A.
B.
C.
D.

Các câu hỏi liên quan

(3,0 điểm)
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi từ 1 đến 4:
Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay. Nói thế có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu. Nói thế cũng có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam và để thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống văn hóa nước nhà qua các thời kì lịch sử.
Tiếng Việt, trong cấu tạo của nó, thật sự có những đặc sắc của một thứ tiếng khá đẹp. Nhiều người ngoại quốc sang thăm nước ta và có dịp nghe tiếng nói của quần chúng nhân dân ta, đã có thể nhận xét rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng giàu chất nhạc. Họ không hiểu tiếng ta, và đó là một ấn tượng, ấn tượng của người “nghe” và chỉ nghe thôi. Tuy vậy lời bình phẩm của họ có phần chắc không phải chỉ là một lời khen xã giao. Những nhân chứng có đủ thẩm quyền hơn về mặt này cũng không hiếm. Một giáo sĩ nước ngoài (chúng ta biết rằng nhiều nhà truyền giáo Thiên Chúa nước ngoài cũng là người rất thạo tiếng Việt), đã có thể nói đến tiếng Việt như là một thứ tiếng “đẹp” và “rất rành mạch trong lối nói, rất uyển chuyển trong câu kéo, rất ngon lành trong những câu tục ngữ”. (Đặng Thai Mai, Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc, trong Tuyển tập Đặng Thai Mai, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1984).
1/ Chọn ra câu chủ đề của đoạn trích trên? (0,25 điểm)
2/ Đoạn trích trên được viết bằng phương thức biểu đạt nào? (0,5 điểm)
3/ Đoạn (2) có những phép liên kết nào? Nêu tác dụng của phép liên kết đó trong việc thể hiện nội dung chủ đạo của đoạn văn? (0,5 điểm)
4/ Trong khoảng 5 – 7 dòng, hãy trình bày suy nghĩ của anh, chị về việc giữ gìn sự giàu đẹp của tiếng Việt của bộ phận giới trẻ hiện nay. (0,25 điểm)
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi từ 5 đến 8:
Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên
niết bàn chân nhang lấm láp tro tàn
xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào
Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu
rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa
Cái cò ... sung chát đào chua ...
câu ca mẹ hát gió đưa về trời
ta đi trọn kiếp con người
cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
(Trích Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Theo Thơ Nguyễn Duy, NXB Hội nhà văn, 2000)
5/ Xác định thể thơ của đoạn trích. Thể thơ ấy có tác dụng gì trong việc thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình. (0,25 điểm)
6/ Hình ảnh người mẹ hiện lên như thế nào qua các câu thơ từ “Mẹ ta không có yếm đào” đến “váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa”? (0,5 điểm)
7/ Theo anh, chị cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ được gợi ý từ đâu? (0,25 điểm)
8/ Trong hai dòng thơ “ta đi trọn kiếp con người/ cũng không đi hết mấy lời mẹ ru…” nhà thơ đã triết lí về điều gì? Anh, chị có đồng tình với triết lí đó không? Trả lời trong khoảng 5 – 7 dòng. (0,5 điểm)
A.
B.
C.
D.


(3.0 điểm)

“Ngày xưa, bên sườn của một quả núi lớn có một tổ chim đại bàng. Một trận động đất xảy ra làm rung chuyển ngọn núi, một quả trứng đại bàng lăn xuống và rơi vào trại gà dưới chân núi. Một con gà mái tình nguyên ấp quả trứng lớn ấy. Ngày kia, trứng nở ra một chú đại bàng con xinh đẹp nhưng buồn thay, chú chim nhỏ được nuôi lớn như một con gà. Chẳng bao lâu sau, đại bàng cũng tin nó chỉ là một con gà không hơn không kém. Đại bàng yêu gia đình và ngôi nhà nó đang sổng nhưng tâm hồn nó vẫn khao khát một điều gì đó lớn lao hơn. Một ngày kia, trong khi đang chơi đùa trong sân, đại bàng nhìn lên trời và thây những chủ chim đại bàng đang sải cánh bay cao.

- Ồ! Ước gì tôi có thể bay như những con chim đó!

Bầy gà cười ầm lên:

- Anh không thể bay với những con chim đó được. Anh là một con gà và gà không biết bay cao. Việc đó tái diễn vài lần, mỗi lần đại bàng nói ra ước mơ của mình, bầy gà lại bảo nó điều đó không thể xảy ra. Đại bàng tin là thật, nó không mơ ước nữa và tiếp tục sống như một con gà. Sau một thời gian dài sống làm gà, đại bàng chết”.

(Nguồn: Internet)

Anh/chị hãy viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của mình về những điều câu chuyện trên gợi ra.
A.
B.
C.
D.