Tham khảo : Đoạn 1 Bình Ngô đại cáo
Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã mười lăm vạn viện binh của giặc Minh, tướng giặc Vương Thông buộc phải giảng hòa, chấp nhận rút quân về nước. Cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, chấm dứt hai mươi năm thảm khốc dưới ách đô hộ của giặc Minh, mở ra kỷ nguyên hoà bình lâu dài cho dân tộc. Nguyễn Trãi thừa lệnh chủ soái Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô. Đây là một bản tổng kết về cuộc kháng chiến vĩ đại để báo cáo rộng rãi cho toàn dân được biết. Đại cáo bình Ngô được coi là "bản tuyên ngôn độc lập thứ hai" sau Thơ Thần của Lý Thường Kiệt, xứng đảng là áng "thiên cổ hùng văn" trong lịch sử văn chương nước ta.
Với nghệ thuật chính luận chặt chẽ và cảm hứng trữ tình sâu sắc, tác giả đã tố cáo tội ác tày trời của kẻ thù xâm lược, đổng thời ca ngợi sức mạnh thần kì của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Toàn bộ nội dung Đại cáo bình Ngô được triển khai trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa và chân lý về chủ quyền độc lập của nước Đại Việt.
Có một chi tiết xưa nay ít ai để ý nhưng thật ra nó rất có ý nghĩa, đó là tại sao Nguyễn Trãi lại gọi quân xâm lược nhà Minh là giặc Ngô và viết Đại cáo bình Ngô? Từ Ngô xuất hiện từ khi nhà Ngô đời Tam Quốc xâm chiếm và cai trị nước ta hết sức tàn ác. Sau đó, từ Ngô nhập vào vốn ngôn ngữ dân gian của Đại Việt và trải qua hàng nghìn năm, nó được dùng để chỉ quân giặc phương Bắc nói chung với thái độ khinh bỉ. Như vậy là Nguyễn Trãi đã cố ý dùng cách gọi mà nhân dân quen gọi để bày tỏ thái độ căm phần và coi thưởng của mình.
Nguyễn Trãi mở đầu bài cáo bằng đạo lí nhân nghĩa được xây dựng trên nền tảng là tư tưởng thần dân mà ông rất coi trọng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nhân nghĩa là mối quan hệ giữa con người với con người được xây dựng bằng tình thương yêu và đạo lí. Điếu đáng nói hơn nữa là Nguyễn Trãi đã đưa vào tư tưởng nhân nghĩa một nội dung mới rút ra từ thực tiễn của lịch sử dân tộc Theo ông, yên dân trước hết là phải trừ bạo để cho dân được sống yên lành, hạnh phúc trong một đất nước độc lập, hoà bình.
Trong bài văn này cũng như trong các tác phẩm khác của Nguyễn Trãi, không chỉ là dân đen, con đò chung chung mà đã cụ thể ra là mạnh, lệ (kè đi cày, người đi ở), là dân mọn nơi xóm làng, là nhân dân lao động ở khắp bốn phương đất nước. Giặc giày xéo đất nước đổng nghĩa với giày xéo nhân dân Lo nước tức là dân, thương nước tức thương dân, cứu nước tức cứu dân. Nước và dân là một.
Nhân nghĩa không còn hạn hẹp trong phạm vi đạo đức mà đã là một lý tưởng xã hội, một đường lối chính trị lấy dân làm gốc (dân vi bản) làm chỗ dựa. Vi thế phải chăm lo cho dân chúng được no ấm, bình yên.
Tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với sự nghiệp chống xâm lược. Nhân nghĩa là chống xâm lược, chống xâm lược là nhân nghĩa. Như vậy là Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu nhân nghĩa xảo trá của địch và phân định rạch ròi ta là chính nghĩa, giặc là phi nghĩa.
Dân tộc ta vùng lên chiến đấu chống xâm lược là phù hợp với đạo lí nhân nghĩa, cho nên sự tồn tại có chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt cũng là một chân lý khách quan.
Sau đó, Nguyễn Trãi viết tiếp bằng giọng văn hào hùng, thể hiện lòng tự hào, tự tôn về đất nước có một nền văn hiến lâu đời:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có
Đại Việt là một đất nước có cương vực, ranh giới rõ ràng (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư - Thơ Thần), từ lâu đời đã song song tồn tại cùng các quốc gia phương Bắc. Phong tục tập quán cũng khác hẳn phương Bắc. Các triều đại vua Nam xưng đế, hùng cứ một phương, chứ không phải là chư hầu. Truyền thống văn hiến có tự ngàn năm củng với hào kiệt đời nào cũng có đã khẳng định Đại Việt là quốc gia cổ phù quyển độc lập, tự do.
So với bài Thơ Thần của Lý Thường Kiệt thì Đại cáo bình Ngô thực sự là một bước tiến dài của Nguyễn Trãi trong việc hoàn chỉnh khái niệm về quốc gia và dân tộc. Lý Thường Kiệt với bài Thơ Thần cũng nhấn mạnh chủ quyền dân tộc ở lãnh thổ riêng biệt, ở ý chí độc lập thể hiện trong việc xưng đế, trong sức mạnh đánh bại quân xâm lược để bảo vệ nền độc lập ấy. Nhưng Nguyễn Trãi đã nâng cao khái niệm đó lên rất nhiều. Các vua Nam cũng xưng đế chẳng khác gì các đời vua của Trung Quốc: mỗi bên xưng đế một phương, hoàn toàn ngang hàng, bình đẳng. Nguyễn Trãi cũng nói đến bờ cõi riêng biệt, nhưng không viện đến quy định của trời mà nói đến truyền thống văn hiến, tức nói đến nền văn hoá của con người sống trên bờ cõi đó, có nghĩa là nói đến một dân tộc với đầy đủ tư cách độc lập. Như vậy, chủ quyển của quốc gia Đại Việt là một chân lý tất nhiên, không có bạo lực nào xâm phạm nổi- Tác giả đã chứng minh cho đạo lí nhân nghĩa bằng chính những chứng cứ còn 0/7/trong lịch sử:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Của Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Sự thất bại thảm hại của Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã Nhi được tác giả đưa ra để nhấn mạnh ý: những thế lực phi nghĩa ắt phải tiêu vong, đổng thời khẳng định chiến thắng luôn đứng về phía những người đấu tranh cho chính nghĩa. Cách lập luận của Nguyễn Trãi trong đoạn này thật hùng hồn và sắc sảo.
Chỉ bằng hai mươi bốn câu, với những chi tiết cụ thể và nhận định khái quát, tác giả đã vẽ ra thảm cảnh của dân tộc Đại Việt dưới ách đô hộ của giặc Minh. Cả đất nước chỗ nào thịt da cũng như rướm máu, chỗ nào cũng vang lên tiếng thét căm giận, oán than. Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng đanh thép kết tội bọn bán nước và quân cướp nước.
Trước hết, tác giả vạch trần âm mưu xâm lược, sau đó lên án chủ trương cai trị thâm độc và cuối cùng là tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác của giặc Minh