Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ sống trong cùng một thời đại: vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Đây là thời kì đầy biến động trong lịch sử dân tộc. Từ năm 1858, Pháp đã chính thức nổ súng xâm lược Việt Nam ở cửa biển Đà Nẵng. Triều đình nhà Nguyễn nhanh chóng đầu hàng để Pháp dễ dàng chiếm được đất nước, lên nắm quyền và thiết lập một chế độ nhà nước nửa thực dân phong kiến. Vua Nguyễn vẫn còn nhưng thực chất chỉ là con bù nhìn để Pháp giật dây, điều khiển mà thôi. Cuối thế kỉ XIX, triều đình càng lúc càng trở nên thối nát. Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng và đang ở bên bờ vực của sự sụp đổ. Đời sống nhân dân khổ cực bởi thuế má nặng nề, xã hội tăm tối, nửa tây nửa ta, nhiều hệ giá trị lung lay và sụp đổ. Đồng tiền trong xã hội và sự phi nhân tính lên ngôi. Cuộc sống bất công, tàn ác với biết bao điều lố lăng, nực cười trở thành lẽ thường tình diễn ra hàng ngày. Chính vì chứng kiến những điều “trướng tai gai mắt ấy” những nhà nho nhân cách cao đẹp, yêu nước và trăn trở với vận mệnh dân tộc đều mang nặng nỗi đau thế sự. Họ đã mang cái thở dài của mình vào trong thơ: có cả nỗi buồn, chua xót và cả tiếng cười phỉ báng sâu cay.
Tú Xương và Nguyễn Khuyến có nỗi niềm tâm sự giống nhau. Đó chính là hiện thực xã hội thực dân nửa phong kiến đầy rẫy những bất công, bạo ngược và tình cảnh khốn cùng của nhân dân lao động trong sáng tác của các ông. Không khó để người đọc có thể bắt gặp trong thơ hai ông tâm sự về lòng yêu nước, về thời thế và hiện thực xã hội với một sự đau xót, cảm thông trước cảnh lầm than của nhân dân. Càng đau xót bao nhiêu thì sức tố cáo, đả kích lại càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Tú Xương đã viết về tình cảnh khốn khó, cùng cực phải chạy ăn từng bữa, lo toan đủ thứ điều dù đã cố gắng:
“Van nợ lắm khi tràn nước mắt
Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi
Biết thân thuở trước đi làm quách
Chẳng ký, không thông, cũng cậu bồi!”
Còn với Nguyễn Khuyến, ông viết về hiện thực xã hội khi đồng tiền có sức mạnh ghê gớm, mua được cả công lí vào đạo đức của con người, đặc biệt là những kẻ làm quan:
“Nổi tiếng mượn màu son phấn mụ
Đem thân chuộc lấy tội tình cha
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ?
Đời trước làm quan cũng thế a?”
Không chỉ gặp nhau trong nỗi niềm về đất nước, thơ Tú Xương và Nguyễn Khuyến cũng nói lên tình yêu quê hương đất nước và sự trân trọng, nâng niu tình cảm bạn bè và gia đình. Người đọc hẳn vẫn còn nhớ bức tranh thu với không gian quen thuộc ở làng quê Bắc Bộ trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến. Đó là một bầu trời cao rộng với những con ngõ trúc quanh co, vắng lặng, yên tĩnh, chỉ có ông cụ già ngồi bó gối buông cần chờ cá cắn câu:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Ta cũng cảm động trước một tình bạn cao đẹp, thiêng liêng vượt lên trên mọi vật chất tầm thường giữa Nguyễn Khuyến và người bạn của mình:
“Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta”
Còn với Tú Xương hầu hết những bài thơ trữ tình của ông dành cho bà Tú với một sự trân trọng, biết ơn của người chồng khi chứng kiến những gánh nặng đặt cả trên đôi vai gầy của bà Tú. Với Tú Xương, bà Tú không chỉ là vợ, mà đối với ông, bà còn như một người ân nhân ở bên cạnh, tảo tần, vất vả sớm tối trong khi ông luôn trào phúng vì sự bất lực, vô dụng của mình. Tú Xương viết về bà Tú bằng những vần thơ thật đẹp:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Đồng điệu trong nỗi niềm trước cuộc đời, trước cảm xúc là thế, song thơ của hai ông vẫn có sự khác biệt, đặc biệt là khác biệt trong giọng điệu. Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều sáng tác thơ trào phúng và thơ trữ tình. Với Nguyễn Khuyến,thơ trữ tình của ông có giọng điệu biến đổi linh hoạt, khi thì đằm thắm lúc lại đau xót. Còn tiếng cười trào phúng trong thơ ông là tiếng cười hóm hỉnh, nhẹ nhàng, thâm trầm đầy ngụ ý. Mặc dù cũng là sự mỉa mai, châm biếm nhưng ta vẫn thấy trong ấy sự tự trào. Trong bài thơ Tiến sĩ giấy, thứ “đồ thật - đồ chơi” được đánh tráo khái niệm với nhau khiến cho người ta mù mờ, không phân biệt được thật giả. Lòng tin về một hình mẫu con người từng được chế độ phong kiến đề cao không còn tồn tại với Nguyễn Khuyến nữa, bởi nạn mua quan bán chức diễn ra quá phổ biến lúc bấy giờ. Điều ấy cũng đồng nghĩa với việc giá trị, thước đo giá trị của kẻ làm quan không gì khác chính là họ có ích gì cho buổi ấy, tức là khả năng đảm trách được những việc lớn của quốc gia đại sự trong khi vận nước đang nguy khốn. Nếu không có được khả năng đó, tất thảy những ông nghè thật cũng chỉ là mộ thứ đồ chơi mà thôi:
“Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi !”
