1.
- Từ năm 1945 đến năm 1949, vượt qua nhiều khó khăn, nhất là sự chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, các nước Đông Âu đã hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ của cách mạng dân chủ nhân dân. Đó là:
+ Xây dựng bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân.
+ Tiến hành cải cách ruộng đất.
+ Quốc hữu hóa những xí nghiệp lớn của tư bản nước ngoài và trong nước.
+ Thực hiện các quyền tự do dân chủ.
+ Cải thiện đời sống nhân dân.
2.
Tháng 3/1985, M Gooc -ba - chop (M.Gorbachev) tiến hành cải tổ đất nước theo đường lối “cải cách kinh tế triệt để”, tiếp theo là cải cách hệ thống chính trị và đổi mới tư tưởng. Sau 6 năm, do không có sự chuẩn bị đầy đủ các điều kiện, lại thiếu một đường lối chiến lược toàn diện, nhất quán nên đất nước Xô Viết khủng hoảng toàn diện:
- Kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường vội vã, thiếu sự điều tiết của nhà nước nên gây ra hỗn loạn, thu nhập giảm sút nghiêm trọng.
- Chính trị và xã hội: mất ổn định (xung đột sắc tộc, ly khai liên bang..),thực hiện đa nguyên chính trị làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng và nhà nước.
3 em ko biết
4
- Từ năm 1945 đến năm 1949, vượt qua nhiều khó khăn, nhất là sự chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, các nước Đông Âu đã hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ của cách mạng dân chủ nhân dân. Đó là:
+ Xây dựng bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân.
+ Tiến hành cải cách ruộng đất.
+ Quốc hữu hóa những xí nghiệp lớn của tư bản nước ngoài và trong nước.
+ Thực hiện các quyền tự do dân chủ.
+ Cải thiện đời sống nhân dân.
⟹ Lịch sử các nước Đông Âu đã bước sang một trang mới
5.Tháng 12 - 1978, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đề ra đường lối mới, mở đầu cho công cuộc cải cách kinh tế - xã hội của đất nước và đạt được nhiều thành tựu to lớn.
- Nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng, đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới.
+ Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 9,6%/năm, đạt giá trị 8740,4 tỉ nhân dân tệ, đứng hàng thứ bảy thế giới.
+ Tổng giá trị xuất nhập khẩu năm 1997 lên tới 325,00 tỉ USD (tăng gấp hơn 15 lần so với năm 1978 là 20 tỉ USD).
+ Cũng tính đến năm 1997, có 145 nghìn doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động ở Trung Quốc và đã đầu tư vào Trung Quốc hơn 521 tỉ USD.
- Từ năm 1978 đến năm 1997, thu nhập bình quân tính theo đầu người ở nông thôn tăng từ 133,6 lên 1090,1 nhân dân tệ, ở thành phố từ 343,4 lên 5160,3 nhân dân tệ.
6.
Hoàn cảnh ra đời của tổ chức ASEAN:
ASEAN ra đời vào nữa sau những năm 60 của thế kỉ XX, trong bối cảnh các nước trong khu vực:
- Sau khi giành được độc lập, nhiều nước trong khu vực cần có sự hợp tác cùng nhau trong cùng phát triển.
- Muốn hạn chế chế ảnh hưởng của các cường quốc ngoài đối với khu vực,nhất là khi cuộc chiến tranh xâm lược VN của Mĩ ngày càng tỏ rõ ko tránh khỏi thất bại cuối cùng.
- Trên thế giới xuất hiện nhiều tổ chức hợp tác mang tính khu vực: Khối thị trường chung châu Âu(EEC), cổ vũ các nước ĐNA tìm cách liên kết với nhau.
- 8.8.1967 Hiệp hội các quốc gia ĐNA (ASEAN) được thành lập tại Băng cốc (Thái Lan) với 5 nước đầu tiên : Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Thái Lan và Xingapo.
* Mục tiêu của ASEAN : là tiến hành sự hợp tác giữa các nước thành viên nhằm phát triển kt và văn hóa trên tinh thần duy trì hòa bình và ổn định khu vực.
