1 .
Trong khổ 3 của bài Quê hương , Tế Hanh đã viết :
"Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng ,
..... Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ . "
Yêu quê hương , tự hào những chàng trai làng trài cường tráng với " làn da ngăm rám nắng " được tôi luyện trong lao động , trong sóng gió mặn mà của biển " cả thân hình nồng thuở vị xa xăm " - vị mặn , vị lớn lao của biển cả . Yêu làng chài là yêu những con thuyền sau một chuyến ra khơi vất vả , trở về nằm im trên bến . Con thuyền đã được Tế Hanh nhân hóa gợi cuộc sống lao động mà yên vui của bà con làng chài -" Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm " .Tác giả đã sử dụng các từ " im , mỏi , nằm , nghe , thấm dần " khiến hình ảnh ấy càng giàu giá trị biểu cảm . Sự chuyển đổi cảm giác tài tình đó đã tạo nên vần thơ giàu cảm xúc . Bằng tất cả tâm hồn , con thuyền tự nghe và tự cảm thấy .Hương vị của biển cả đang và đã thấm sâu vào cơ thể người dân chài . Chiếc thuyền nằm nghỉ , nghe chất muối trong thớ vỏ thật là hình ảnh tinh tế và thắm thiết . Phải chăng chất muối , hương vị , tình quê thấm sâu trong tâm hồn người dân chài ? Con thuyền đã đồng nhất với cuộc đời , với số phận của người dân chài . Tóm lại , chỉ vỏn vẹn bốn câu thơ mà Tế Hanh đã khắc họa 1 cách độc đáo , ấn tượng về hình ảnh những người lao động làng chài khỏe mạnh và đầy sức sống .
2.
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt ,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia .
Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối nhân - nguyệt , song tiền - song khích , minh nguyệt - thi gia tạo kết cấu đăng đối cho câu thơ . Không chỉ vậy , với cách sắp xếp : Nhân - song - nguyệt đã tạo sự ngăn cách thô bạo của nhà tù giữa người tù và đêm trăng gợi hiện thực nghiệt ngã .Điệp từ khán và biện pháp nhân hóa cũng thể hiện sự giao hòa với trăng , tìm đến trăng như người bạn tri âm tri kỉ . Ngoài ra còn có sự đối vị trí : tù nhân thành thi gia thể hiện Người là một nghệ sĩ có tâm hồn giao hòa với thiên nhiên , luôn vượt ngục về tinh thần để đến với tự do .