Câu 1
Khổ thơ cuối là nỗi nhớ quê hương được bộc lộ một cách chân thành, tha thiết của tác giả. Dù phải xa cách quê hương nhưng không vì đó mà làm mờ nhạt đi tình yêu quê hương trong ông, ngược lại ông “luôn tưởng nhớ”, đó là nỗi nhớ luôn thường trực và xuyên suốt trong lòng ông. Nỗi nhớ quê hương được thể hiện qua những cảnh vật quen thuộc. Tác giả nhớ về “Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi”, đó là những hình ảnh quen thuộc, gắn liền với người dân miền biển. Đó còn là nỗi nhớ về khung cảnh sinh hoạt nơi làng chài quê mình. "Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá", mùi nồng mặn ở đây chính là hương vị làng chài, là hương vị riêng đầy quyến rũ của quê hương được tác giả cảm nhận bằng tấm tình trung hiếu của người con xa quê. Đó là vẻ đẹp tươi sáng, khoẻ khoắn, mang hơi thở nồng ấm của lao động của sự sống, một tình yêu gắn bó, thuỷ chung
Câu 2
'Nước Đại Việt ta" đã làm nổi bật cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc của Nguyễn Trãi. Nhân nghĩa vốn là khái niệm đạo đức của nho giáo, nói về đạo lí, cách ứng xử và tình thương giữa con người với nhau. Nhân nghĩa là tinh thần vì dân, là chính nghĩa của nhân dân, mang bản sắc dân tộc. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi vừa kế thừa, vừa có bước phát triển so với tư tưởng của Nho giáo. Phát triển khi theo Nguyễn Trãi, nhân nghĩa chỉ quan hệ giữa dân tộc với dân tộc, gắn nhân nghĩa với yêu nước chống xâm lược, lấy dân làm gốcỞ đây, nhân nghĩa không phải là lòng thương người một cách chung chung, mà nhân nghĩa là để an dân, trừ bạo ngược để cứu nước, cứu dân " trước lo trừ bạo". Dân ở đây là dân Đại Việt, “Yên dân” là làm cho dân được hưởng thái bình, hạnh phúc, bảo vệ đất nước, diệt trừ bạo , tức là diệt giặc Minh . Đây là tư tưởng cốt lõi của mọi quốc gia, dân tộc, là cội nguồn sức mạnh của cuộc kháng chiến