MB:
Bàn về ý nghĩa văn chương, trong bài Tiếng nói của văn nghệ, Nguyễn Đình Thi viết: “Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”. Nghệ thuật là tiếng nói của tình cảm, của chính tác giả, là kết tinh sự quan sát và trải nghiệm trong cuộc sống. Tác phẩm nghệ thuật là nơi kí thác, gửi gắm tình cảm, tâm tư, chiêm nghiệm của người nghệ sĩ. Hữu Thỉnh đã góp 1 tác phẩm nghệ thuật vào kho tàng văn học Việt Nam một cái nhìn mới về mùa thu - một mùa thơ mộng nhất trong năm, được coi là mùa của các thi nhân, thi sĩ.
TB:
Hữu Thỉnh là một nhà thơ trưởng thành trong quân đội. Hữu Thỉnh thường viết về quê hương và con người. Thơ ông thể hiện những cảm nhận tinh tế qua những hình ảnh đầy gợi cảm. Nói đến Mùa thu ai cũ nghĩ Tới những chiếc lá vàng rơi nhẹ trong không gian hay bầu trời cao vời vợi xanh biếc không một gợn mây và nhất là hương thơm một món quà từ ruộng đòng Việt Nam:" gió thổi mùa thu hương cốm mới" (Nguyễn Đình Thi). Nhưng với Hữu Thỉnh, Tác giả nhận ra mùa thu trong những biểu hiện thiên nhiên thật bình dị:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Bình dị mà vẫn gây ngạc nhiên, mở đầu bài thơ là từ "bỗng" thể hiện sự bất ngờ, cái bất ngờ, ngỡ ngàng mới nên thơ làm sao! Tác giả có đôi chút giật mình và không khỏi bỡ ngỡ kjhi nhận ra những tín hiệu chuyển mùa thừ hương thơm ổi đạn độ chín. Ổi, một trái cây thân thuộc nơi vườn nhà, ổi gắn liền với tuổi thơ leo trèo hái quả và giwof tác giả đã đem hương ổi về tỏa khắp không gian và lòng người. Từ sự bất ngờ đáng ngạc nhiên đầy thú vị khi nhận ra hương ổi, tác giả tiếp tục dẫn ta vào cơn gió se se lạnh."Gió se" chỉ là những cơn gió lạnh đầu mùa, nó chưa hề buốt lạnh hay giá lạnh mà chỉ hơi lạnh. Từ "phả" ở dây thật là hay. Từ "phả" có thể được thay thế bằng các từ như"lan","quyện","thoảng","bay"... nhưng những từ đó đều không có ngữa bất ngờ, đột ngột. Mùi hương ổi chín theo gió nhẹ đem đến cái ngọt ngài đầy hấp dẫ, quyến rũ và gây cảm nhận thật xốn xang thích thú như một phát hiện đầy thú vị."Sương" cũng là một đặc điểm trong không gian mùa thu. Làn sương ấy được diễn tả"
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Trong bài thơ "Đi chợ tết", nhà văn Đoàn Văn Cừ đã viết về sương:
Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi
Sương hồng lam ôm ấp mái nhà tranh
Tác giả Hữu Thỉnh không diễn tả mà sắc của làn sương mà nói lên sự giăng mắc nhẹ nhàng, vương vấn của sương nơi đường thôn ngõ xóm. Từ láy "chùng chình" vừa gợi hình, vừa có tính nhân hóa tạo nên nét hay riêng về dáng dấp làn sương. Nó chuyển động chầm chậm, bay qua ngõ nhà ai như cố ý nhẹ nhành chậm rải nên có vẻ gì đó duyên dáng, yểu điệu của làn sương mỏng nhẹ. Mùa thu đang đến gần, thật khẽ, thật êm. Nhưng nó vẫn chưa rõ ràng giữ hai mùa nên tác giả bâng khuân: "Hình như thu đã về". Chỉ là hình như thôi chứ chưa khẳng định dứt khoát vì phút giao mùa giữa hạ và thu là một điều gì đó khó nắm bắt. Nó vẫn còn khiến tác giả ngỡ ngàng, chưa tin nên chưa xác định cụ thể trước sự kì ảo của không gian cuối hạ, đầu thu. Trong đoạn thơ thứ 2, ngòi bút của tac giả tiếp tục phát hiện hình ảnh thiên nhiên lúc thu sang:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đàu vội vã
Dòng sông thu dưới cái nhìn của tác giả thật đặc biệt. Dòng sông của Thanh Hải là dòng sông Xanh biếc "Mọc giữa dòng sông xanh - Một bông hoa tím biếc". Nhưng ở đây Hữu Thỉnh tả dáng sông trôi. Sông thu nước chảy chầm chậm, trôi một cách thanh thản chứ chứ không cuồn cuộn sóng không chảy xiết, do đó tạo nên nét êm dịu thảnh thơi thật phù hợp với không gian mùa thu. Trong lúc sông trôi nhẹ nhàng, thong thả thì trái lại những cánh chim vội vàng vỗ cánh bay đi trú đông để tránh cái rét của đắt trời. Từ láy "dềnh dàng" "vội vã" khiến dòng sông, cánh chim mang hồn người. Đó chính là sự tinh tế qua biện pháp nhân hóa sinh động. Nhưng nét đặt biệt nhất của khổ thơ này đọng lại trong hai câu:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Thật là một hình ảnh mới lạ và sáng tạo. Bầu trời không thể có những đám mây nửa mùa hạ, nửa mùa thu như thế nhưng dưới cái nhìn tưởng tượng thật phong phú, dáng dấp "vắt nửa mình" của mây sao mà sống đọng và đầy duyên dánh. Nó diễn tả đạt đến đỉnh cao cái nối mình giữa hạ và thu. Đó cũng chính là cái ngập ngừng của không gian và thời gian trên bầy trời phút giao mùa vì đám mây có tính tạo hình trong không gian, đồng thời có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian.
Đọc khổ thơ thứ 2 em càm cảm phục tài năng hồn thơ của Hữu Thỉnh. Với cái nhìn hết sức tinh tế và thần tình, tác giả gieo vào lòng em bao rung động, xao xuyến trước cái "dềnh dàng" của sông và "vội vã" của chim và "nối mình" của mây. Em thấy hiện ra trước mắt hình ảnh thiên nhiên mùa thu thật nên thơ. Có chút xao xuyến đầy bâng khuâng và lãng mạn thổi qua tâm hồn để em thấy yêu cái đẹp lúc giao mùa hơn.
KB:
Từ cuối hạ sang đầu thu, thiên nhiên đất tời có những chuyển biến thật nhẹ nhàng, thơ mộng. Những chuyển biến đó được nhà thơ Hữu Thỉnh cảm nhận tinh tế và viết thành bài thơ giàu sức biểu cảm. Từ hương thơm trong vườn ổi, sương giăng mắc nơi đầu ngõ, tác giả mở rộng ra cảnh mây trời và cuối cùng khái quát thành suy nghẫm về đời người, cuộc sống. Càng đọc những câu thơ, ta càng cảm nhận vẻ đẹp đất trời và dâng lên trong lòng ta tình yêu mùa thu quê hương. Bài thơ góp một tiếng nói vào kho tàng văn học Việt Nam. Điều đặc sắc hơn, đó là bài thơ vừa diễn tả nhẹ nhàng, thơ mộng của cảnh vật, vừa tiềm ẩn chất triết lý cô đọng trong 2 câu thơ cuối thật sâu sắc lằm tăng giá trị ý thơ.