7.
- Mục tiêu họat động :
Phát triển kinh tế và văn hóa thông qua những nổ lực hợp tác chung giữa các nước thành viên, trên tinh thần duy trì hoà bình và ổn định khu vực.
- Nguyên tắc hoạt động:
+ Tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
+ Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
+ Không sử dụng và đe doa bằng vũ lực với nhau.
+ Giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình.
+ Hợp tác phát triển có hiệu quả trong kinh tế, văn hóa, xã hội.
8.
- Khi tiến hành cải tổ ở Liên Xô (1985) Gocbachop đã tiến hành cải cách kinh tế trước nhưng sau đó lại chuyển sang cải cách chính trị: thực hiện đa nguyên đa Đảng, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Nhà nước Xô Viết và ĐCS Liên Xô -> khủng hoảng ngày càng trầm trọng hơn
- Trung Quốc: Công cuộc cải cách – mở cửa được thực hiện dưới sự chỉ đạo của 1 Đảng duy nhất là ĐCS Trung Quốc
9.
Tình hình châu Á luôn không ổn định mặc dù hầu hết các nước đã giành được độc lập là do:
- Châu Á có vị trí chiến lược quan trọng, các nước đế quốc cố tìm mọi cách để duy trì địa vị thống trị của mình ở châu lục này bằng cách gây ra những cuộc xung đột khu vực và tranh chấp biên giới lãnh thổ.
- Các nước đế quốc tiếp tay cho các phong trào li khai với những hành động khủng bố dã man, nhất là ở các khu vực Tây Á (còn gọi là vùng Trung Đông) làm cho cục diện châu Á luôn không ổn định và căng thẳng.
10.
Quá trình can thiệp của Mỹ vào Việt Nam (1948–1975) là quá trình diễn biến của hàng loạt các chính sách, biện pháp chính trị, ngoại giao và quân sự của Mỹ nhằm thực hiện những mục tiêu của họ tại khu vực Đông Dương (trong đó Việt Nam là trọng tâm). Quá trình này được coi là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự kéo dài của Chiến tranh Đông Dương và cũng là sự châm ngòi cho Chiến tranh Việt Nam diễn ra sau đó. Vai trò của Mỹ đã dần dần đi từ viện trợ, cố vấn cho tới việc trực tiếp tham chiến.
Theo các sự kiện chính thức, sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam được coi là bắt đầu vào năm 1964, khi các nhóm quân viễn chinh Mỹ đầu tiên đổ bộ lên Đà Nẵng. Tuy nhiên thực tế những hạt mầm của sự can thiệp này đã được gieo từ rất lâu trước đó, ngay từ năm 1948 khi Chiến tranh Đông Dương đang diễn ra, và kéo dài tới tận năm 1975, khi chiến tranh Việt Nam kết thúc với sự thất bại của Hoa Kỳ và sự sụp đổ của chính phủ bản xứ thân Mỹ là Việt Nam Cộng hòa.
11.
- Năm 1933, Tổng thống Mĩ F. Ru - dơ - ven đưa ra chính sách "láng giềng thân thiện" mở đầu thời kì thực dân mới ở Mĩ la tinh.
- Sau chiến tranh thế giới thứ 2, với ưu thế về quân sự, Mĩ đã tìm cách biến Mĩ la tinh thành "sân sau" của mình. Mĩ gây sức ép buộc các nước Mĩ la tinh chấp nhận kế hoạch "Cô - lay - tơn" - còn gọi là "hiến chương kinh tế của Châu Mĩ" với nội dung tự do buôn bán, đầu tư, mở xí nghiệp, tạo điều kiện cho tư bản Mĩ xâm nhập rộng rãi vào các nước Mĩ la tinh.
- Mĩ ép các nước Mĩ la tinh tham gia hàng loạt các hiệp ước quân sự với sự khống chế chặt chẽ của Mĩ như Hiệp ước phòng thủ chung Tây bán cầu (1947), Hiệp ước quân sự tay đôi (1952), hiệp ước chống cộng đồng (1954)...
