Bài làm:
Ngày xửa ngày xưa, khoảng 6 triệu năm trước đây, trong những con vật có vú như: voi ma mút, cá voi, khủng long... bỗng dưng xuất hiện một loài vượn cổ có thể đứng và đi bằng hai chân, dùng tay để cầm nắm, ăn hoa quả, củ, là và cả động vật nhỏ.
Đến 2 triệu năm sau, loài vượn cổ này đã tiến hóa thành người tối cổ, hầu như đã hoàn toàn đi, đứng bằng hai chân. Đôi tay được tự do để sử dụng công cụ, kiếm thức ăn. Cơ thể đã có nhiều biến đổi, tuy trán còn thấp và bợt ra sau, u mày còn nổi cao, nhưng hộp sọ đã lớn hơn so với loài vượn cổ và đã hình thành trung tâm phát tiếng nói trong não. Tuy chưa loại bỏ hết dấu tích vượn trên cơ thể mình nhưng Người tối cổ đã là người. Đây là hình thức tiến triển nhảy vọt từ vượn thành người, là thời kì đầu tiên của lịch sử loài người.
"Loài người" bắt đầu biết chế tác công cụ: lấy những mảnh đá hay hòn cuội lớn, đem ghè một mặt cho sắc và vừa tay cầm (đồ đá cũ sơ kì); phát minh ra lửa: bằng cách ghè hai mảnh đá với nhau để tạo ra lửa. Nhờ nó, con người có thể sử dụng một thứ năng lượng quan trọng bậc nhất, cải thiện căn bản đời sống của mình. Người tối cổ có quan hệ hợp quần xã hội, sống trong hang động, mái đá hay lều bằng cành cây, da thú; sống quây quần theo quan hệ ruột thịt gồm 5, 7 gia đình đó là bầy người nguyên thủy. Bầy người nguyên thủy vẫn còn sống trong tình trạng “ăn lông ở lỗ” – một cuộc sống tự nhiên, bấp bênh, triền miên hàng triệu năm.
Đến khoảng 4 vạn năm trước đây (40 nghìn năm) Người tối cổ tiến hóa thành người tinh khôn. Họ sống theo thị tộc ăn chung, làm chung và cùng giúp đỡ lẫn nhau. Bắt đầu biết trồng rau, trồng lúa, chăn nuôi gia súc, làm đồ gốm, dệt vải, làm đồ trang sức. Từ đó, con người có cuộc sống tốt hơn, vui hơn.