Lý Bạch là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất thời đường tại Trung Hoa. Ông được hậu thế gọi là "Thi tiên" ( tức là thơ tiên), là một Thi tiên vĩ đại của đất nước Trung Quốc. Ông còn có bút hiệu khác là Thái Bạch,Tràng Canh,Thanh Liên cư sĩ. Ông còn được gọi là Tửu trung tiên, Lý Trích Tiên.
Năm 15 tuổi, nhà thơ Lý Bạch viết bài phú ngạo khá nổi tiếng, có tên "Tư Mã Tương Như" để gửi cho Hàn Kinh Châu.
Năm 16 tuổi, cái tên Lý Bạch đã nổi tiếng khắp vùng Tứ Xuyên. Nhưng vì chán trần gian nên nhà thơ Lý Bạch đã bỏ lên núi Đái Thiên Sơn học đạo, bắt đầu cuộc đời ẩn sĩ.
Trong sự nghiệp văn chương, nhà thơ Lý Bạch đã sáng tác hơn 20.000 bài thơ , nhưng làm bài nào vứt bài đó, nên được biết tới là nhờ dân gian ghi chép hơn cả. Sau loạn An Lộc Sơn thì mất rất nhiều. Đến khi ông mất năm 762 thì người anh họ Lý Dương Lân thu thập lại, thấy chỉ còn không tới 1/10 so với người đời truyền tụng. Sang năm 1080, Sung Minh Chiu người Cao Ly mới gom góp lại tập thơ Lý Bạch, gồm 1800 bài. Đến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có: Tương Tiến Tửu, Hiệp khách hành, Thanh Bình Điệu, Hành lộ nan...
Trong thơ Lý Bạch thích viển vông, phóng túng, ít đụng chạm đến thế sự mà thường vấn vương hoài cổ (Phù phong hào sĩ ca, Hiệp khách hành, Việt trung lãm cổ...), tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp (Cổ phong, Quan san nguyệt...), cảm thông cho người chinh phụ (Trường can hành, Khuê tình, Tử dạ thu ca...), về tình bạn hữu (Tống hữu nhân, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Văn Vương Xương Linh thiên Long Tiêu...), tình trai gái (Oán tình, Xuân tứ...), nhớ quê hương (Tĩnh dạ tứ, Ức Đông Sơn...). Nhưng nhiều nhất vẫn là về rượu (Tương Tiến tửu, Bả tửu vấn nguyệt, 4 bài nguyệt hạ độc chước, Xuân nhật độc chước, Đối tửu...).