên bắn theo. Mũi tên trúng cánh đại bàng, nhưng nó gắng sức bay về hang. Thạch Sanh .lần theo vết máu, tìm được chỗ ở của nó.
Từ ngày con gái mất tích, nhà vua vô cùng đau khổ, ngài ra lệnh cho Lí Thông đi tìm, và hứa nếụ tìm thấy sẽ gả công chúa và truyền ngôi cho. Lí Thông vừa mừng, vừa sợ. Nhưng cuối cùng hắn cũng nghĩ được một kế hay. Hắn truyền lệnh mở hội hát xướng mưòi ngày để dò la tin tức. Đến ngày thứ mười thì Thạch Sanh đến và kể lại chuyện bắn đại bàng. Lí Thông mừng rỡ liền nhờ chàng dẫn đến hang quái vật. Đến nơi, Thạch Sanh xin xuống hang cứu công chúa. Quân lính dòng dây thả chàng xuống hang.
Đại bàng vốn là một yêu tinh ở trên núi có nhiều phép lạ, tuy bị thương nặng, nhưng khi thấy Thạch Sanh nó vùng ngay dậy, vung cánh, chĩa vuốt lao đến đánh. Thạch Sanh dùng cung tên bắn mù hai mắt nó, vung búa chặt đứt vuốt sắc và bổ đôi đầu con quái vật. Rồi chàng lấy dây buộc công chúa và ra lệnh cho Lí Thông kéo lên. Công chúa lên khỏi mặt đất, Lí Thông sai lính đưa nàng về cung, và ra lệnh vần đá lấp kín cửa hang nhằm giết chết Thạch Sanh.
Biết mình bị hại, Thạch Sanh cố tìm lối thoát. Chàng đi sâu vào hang, chợt thấy một thanh niên tuấn tú bị nhốt trong cũi sắt, đó chính là thái tử con vua Thuỷ Tề. Thạch Sanh lấy cung tên bắn tan cũi cứu thái tử. Thoát nạn, thái tử cảm ơn Thạch Sanh rốì rít và mời chàng xuống chơi thuỷ phủ. Vua Thuỷ Tề mừng vui khôn xiết, đã đổi xử với Thạch Sanh rất hậu. Khi Thạch Sanh xin phép ra về, nhà vua biếu chàng rất nhiều vàng bạc, nhưng Thạch Sanh một mực từ chối và chỉ xin một cây đàn. Chàng lại về sông thui thủi dưới gốc đa.
Hồn chằn tinh và đại bàng bị giết lang thang khắp nơi, và tình cờ gặp nhau, chúng bàn cách trả thù Thạch Sanh. Chúng vào cung vua ăn cắp một sô đồ vật quý, lén bỏ vào lều của Thạch Sanh. Thế là Thạch Sanh bị hạ ngục.
Về phía công chúa, từ khi được cứu, nàng bỗng lại bị câm. Vua sai các thầy thuốc giỏi khắp cả nước đến chữa chạy, nhưng bệnh không hề thuyên giảm. Sông trong ngục tối, một hôm buồn rầu Thạch Sanh đem đàn ra gảy. Tiêng đàn nỉ non, ai oán, trách móc… vẳng vào hoàng cung, đến tai công chúa. Vừa nghe tiếng đàn, công chúa bỗng cười nói vui vẻ. Nàng xin vua cho gọi người đánh đàn vào cung.
Công chúa nhận ra người đã cứu mình. Trước mặt mọi ngưòi, Thạch Sanh kế hết nguồn cơn, từ việc kết bạn với Lí Thông, đến chuyện chém chằn tinh, giết đại bàng, cứu công chúa, đến việc bị Lí Thông lấp cửa hang, rồi cuối cùng bị bắt oan nhốt vào ngục. Mọi người hiểu ra câu chuyện. Vua truyền bắt hai mẹ con Lí Thông và giao cho Thạch Sanh xét xử. Chàng không nỡ giết chúng mà cho về quê làm ăn. Nhưng hai mẹ con Lí Thông về đến nửa đường thì bị sét đánh và hoá kiếp thành bọ hung.
Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Hôn lễ được tổ chức rất linh đình. Thấy vậy, bọn hoàng tử các nước chư hầu trước đây bị công chúa từ hôn lấy làm tức giận, đã hội binh cả mười tám nưốc đến đánh. Thạch Sanh xin nhà vua không động binh để dân tình khỏi bị kinh động. Chàng đem đàn ra gảy. Tiếng đàn vừa cất lên réo rắt, thì quân sĩ các nước bủn rủn hết cả chân tay và phải xin hàng. Trước khi chúng lui binh, Thạch Sanh sai dọn một bũa cơm thiết đãi. Nhưng chàng chỉ dọn một niêu cơm bé xíu, bọn binh sĩ các nước bĩu môi, không muốn cầm đũa. Biết ý, Thạch Sanh đố họ ăn hết niêu cơm và nếu ăn hết sẽ được trọng thưởng. Binh sĩ mười tám nưốc ăn mãi, ăn mãi nhưng niêu cơm bé tí cứ hết lại đầy. Rốt cục, chúng cúi đầu lạy tạ vợ chồng Thạch Sanh rồi kéo nhau về nước.
