Mở bài
Nhà thơ Huy Cận sinh năm 1919 quê ở Hà Tĩnh. Ông là nhà thơ lớn của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận nổi tiếng với tập “Lửa thiêng”, thơ ông sâu thẳm mà buồn. Đi theo Cách mạng, hồn thơ ông đổi mới, khỏe khoắn, vui tươi. Ông thường viết về cảnh non sông đất nước và miêu tả cuộc sống của những con người lao động trong xã hội mới. Trong một chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh (1958) được chứng kiến, được hòa nhập vào cảnh làm ăn tập thể của người dân lao động nơi đây, ông đã cảm xúc sáng tác ra bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” (mà nổi bật nhất và để lại trong em ấn tượng khó phai mờ là những khổ thơ sau):
(Trích dẫn bài thơ hoặc đoạn thơ mà đề yêu cầu)
Thân bài
Đại ý:
Bài thơ là niềm tự hào về đất nước giàu đẹp, về cuộc sống mới và đặc biệt là hình ảnh con người mới hăng say, dũng cảm lao động, xây dựng cuộc sống mới tốt đẹp.
Phân tích:
Mở đầu bài thơ là hình ảnh hoàng hôn trên biển cả, đoàn thuyền xuất phát và tiếng hát cất lên lạc quan:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa,
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”.
Khổ thơ chỉ bốn câu nhưng được tách làm hai phần nhằm miêu tả hai lực lượng đối lập nhau: Thiên nhiên và con người. Ở đây vũ trụ đã được tác giả liên tưởng, so sánh, nhân hóa thật tài tình. “Mặt trời” đỏ ối được ví như một “hòn lửa’ khổng lồ đang tụt dần xuống lòng biển sâu. “Sóng” và “đêm” cũng như hai con người cẩn thận “cài then”, “sập cửa’ để có một bóng tối yên tĩnh.
Hình ảnh trong hai câu thơ này vừa hiện thực vừa lãng mạn nhằm diễn tả vũ trụ đang chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi sau một ngày hoạt động.
Nhưng vũ trụ có được như mong muốn đâu. Tuy đã “cài then”, “sập cửa” rồi mà đoàn thuyền đánh cá “lại ra khơi”. Từ “lại” trong câu thơ thứ ba tưởng như thừa nhưng đọc kỹ ta lại thấy nó không thể thiếu được, hóa ra nó nhấn mạnh rằng, cứ mỗi khi mặt trời tắt lịm, thiên nhiên và vũ trụ đi vào giấc ngủ yên tĩnh thì con người lại bắt đầu công việc lao động của mình đã bao nhiêu đêm rồi, đâu chỉ một đêm nay.
Cả khổ thơ này còn đối lập cả về nhạc điệu. Nếu như hai câu thơ đầu được diễn tả bằng những động từ: “xuống”, “cài”, “sập” và những thanh trắc tắc nghẽn “lửa”, “cửa” như diễn tả sự lụi tàn của thiên nhiên trong đêm tối, thì sang câu thơ thứ ba, khi “đoàn thuyền đánh cá” xuất hiện, câu thơ được mở ra bằng vần bằng “khơi” gợi cho ta liên tưởng đến sự lao vút giữa bao la của đoàn thuyền đánh cá.
Tất cả những sự đối lập ấy là nhằm diễn tả sự hào hứng, vui tươi, lạc quan của đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong cảnh hoàng hôn.
Không chỉ có vật, trong khổ thơ này ta còn bắt gặp cả hình ảnh thơ diễn tả tiếng hát tâm hồn của người lao động. Câu thơ “câu hát căng buồm cùng gió khơi” là những chi tiết vừa có thực vừa mang sức tưởng tượng bay bổng. Cánh buồm, gió khơi, câu hát là những chi tiết có thực khi đoàn thuyền đánh cá ra khơi. Còn tiếng hát như có sức mạnh làm “căng buồm” như gió là chi tiết tưởng tượng, bay bổng diễn tả được tâm hồn phơi phới, lạc quan của ngư dân. Ở đây, tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe, lạ mà có thật từ sự gắn kết ba sự vật, hiện tượng: Cánh buồm, gió khơi và câu hát của người đánh cá.
