1. Trong xã hội truyền thống, vai trò nắm giữ học vấn và dẫn đạo tư tưởng của trí thức được nắm giữ bởi tầng lớp sĩ (kẻ sĩ, sĩ phu) - tầng lớp đứng đầu tứ dân trong bảng thang sĩ - nông - công - thương. Mục tiêu lớn nhất của kẻ sĩ là ông quan (thông qua thi cử). Phẩm chất trí thức, trong trường hợp này, không phải là phẩm chất duy nhất của kẻ sĩ. Nó chỉ là một thành tố trong một cấu trúc nhân cách phức tạp hơn: ông quan. Tính tòng thuộc và không độc lập của phẩm chất trí thức bắt nguồn từ thực tế này.
Từ kẻ sĩ trở thành ông quan, như thế, không phải là sự phát triển về chất của tri thức mà là sự thay đổi, một dịch chuyển về thứ bậc xã hội. Từ đây kẻ sĩ không còn ở trong tứ dân mà thuộc về một đẳng cấp xã hội mới trong mô hình vua - quan - dân. Đây không phải là mô hình ở đó các vai trò xã hội (tương ứng với nó là những mô hình nhân cách) tồn tại trên cùng một mặt bằng. Vua - quan - dân là một tổ chức theo trục dọc, mang tính tôn ty chặt chẽ. Quan lại cai trị dân, là “phụ mẫu chi dân” nhưng trong quan hệ với thiên tử ông ta chỉ là một thần tử với những bổn phận và khuôn phép đã được quy định trước, không thể việt vị. Vì lẽ đó, ông quan vẫn chỉ là một thứ - nhân cách, bị chế định và bị quy chiếu vào một nhân cách cao hơn: thiên tử. Nếu như đòi hỏi tối cao của người trí thức là truy cầu chân lý và vì thế thường đóng vai trò phản biện đối với trật tự xã hội hiện tồn thì chức phận của một ông quan lại đòi hỏi phải được đặt lên hàng đầu phẩm chất của chữ trung. Với trật tự hiện hành, ông quan có thể dâng biểu tấu, điều trần, thậm chí đàn hặc nhưng quyền quyết định tối hậu vẫn thuộc về thiên tử. Lịch sử đã ghi lại đây đó những lời can gián thật thống thiết của những danh thần nhưng, như thực tế đã xác nhận, phần lớn chúng đều chỉ là những lời độc thoại. Và thường thì việc can gián cần phải được tiến hành với rất nhiều những nghi thức. Tận cho đến cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Trường Tộ, dù không bị ràng buộc bởi cân đai của một triều thần, khi dâng bản điều trần phê phán lối học tập hư văn, phù phiếm mà theo ông triều đình phải chịu một phần trách nhiệm vẫn phải có những lời rào đón, thăm dò với không ít những e dè1 . Bi kịch lớn nhất của kẻ sĩ với tư cách trí thức quan liêu, đúng như Trần Nho Thìn đã chỉ ra qua trường hợp của Nguyễn Trãi, là ở chỗ: luôn “có nguy cơ bị biến thành một công chức đơn thuần, thừa hành lệnh trên, một thứ chuyên viên cao cấp chứ không phải là một nhà văn hóa chính trị”2. Và điều này là có lý do. Không có một thiết chế văn hóa nào, trong một xã hội chuyên chế, đảm bảo cho nhân tố trí thức ở ông quan có thể hiện diện, tồn tại một cách độc lập.
Không phải kẻ sĩ nào cũng có cơ may tham gia vào đội ngũ trí thức quan liêu. Phần lớn họ tồn tại trong dân gian với cương vị thầy đồ, thầy thuốc, thầy địa lý... Không gian để họ hành xử: trong biên giới của một làng xã cụ thể. Tính chất tự trị của làng xã cùng với khả năng mưu sinh bằng những tác nghiệp cụ thể chứ không phải từ bổng lộc của vua ban khiến kẻ sĩ có được cái tự tại, nhàn dật của một kẻ ngoài vòng cương tỏa nhưng cũng vì thế mà họ bị đẩy ra xa hơn với trung tâm điều phối chính thống của xã hội. Ngoài việc hành nghề, kẻ sĩ chủ yếu tác động đến đời sống cộng đồng bằng cách nêu gương từ chính những ứng xử của mình trong cuộc sống. Cũng có khi họ đóng vai trò tạo lập và hướng đạo cho dư luận để đối đầu với quan lại khi những bậc cha mẹ dân này không thực hiện đúng chức trách của mình. Khả năng tác động của họ đến thực tiễn, trong trường hợp này, có thể trực tiếp hơn, đa dạng hơn nhưng vì ở một vị thế thấp hơn trên bảng thang thứ bậc xã hội nên phạm vi, và tính chất tác động cũng khiêm tốn hơn; tuy liên tục trong thời gian nhưng không thoát khỏi tính chất nhỏ lẻ.
Như thế: trong cả hai trường hợp tồn tại của kẻ sĩ trong xã hội truyền thống ta không thấy những cơ sở cho phép họ tồn tại với tư cách người sản xuất những tư tưởng, tìm kiếm chân lý (một thuộc tính quan trọng bậc nhất của người trí thức hiện đại). Chẳng những thế, bị mặc định trong thân phận của một thần tử, nhân cách của kẻ sĩ luôn bị quy chiếu, tòng thuộc vào thiên tử khiến cho sự độc lập, chủ động, năng động của họ trước những vấn đề của thực tiễn đời sống bị giảm thiểu. Cái tâm thế Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông với nỗi niềm Chừng nào thánh đế ơn soi thấu của Nguyễn Đình Chiểu không hề là sáo ngữ mà là một thực tế nghiệt ngã của kẻ sĩ trong xã hội phong kiến.