Với Tú Xương thơ trữ tình của ông chỉ yếu viết về bà Tú - người phụ nữ tảo tần, đảm đang, chịu thương chịu khó, với tất cả lòng yêu thương, trân trọng và cảm phục. Còn với thơ trào phúng, tiếng cười trong thơ Tú Xương là tiếng cười suồng sã, sâu cay và dữ dội. Đọc thơ trào phúng của Tú Xương người đọc vừa đau xót với hiện thực, lại vừa hả hê sung sướng vì những bức chân dung châm biếm của những con người đức cao vọng trọng xuất hiện trong tác phẩm của ông. Trong bài thơ Vịnh khoa thi hương quang cảnh trường thi với những sĩ tử, quan trường, giám thị được hiện lên qua những nét vẽ:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Âm ọe quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra”
Một cuộc thi để lựa chọn người tài phụng sự đất nước nhưng ở đây ta chỉ thấy sự nhốn nháo, ô hợp, lẫn lộn và những hình ảnh hài hước, châm biếm: sĩ tử thì lôi thôi nhếch nhác, quan trường thì ậm ọe, gào thét, trang phục của mụ đầm, vợ quan sứ thì lòe loẹt, nhố nhăng,...Tất cả đã biến trường thi thành một sân khấu tấu hài hợm hĩnh. Bài thơ cũng là sự phẫn uất của Tú Xương trước chế độ thi cử và nỗi lo của ông trước tình cảnh của đất nước.
Sở dĩ có sự khác nhau ấy là bởi Nguyễn Khuyến là người học rộng, tài cao rất thuận lợi trong con đường thi cử. Ông đã đỗ đạt cao. Thi hương, thi hội, thi đình ông đều đỗ đầu nên nhân dân trong vùng gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông là người tài năng, có cốt cách thanh cao và một tấm lòng yêu nước, thương dân. Ông chỉ làm quan trong khoảng mười năm còn phần lớn cuộc đời là dạy học và sống thanh bạch ở quê nhà. Tú Xương cũng là một người tài giỏi nhưng ông lại không may mắn trong thi cử mà cứ mãi long đong, lận đận. Ông đi thi nhiều lần nhưng cũng chỉ đậu được tú tài. Cuộc sống khó khăn với gánh nặng cơm áo gạo tiền, ông chẳng giúp được gì cho vợ con mà mọi thứ đè lên vai bà Tú. Vì thế mà giọng thơ của ông vừa chua chát, vừa bất lực lại vừa mạnh mẽ, phẫn uất.
Có thể nói, Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ nổi tiếng của nước ta những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Những sáng tác của hai ông đã góp phần làm nên thanh điệu khác nhau cho nền thơ ca nước nhà. Cả hai ông đều có những nỗi niềm tâm sự về sự căm ghét xã hội thực dân nửa phong kiến thối nát, nhố nhăng với đầy rẫy những bất công và sự đồng cảm, sẻ chia với cuộc sống của nhân dân cũng như trân trọng những tình cảm thiêng liêng, cao quý trong cuộc đời mỗi người. Song đọc thơ hai ông, ta sẽ nhận ra ngay màu sắc, cá tính và cái tôi của hai người. Sự khác biệt trong giọng điệu tạo nên dấu ấn riêng của người nghệ sĩ. Cũng nhờ thế ta cũng hiểu thêm và trân trọng hơn những gì mà họ đã đóng góp cho thơ ca dân tộc
.