Tả hoàng hôn, tả thuyền, tả biển với tiếng hát hòa tiếng sóng chính là để diễn tả tâm hồn dào dạt, say mê của con người trước biển quê hương, là khí thế sôi nổi, khẩn trương, lạc quan yêu đời của cảnh làm ăn tập thể của người dân.
Sang khổ hai, biển Đông được tác giả hình dung thật giàu đẹp và nên thơ qua lời hát của những người ngư dân:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
“Cá bạc” là hình ảnh lấy từ thành ngữ “Rừng vàng biển bạc” kết hợp với hình ảnh so sánh bất ngờ, lý thú, tác giả đã so sánh cá thu ở biển Đông nhiều như “đoàn thoi” để ca ngợi sự giàu có của biển quê hương. Con thoi trong khung cửi để con người dệt vải, còn ở đây Huy Cận đã liên tưởng so sánh những con cá thu thon dài như những đoàn thoi dệt biển bằng “muôn luồng sáng”, ánh sáng phát ra từ mắt cá, vảy cá, đuôi cá làm cho câu thơ lấp lánh ánh sáng muôn màu muôn sắc. Sự vận động, bơi lội của cá thu đã được nhân hóa bằng động từ “dệt” kết hợp với câu cầu khiến tha thiết: “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” đã thể hiện được nỗi ước ao chân thành, giản dị mà rất chính đáng của người ngư dân, họ mong ước đánh đánh bắt được nhiều cá tôm.
Tiếp theo là các khổ thơ 3, 4, 5, 6 miêu tả cảnh đánh cá trên biển:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Hình ảnh những con thuyền lướt trên sóng biển đã được trí tưởng tượng phong phú của nhà thơ khắc họa thành những con thuyền kỳ vĩ, khổng lồ không chỉ lướt trên “biển bằng” mà như là đang bay, đang hòa vào vũ trụ bao la với gió, với trăng, với mây. Giữa khung cảnh ấy, đoàn thuyền đánh cá hiện lên rất thực mà cũng rất hào hùng:
“Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Những người ngư dân đã nắm chắc tri thức khoa học để “dò bụng biển” tìm luồng cá và “dàn đan thế trận” như một cuộc chiến đấu thực sự để giành lấy từ lòng thiên nhiên những của cải, tài nguyên làm giàu cho đất nước, phục vụ đời sống con người. Họ rất hiểu biển, hiểu quy luật của sóng nước nên họ không sợ bão tố, phong ba. Thiên nhiên trước mắt họ bây giờ là những hình ảnh thơ mộng đến say lòng.
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”
Với biện pháp liệt kê các loại cá: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song...Câu thơ đã diễn tả sự giàu có của biển quê hương, các loại cá bơi lội dưới nước khi lướt qua thì lấp lánh, khi quẫy nhẹ đuôi thì phản chiếu “ánh trăng vàng chóe” kết hợp với nghệ thuật nhân hóa “Đêm thở”, “sao lùa”...tác giả đã giúp ta hình dung thấy biển về đêm với những nhịp sóng lúc dâng cao, lúc hạ thấp như một con người khổng lồ đang thở. Điều gì đã làm nên nhịp thở của biển đêm? Ấy là ánh sao, những ánh sao từ trên trời cao kia đã “lùa nước”, đã làm nên nhịp thở của biển đêm.
Hình ảnh thơ ở đây thật mới lạ, bất ngờ, đầy quyến rũ, nó như một bức tranh sơn mài tuyệt đẹp, trong đó lấp loáng ánh bạc của cá, ánh vàng của trăng và lốm đốm những ánh sao rơi hòa vào sóng nước trên màn đêm đen thẳm của biển khơi.
Càng lao động càng hăng say. Câu hát ở đầu bài thơ đến đây đã trở thành cả một bài ca gọi cá:
“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”
Tác giả đã thi vị hóa công việc lao động nặng nhọc của người dân chài: “gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”. Bài ca gọi cá của họ hay tuyệt vời đến độ trăng phải cùng xuống gõ thuyền cho cá vào đầy lưới, cho nhịp hát ngân xa. Bằng biện pháp nhân hóa, trăng như con người biết dùng những cánh tay là những ánh trăng - gõ nhẹ vào mạn thuyền tạo nên những âm thanh nhẹ nhàng giúp đoàn thuyền gọi cá vào.
