Dân cùng, tài lực tận, nguyên nhân không xẩy ra trong sớm tối ; nhưng chiến tranh nha phiến là giai đoạn tột cùng sức chịu đựng. Quảng Ðông, Chiết Giang, Giang Tô là những chiến trường chủ yếu. Tại Quảng Ðông, quyên lương hướng từ thương nhân, quan lại bắt lính, đòi lương, ngày ngày cấp bách ; dân chúng Chiết Giang nửa số lưu ly, không cung cấp nổi lương và nhân lực ; tỉnh Giang Tô phải gánh vác nặng nề. Sau chiến tranh cứ nạp 1 thạch lương, phụ thu thêm 3 thạch ; thuế đinh, thuế điền, 1 lạng bạc thu thêm 4,5 ngàn đồng tiền. Sự đóng góp nặng nề của dân đương nhiên do bởi khoản tiền bồi thường cho người Anh, lần thứ nhất 600 vạn nguyên, lấy từ ngân khố các tỉnh Giang Tô, Chiết Giang ; số còn lại 1.500 vạn nguyên, thì 8/10 lấy từ các tỉnh.
Về phương diện chính trị, sau chiến tranh nha phiến uy tín chính phủ hoàn toàn táng thất, nhưng dân lại vùng lên. Tổng đốc Lưỡng Quảng Kỳ Anh nhận định rằng “ Quan sợ ngoại Di, ngoại Di sợ trăm họ ” “ Dân có thể làm sợ cái người mà quan sợ, thì dần dần dân sẽ coi thường nắm quan trong tay ; ngoại hoạn tuy bớt nhưng nội hoạn sẽ dấy lên.”
Rõ ràng sau chiến tranh nha phiến nội loạn đã xẩy ra không ngớt. Năm 1843 đặc biệt xẩy ra tại các tỉnh Quảng Ðông [Guangdong], Quảng Tây [Guangxi], Hồ Nam [Hunan] ; như Thiên Ðịa hội tại huyện Hương Sơn, Quảng Ðông ; dân đói nổi dậy tại Vũ Xương [Wugang], Hồ Nam. Kế đó các mối loạn khác xẩy ra liên tục hàng năm, như vụ dân bị mất mùa đói khát nổi loạn tại Quảng Tây ; Lý Nguyên Phát, Lôi Tái Hạo nổi dậy tại Tân Ninh [Xinning, Hồ Nam] ; tại Quảng Đông, bọn Trương Gia Phúc mang đồ đảng mấy ngàn cướp phá bốn phương. Đến năm 1850 Thiên Ðịa hội hoạt động mạnh tại tỉnh Quảng Ðông, vây thành Triệu Khánh, đánh bại quan quân tại lộ phía bắc, xâm nhập tỉnh Quảng Tây ; trong 11 phủ của tỉnh này có 8 phủ bị Thiên Ðịa hội chiếm cứ, đó cũng là lúc Thái Bình Thiên Quốc của Hồng Tú Toàn chính thức cử sự.