Bài thơ Nam quốc sơn hà được coi là một bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc. Tương truyền bài thơ là của Lý Thường Kiệt được ra đời vào năm 1077, khi nhân dân ta đang kháng chiến chống quân Tống. Hai câu đầu của bài thơ khẳng định chủ quyền lãnh thổ của dân tộc. Từ “đế” trong câu “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” được đặt trong hoàn cảnh phong kiến Phương Bắc chỉ coi nước ta là một quận. Việc xưng “Nam đế” đã đặt nước ta ngang hàng với phong kiến Phương Bắc, điều đó thể hiện sự tự hào dân tộc. Như vậy, câu thứ nhất cho ta thấy nước Nam là thuộc chủ quyền của người Nam, của vua Nam. Âm điệu của câu thơ thứ hai thì rắn rỏi, hùng hồn, dứt khoát và được thể hiện qua 4 thanh trắc/7 chữ. Câu thơ thứ hai nhấn mạnh chủ quyền của đất nước, đồng thời thể hiện niềm tin sắt đá vào chủ quyền đó. Chủ quyền này đã được khẳng định tại “sách trời” tức là tạo hóa định sẵn. Như vậy, câu thơ số hai là chân lý không thể thay đổi. Câu thơ thứ ba là một câu hỏi tu từ tỏ rõ sự phi lý của hành động xâm lược. “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm”. Còn câu thơ thứ tư “Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” thì cảnh báo sự thất bại thảm hại của những kẻ cố tình đi ngược lại chân lý. Như vậy hai câu thơ cuối nhấn mạnh ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của dân tộc. Về mặt nghệ thuật, bài thơ sử dụng thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, giọng thơ dõng dạc, đanh thép. Điều đó càng làm sáng tỏ chủ đề “Bài thơ Nam quốc sơn hà được coi là một bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc”.
Đại từ: ta
Từ láy: dõng dạc