Không chỉ có vậy, ở khổ thơ này nhà thơ còn sử dụng nghệ thuật so sánh thật độc đáo, những người dân chài đã ví biển “như lòng mẹ” đã nuôi họ lớn từ bao đời nay, qua đó ta thấy được tình yêu của biển, biển thật hiền hòa, nhân từ. Với hình ảnh so sánh này ta còn thấy được cả tình cảm cảm biết ơn của người dân chài đối với biển cả và tình yêu mến thiết tha biển quê hương của họ.
Lao động suốt cả đêm với một nỗ lực phi thường hết sức khẩn trương, bây giờ thì:
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”
Tư thế của người dân chài mới đẹp làm sao, hình ảnh “kéo xoăn tay” đã hiện lên trong tâm trí người đọc những cánh tay gân guốc, khỏe khoắn của sức thanh xuân đang kéo lên những “chùm cá nặng”, những “vẩy bạc, đuôi vàng, lóe rạng đông” để thong dong xếp lưới, căng buồm lên đón ánh bình minh dậy, kết thúc một đêm lao động nặng nhọc, vất vả.
Khổ thơ cuối là cảnh trở về của đoàn thuyền đã được miêu tả rất đẹp, rất hào hùng:
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”
Đoàn thuyền ra đi và trở về đều rộn ràng tiếng hát: “Tiếng hát căng buồm” với một tốc độ hối hả, khẩn trương. Hình ảnh “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” là hình ảnh nhân hóa thật hùng vĩ và rực rỡ nó thể hiện sự lớn lao, ngông cuồng nhưng lại rất đáng yêu. Đó chính là tâm hồn say sưa, lãng mạn của Huy Cận trước cuộc sống xây dựng đất nước sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc nước ta. Và đoàn thuyền ấy chạy về dưới ánh nắng của buổi bình minh tươi sáng:
“Mặt trời đội biển nhô màu mới,”
Mở đầu là hình ảnh “mặt trời’, kết thúc cũng là hình ảnh “mặt trời” nhưng là mặt trời rực rỡ với ánh bình minh. Hình ảnh mặt trời hoàng hôn ở đầu bài thơ và hình ảnh mặt trời buổi bình minh ở cuối bài thơ vừa là hình ảnh thực phù hợp với một chuyến đi biển vừa là hình ảnh tượng trưng: Mặt trời rực rỡ ánh bình minh ấy phải chăng đó chính là cuộc sống mới, sức sống mới đang bắt đầu trên miền Bắc nước ta. Hình ảnh “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” ở cuối bài thơ là hình ảnh chứa nhiều sức tưởng tượng phóng đại nhưng đã nói lên được vẻ đẹp của thành quả lao động và niềm vui của con người.
Đoàn thuyền trở về cá tươi đầy khoang và mắt cá lấp lánh dưới ánh mặt trời như muôn triệu những mặt trời nhỏ trên mặt đất, góp thêm ánh sáng và vẻ đẹp vào buổi bình minh. Trên bầu trời rực rỡ ánh mặt trời lớn, dưới mặt đất óng ánh muôn triệu mặt trời nhỏ...Những mặt trời, những ánh sáng ấy chính là thành quả lao động của những người dân chài vùng biển. Có thể nói, cả khổ thơ cuối là khúc hát tràn đầy sức sống, là khúc ca chiến thắng của những ngư dân, của những con người lao động mới.
Kết bài
Tóm lại, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận đã diễn tả một cách sinh động và hấp dẫn một đêm lao động ngoài biển khơi của những “ngư phủ” mới. Qua cách miêu tả vừa lãng mạn vừa tưởng tượng phong phú, ta thấy hồn thơ của Huy Cận đã đổi mới. Ông không thể hiện nỗi buồn nữa mà đã thể hiện niềm vui, miêu tả vẻ đẹp của những con người lao động lớn, vẻ đẹp của non sông đất nước và bộc lộ một tình cảm tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống của con người thi sĩ. Bài thơ là một khúc khải hoàn ca vừa trữ tình vừa duyên dáng đã để lại ấn tượng đẹp đẽ trong lòng người đọc, giúp cho ta càng thêm yêu mến quê hương đất nước mình. Học bài thơ, hiểu bài thơ em thấy mình càng phải cố gắng học tập tốt và rèn luyện đạo đức để mai sau trở thành người công dân có ích, có tri thức để góp phần xây dựng đất nước mình giàu đẹp hơn.