Về sau, vua không có con trai, đã nhường ngôi cho Thạch Sanh.
em bé thông minh:
Ngày xưa, mỗi khi nhà vua muốn tìm người tài giỏi ra giúp nước thường cử các quan đi vào các làng xóm, cho rao mõ kén người tài, như trường hợp Thánh Gióng. Ra câu đối hoặc nêu một vấn đề gì đó nan giải để thử tài như trường hợp “ Em bé Thông Minh” này.
Khi phát hiện được nhân tài rồi, nhà vua và triều đình còn tìm cách thử thách thêm nữa. Sự thử thách có khi là chữ nghĩa, cũng có khi chỉ là vấn đề cần đến sự hiểu biết của trí thông minh.
Trường hợp em bé trên đây là thử tài bằng cách tìm khiếu thông minh. Khi viên quan hỏi cha mẹ: “một ngày cày được mấy đường” có ai đếm đường cày làm gì, cho nên người cha không trả lời được, nhưng em bé thì biết cách trả lời thông minh: “Ngựa của ông đi một ngày mấy bước thì tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi ngày cày được mấy đường”.
Thế là viên quan mừng quýnh lên về tâu với vua. Vua cũng mừng nhưng đểthử lại trí thông minh một lần nữa, nhà vua bắt dân làng làm một việc trái khoáy, nghĩa là làm cái việc theo cách thức dân dã, tự nhiên thì không làm được, mà phải đối đầu với nhà vua bằng trí tuệ. Vì vậy khi vua giao cho dân làng: “Ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh làm sao nuôi ba con trâu ấy thành chín con, hẹn năm sau phải nộp đủ, nếu không thì cả làng chịu tội”
Được lệnh ấy dân làng lo lắng, họp bàn nhiều lần mà vẫn không sao giải quyết được. Thấy thế em bảo cha: “Cứ đem hai thúng gạo nếp và hai con trâu mà “đánh chén” cho sướng, còn một thúng gạo và một con trâu làm lộ phí để con vào kinh giải quyết.” Lúc đầu người cha và dân trong làng sợ không dám làm. Nhưng khi nhớ lại cái thông minh của con khi đối đáp với viên quan ngoài đồng, người cha yên tâm làm theo ý con, cả làng ăn khao.
Đến đây thì người đọc đã đoán ra một đốm sáng của trí thông minh mà chính nhà vua đã gợi ra là tại sao lại giao ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực? Em bé đã đoán trước mọi người ý định quắt quéo này của nhà vua!
Quả nhiên khi vào đến cung đình, em dùng lời kể ngay thẳng, thật thà có dụng ý dẫn vua vào một sự giải tỏa thách đố. Em khóc, nhà vua hỏi tại sao khóc, thì em trả lời: “Mẹ em chết sớm, em muốn có em mà cha em không chịu đẻđể anh em chơi với nhau. Mong được nhà vua phán bảo.
Vua và các quan cười ồ lên nói: “Mày muốn có em thì phải kiếm vợ hai cho bố mày, bố mày giống đực làm sao mà đẻ được”.
Biết nhà vua và triều thần đã mắc lừa lời nói để lộ ra mình mưu mô bắt bí, em liền tấn công:
“Tâu đức vua, thế sao làng con lại có lệnh trên nuôi ba con trâu đực đẻ thành chín con để nộp nhà vua?”
Vua cười vui, thích thú vì đã gặp một bé thông minh, liền nói: “Ta thử đấy thôi, thế làng không đem trâu ấy ra thịt mà ăn à?”
Em bé vội đáp: “Làng chúng con sau khi đã nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của vua ban đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.”
Đến đây em muốn nói thêm rằng: “Thật ra sau khi nấu xôi, mổ trâu nhiều người còn sợ không dám ăn. Tình thế lúc ấy diễn ra có hai tình trạng: một là cả làng thiếu sự đồng tâm nhất trí, vì người ăn người không ăn và như thế để xôi, thịt thừa thãi ôi thối. Em thấy thế liền nói với cha đi báo cho mọi người: “Con trâu còn sống bỗng nhiên nói em bé lập cho bản làm giao kèo, cam đoan sẽ chịu hết tội lỗi nếu nhà vua quở phạt. ”
Thế là ai cũng vội vàng ra đình nhận phần của mình, cho nên đến khi vua hỏi, em bé đã nói: “Cả làng con từ già đến trẻ đều được hưởng lộc vua ban, nên reo mừng chúc nhà vua sống lâu trăm tuổi”.
Câu chuyện về em bé thông minh vẫn còn được nối tiếp bằng hai sự việc nữa:
Nhà vua mang tới con chim sẻ, yêu cầu làm thành ba cỗ thức ăn. Em bé xin cha một cây kim đưa cho sứ giả yêu cầuvua rèn kim thành ba con dao để xẻ thịt chim làm cỗ.
Lúc đó vua mới phục tài em thực sự.
Một lần nữa, có sứ nước láng giềng đưa sang một con ốc rất dài, rỗng hai đầu, yêu cầu xâu một sợi chỉ mỏng xuyên qua đường vỏ ốc. Vua và triều đình bó tay, phải cầu đến em bé thông minh. Em đang mãi chơi đùa nên hát mấy câu:
“Tính tình tang! Tính tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang…”
Viên quan trở về tâu với vua làm theo lời bé quả nhiên sợi chỉ sâu qua con ốc một cách dễ dàng. Sứ giả nướcláng giềng phục tài, bỏ ý đồ xâm lược. Nhà vua phong cho em làm Trạng Nguyên. Nhưng Trạng chưa thể mặc được áo, mũ vua ban vì còn bé quá.
thánh gióng