Ta nhìn được vật là do các tia sáng phản chiếu từ vật đi vào tới màng lưới qua một hệ thống môi trường trong suốt gồm màng giác, thủy dịch, thể thủy tinh, dịch thủy tinh.
Lượng ánh sáng vào trong phòng tối của cầu mắt nhiều hay ít là nhờ lỗ đồng tử ở mống mắt (lòng đen) dãn rộng hay co hẹp (điều tiết ánh sáng). Nhờ khả năng điều tiết của thể thủy tinh (như một thấu kính hội tụ) mà ta có thể nhìn rõ vật ở xa cũng như khi tiến lại gần. Vật càng gần mắt, thể thủy tinh càng phóng lên ("căng mắt mà nhìn") để nhìn rõ.
Khi các tia sáng phản chiếu từ vật qua thể thủy tinh tới màng lưới sẽ tác động lên các tế bào thụ cảm thị giác làm hưng phấn các tế bào này và truyền tới tế bào thần kinh thị giác xuất hiện luồng thần kinh theo dây thần kinh thị giác về vùng vỏ não tương ứng ở thùy chẩm của đại não cho ta cảm nhận về hình ảnh của vật.
Câu 3
Trả lời: * Những điều kiện đó là: - Tinh trùng phải gặp được trứng thì thụ tinh mới xảy ra. - Trứng đã thụ tinh phái xuống làm tổ được trong lớp niêm mạc ở thành tử cung thì mới phát triển thành thai được (sự thụ thai). Vậy muốn tránh thai nghĩa là không cho sự thụ tinh xảy ra, hoặc trứng thụ tinh không thể làm tổ trong thành tử cung được nghĩa là không thụ thai được. Từ đó học sinh có thể đề ra các nguyên tắc sau: - Ngăn trứng chín và rụng. - Tránh không cho tinh trùng gặp trứng để thụ tinh. - Chống sự làm tổ của trứng đã thụ tinh để không thể thụ thai. * Tuỳ thuộc các nguyên tắc đề ra trên đây để có thê lựa chọn các dụng cụ hoặc phương tiện tránh thai thích hợp. Chẳng hạn, học sinh có thể nêu: - Sử dụng viên thuốc tránh thai để ngăn trứng chín và rụng. - Sử dụng bao cao su hoặc màng ngăn âm đạo hoặc ở những người đã có đủ số con quy định có thể “đình sản bằng thắt ống dẫn tinh hoặc ống dẫn trứng để tránh cho tinh trùng không gặp được trứng để thụ tinh. - Sử dụng dụng cụ tránh thai (dụng cụ tử cung) để ngăn trứng làm tổ trong thành từ cung-