Bạn tham khảo nhé:
Phổi là cơ quan chính của hệ hô hấp, nơi trao đổi khí giữa cơ thể và môi trường. Phổi có tính chất đàn hồi, xốp và mềm. Hai phổi phải và trái nằm trong lồng ngực, cách nhau bởi trung thất. Phổi phải lớn hơn phổi trái.Dung tích bình quân của phổi khoảng 5000ml khi hít vào gắng sức.
I. Hình thể ngoài
Phổi có dạng một nửa hình nón, được treo trong khoang màng phổi bởi cuống phổi và dây chằng phổi.
Phổi có hai mặt, một đỉnh, một đáy và hai bờ. Mặt sườn lồi, áp vào thành ngực. Mặt trong là giới hạn hai bên của trung thất. Đáy phổi còn gọi là mặt dưới, áp vào cơ hoành.
1. Đáy phổi
Nằm áp sát lên vòm hoành và qua vòm hoành liên quan với các tạng của ổ bụng, đặc biệt là với gan.
2. Đỉnh phổi
Nhô lên khỏi lỗ trên của lồng ngực.
Phía sau, đỉnh phổi ngang mức đầu sau xương sườn I. Phía trước, đỉnh phổi cao hơn phần trong xương đòn khoảng 3cm.
3. Mặt sườn
3.1. Đặc điểm chung của hai phổi
– Áp sát mặt trong lồng ngực, có vết ấn của các xương sườn.
– Có khe chếch chạy từ ngang mức gian sườn 3 ở phía sau xuống đáy phổi, chia phổi ra thành các thùy phổi. Mặt các thùy phổi áp vào nhau gọi là mặt gian thùy.
– Trên bề mặt phổi có các diện hình đa giác to, nhỏ khác nhau; đó là đáy của các tiểu thuỳ phổi là đơn vị cơ sở của phổi.
3.2. Đặc điểm riêng của từng phổi
– Phổi phải có thêm khe ngang, tách từ khe chếch, ngang mức gian sườn 4, nên phổi phải có ba thuỳ: trên, giữa và dưới.
– Phổi trái chỉ có khe chếch, nên phổi trái chỉ có hai thuỳ: trên và dưới. Ở phía trước dưới thuỳ trên, có một mẫu phổi lồi ra goi là lưỡi của phổi trái, ứng với phần thuỳ giữa của phổi phải.
4. Mặt trong
ặt trong hơi lõm, gồm hai phần:
– Phần sau liên quan với cột sống gọi là phần cột sống.
– Phần trước quây lấy các tạng trong trung thất, gọi là phần trung thất. Ở phổi phải, có một chỗ lõm gọi là ấn tim; còn phổi trái, có một hố sâu gọi là hố tim.
+ Giữa mặt trong của hai phổi, có rốn phổi hình vợt, cán vợt quay xuống dưới. Trong rốn phổi có các thành phần của cuống phổi đi qua như: phế quản chính, động mạch phổi, hai tĩnh mạch phổi, động mạch và tĩnh mạch phế quản, các dây thần kinh và hạch bạch huyết.
Ở rốn phổi phải, động mạch phổi nằm trước phế quản chính; còn ở phổi trái động mạch nằm trên phế quản chính. Hai tĩnh mạch phổi nằm trước và dưới phế quản chính.
+ Phía sau rốn phổi có rãnh tĩnh mạch đơn và ấn thực quản ở phổi phải và rãnh động mạch chủ ở phổi trái.
+ Phía trên rốn phổi có rãnh động mạch dưới đòn và rãnh thân tĩnh mạch cánh tay đầu.
5. Các bờ
5.1. Bờ trước
Là ranh giới giữa mặt sườn và mặt hoành. Bờ trước nằm gần đường giữa, kéo dài từ đỉnh phổi đến đầu trong sụn sườn VI ở phổi phải, ở phổi trái có khuyết tim nên bờ trước kéo dài từ đỉnh phổi đến đầu trong sụn sườn số IV thì vòng ra ngoài đến sụn sườn VI.
5.2. Bờ dưới
Gồm hai đoạn:
+ Đoạn cong là ranh giới giữa mặt sườn và mặt hoành. Đoạn này lách sâu vào ngách sườn hoành.
+ Đoạn thẳng là ranh giới giữa mặt trong và mặt hoành.
Sự phân chia của động mạch phổi
2.1. Thân động mạch phổi
Thân động mạch phổi bắt đầu đi từ lỗ động mạch phổi của tâm thất phải lên trên, sang trái và ra sau. Khi tới bờ sau quai động mạch chủ thì chia thành động mạch phổi phải và động mạch phổi trái.
2.2. Động mạch phổi phải
– Đi ngang sang phải, chui vào rốn phổi phải ở trước phế quản chính, rồi ra phía ngoài và cuối cùng ở sau phế quản.
– Động mạch phổi phải cho các nhánh bên có tên gọi tương ứng với các thùy hoặc phân thuỳ mà nó cấp huyết:
+ Nhánh động mạch thuỳ trên: chia các nhánh đỉnh, nhánh sau xuống, nhánh trước xuống, nhánh trước lên, nhánh sau lên.
+ Nhánh động mạch thuỳ giữa: chia các nhánh bên và nhánh giữa.
+ Nhánh động mạch thuỳ dưới: chia các nhánh đỉnh của thuỳ dưới, nhánh đáy giữa, nhánh đáy trước, nhánh đáy bên, nhánh đáy sau.
2.3. Động mạch phổi trái
– Ngắn và nhỏ hơn động mạch phổi phải, đi chếch lên trên sang trái, bắt chéo mặt trước phế quản chính trái, chui vào rốn phổi ở phía trên phế quản thuỳ trên trái.