- Do chính sách của Mĩ, các nước Mĩ la tinh tuy hình thức là các nước cộng hòa độc lập, nhưng thực tế là thuộc địa kiểu mới của Mĩ.
=> Tất cả những điều nói trên chính là những chính sách biểu hiện sự bành trướng của Mĩ với các nước Mĩ la tinh. Sau này, ở Mĩ la tinh dây lên phong trào dân chủ chống đế quốc và có giai đoạn được ví như "lục địa bùng cháy".
12.
So sánh điểm giống và khác nhau giữa Mĩ Latinh, châu Phi và Đông Nam Á thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX:* Giống:- Nhân dân các nước ở Mĩ Latinh, châu Phi, Đông Nam Á đều phải chống sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây.- Phong trào đấu tranh của nhân dân đều diễn ra mạnh mẽ.
* Khác:
- Châu Á, châu Phi đấu tranh chống đế quốc thực dân và tay sai để giải phóng dân tộc và giành lại chủ quyền.
- Khu vực Mĩ Latinh đấu tranh chống lại các thế lực thân Mĩ để thành lập các chính phủ dân tộc, dân chủ, qua đó giành độc lập và chủ quyền dân tộc
13.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Qua hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Việt Nam đã vươn lên từ một quốc gia nghèo đói, kém phát triển trở thành quốc gia đang phát triển, có thu nhập trung bình.
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam ghi nhận những dấu mốc quan trọng. Ở giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới (1986-1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4%. Trong giai đoạn 2011-2015, GDP của Việt Nam đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới. Năm 2019, GDP nước ta tăng 7,02%. Việt Nam đã chuyển từ nhóm thu nhập thấp sang thu nhập trung bình. Quy mô nền kinh tế đứng thứ 44 thế giới. Môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ đó thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư cho phát triển. Cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại; giảm dần khu vực nông nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và công nghiệp. Cơ cấu kinh tế năm 2019 cũng có những chuyển biến tích cực với tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm xuống 13,96% GDP, so với mức 14,68% của năm 2018. Tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 34,49%; khu vực dịch vụ chiếm 41,64%. Việc ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ cao, đã tạo những tiền đề để bước đầu chuyển sang xây dựng kinh tế tri thức.
Việt Nam không chỉ quan tâm đến tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn ý thức rất rõ yêu cầu nâng cao chất lượng tăng trưởng, chú trọng phát triển bền vững. Việc tăng trưởng kinh tế cơ bản gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. An sinh xã hội cơ bản được bảo đảm. Hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội phát triển khá đồng bộ, nhất là trong vấn đề giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, chính sách ưu đãi người có công, trợ giúp xã hội, chính sách bảo hiểm y tế toàn dân, tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về văn hóa, y tế và giáo dục.
Việt Nam cũng đóng góp vào công việc chung thế giới, từng bước hội nhập quốc tế; thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 nước trên thế giới, hoàn thiện mạng lưới đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, nâng tổng số lên 30 đối tác trong năm 2019. Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả, góp phần nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt là công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chuyển biến mạnh mẽ, quyết liệt, có bước đột phá và đạt nhiều kết quả rõ rệt. Sự đoàn kết, thống nhất, phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội được tăng cường. Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết về đổi mới và chỉnh đốn Đảng, về những vấn đề cơ bản và cấp bách đối với công tác xây dựng Đảng và ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đảng luôn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo nền tảng vững chắc để đất nước phát triển; quan tâm sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh, triển khai đồng bộ công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán với điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng, kinh tế; kỷ luật nghiêm minh nhiều cán bộ, đảng viên; quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, đạo đức, đủ năng lực và uy tín, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Quá trình hơn 30 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước của Đảng được đánh giá là một giai đoạn lịch sử quan trọng đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng. Những thành tựu trong công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã khẳng định đường lối đổi mới là hoàn toàn đúng đắn. Thế và lực mới của đất nước sau hơn 30 năm đổi mới sẽ là tiền đề vững chắc, là động lực, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục đoàn kết, kiên định mục tiêu và con đường chủ nghĩa xã hội được đề ra tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.