– Động mạch phổi trái cũng cho các nhánh bên tương tự động mạch phổi phải, nhưng cũng có một vài điểm khác biệt:
+ Chỉ có một nhánh sau của thùy trên.
+ Nhánh ứng thùy giữa gọi là nhánh lưỡi, chia làm 2 là nhánh lưỡi trên và dưới.
3. Sự phân chia của tĩnh mạch phổi
– Hệ thống lưới mao mạch phế nang đổ vào tĩnh mạch quanh tiểu thùy, rồi tiếp tục thành những thân lớn dần cho tới các tĩnh mạch gian phân thùy hoặc tĩnh mạch trong phân thùy, các tĩnh mạch thùy, và cuối cùng họp thành hai tĩnh mạch phổi ở mỗi bên phổi, dẫn máu giàu ôxy đổ về tâm nhĩ trái. Hệ thống tĩnh mạch phổi không có van.
– Ngoài các tĩnh mạch đi trong các đơn vị phổi như động mạch, các tĩnh mạch phổi thường đi ở chu vi hoặc ranh giới giữa các đơn vị phổi.
– Hai tĩnh mạch phổi phải trên và trái trên nhận khoảng 4 hoặc 5 tĩnh mạch ở thuỳ trên (và giữa).
– Hai tĩnh mạch phổi phải dưới và trái dưới nhận toàn bộ các tĩnh mạch của thuỳ dưới.
4. Động mạch và tĩnh mạch phế quản
– Là thành phần dinh dưỡng của phổi.
– Động mạch phế quản nhỏ, là nhánh bên của động mạch chủ. Thường có một động mạch bên phải và hai ở bên trái.
– Tĩnh mạch phế quản đổ vào các tĩnh mạch đơn, một số nhánh nhỏ đổ vào tĩnh mạch phổi.
5. Bạch huyết
Gồm nhiều mạch bạch huyết chạy trong nhu mô phổi, đổ vào các hạch bạch huyết phổi, cuối cùng đổ vào các hạch khí quản trên và dưới ở chổ chia đôi của khí quản.
6. Thần kinh
– Hệ thần kinh giao cảm: xuất phát từ đám rối phổi.
– Hệ phó giao cảm: các nhánh của dây thần kinh lang thang.
III. Màng phổi
Là một bao thanh mạc gồm hai lá: màng phổi thành và màng phổi tạng. Giữa hai lá là ổ màng phổi, hai ổ màng phổi riêng biệt không thông với nhau.
1. Màng phổi tạng
Màng phổi tạng mỏng, trong suốt bao phủ toàn bộ bề mặt của phổi, ngoại trừ rốn phổi và dính chặt vào nhu mô phổi, lách cả vào các khe gian thuỳ. Ở rốn phổi, màng phổi tạng quặt ra để liên tiếp với màng phổi thành.
2. Màng phổi thành
Màng phổi thành phủ lên toàn bộ các thành của khoang chứa phổi. Bao gồm:
– Màng phổi sườn: áp sát vào mặt trong lồng ngực, ngăn cách với thành ngực bởi lớp mô liên kết mỏng gọi là mạc nội ngực.
– Màng phổi trung thất: là giới hạn bên của trung thất đi từ xương ức phía trước đến cột sống phía sau, áp sát phần trung thất của màng phổi tạng. Ở rốn phổi, màng phổi thành quặt lên liên tục với màng phổi tạng. Ranh giới của đường quặt này không chỉ bao quanh cuống phổi mà còn kéo dài xuống dưới đến tận cơ hoành và các cơ quan lân cận. Chính vì vậy rốn phổi có hình chiếc vợt, cán vợt quay xuống dưới là phần mà màng phổi dính với nhau tạo nên dây chằng phổi.
– Màng phổi hoành: phủ lên mặt trên cơ hoành. Phần mạc nội ngực ở đây được gọi là mạc hoành màng phổi.
– Đỉnh màng phổi là phần màng phổi thành tương ứng với đỉnh phổi. Phần mạc nội ngực ở đây được gọi là màng trên màng phổi. Đỉnh màng phổi được các dây chằng treo đỉnh màng phổi cố định vào cột sống cổ, xương sườn, xương đòn.
– Ngách màng phổi: được tạo bởi hai phần của màng phổi thành. Có hai ngách màng phổi chính :
+ Ngách sườn hoành: do màng phổi sườn gặp màng phổi hoành.
+ Ngách sườn trung thất: do màng phổi sườn gặp màng phổi trung thất.
3. Ổ màng phổi
– Hai lá màng phổi liên tục với nhau ở rốn phổi giới hạn nên một khoang là ổ màng phổi. Bình thường hai lá màng phổi tiếp xúc với nhau nên ổ màng phổi là một khoang ảo.
– Mỗi phổi có một ổ màng phổi kín, riêng biệt, không thông nhau.
4. Mạch máu và thần kinh của màng phổi
– Động mạch: màng phổi thành được cấp máu bởi những nhánh của các động mạch kế cận: động mạch ngực trong, các động mạch gian sườn, các nhánh trung thất và các động mạch của cơ hoành. Màng phổi tạng được cấp máu từ các động mạch phế quản.
– Tĩnh mạch: đi kèm với động mạch.
– Thần kinh: màng phổi sườn được chi phối bởi các thần kinh gian sườn, màng phổi trung thất và màng phổi sườn được chi phối bởi những nhánh cảm giác của thần kinh hoành. Màng phổi tạng được chi phối thần kinh từ đám rối phổi.
(Nguồn tham khảo: ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ)