4,
Về kinh tế:
+ Nông nghiệp: công cụ bằng sắt ngày cởng được sử dụng phổ biến. Khai hoang, mở rộng diện tích ruộng đất trồng trọt đượe đẩy mạnh. Các công trình thủy lợi được rriở mang. Nhờ thế, nặng suát lúa tăng hơn trước.
+ Thủ công nghiệp, thương mại có sự chuyển biến đáng kể. Kĩ thuật rèn sắt phát triển hơn trước. Việc khai thác vàng, bạc, châu ngọc trong nhân dân được đẩy mạnh. Đồ trang sức bằng vàng, bạc, ngọc được gia công tynh tế. Một số nghề thủ công mới xuất hiện như nghề làm giấy, nghề làm thủy tinh,…
+ Nhiều đường giao thống thủy, bộ nối liền các vùng, các quận được hình thành.
– Về văn hóa, xã hội:
+ Nhân dân ta biết tiếp nhận và “Việt hóa” những yếu tố tích cực của văn hóa Trung Hoa thời Hán, Đường như ngôn ngữ, văn tự. Nhân dân ta không bị đồng hóa. Tiếng Việt vẫn được bảo tồn. Các phong tục, tập quán (ăn trầu, nhuộm răng đen, tôn trọng phụ nữ) vẫn được duy trì.
+ Mâu thuẫn bao trùm trong xã hội là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chính quyền đô hộ phương Bắc. Mặc dù chính quyền đô hộ ngày càng tăng cường việc cai trị trực tiếp tới cấp huyện, tổ chức các đơn vị hành chính tận cấp hương, xã, nhưng không khống chế nổi các làng xóm người Việt. Làng xóm trở thành nơi xuất phát các cuộc đấu tranh giành độc lập.
+ Ở một số nơi, tuy không nhiều, một số nông dân tự do bị nông nô hóa, bị bọn quan lại, chính quyền đô hộ bóc lột tô theo quan hệ bóc lột địa tô phong kiến.
5,
Đào tạo một tầng lớp người Việt phục vụ cho chính quyền đô hộ.
- Tuyên truyền luật lệ, phong tục tập quán của người Hán nhằm đồng hoá dân ta về mọi mặt, vĩnh viễn xâm chiếm nước ta.
- Tuyên truyền tôn giáo (Nho giáo, Đạo giáo) làm công cụ phục vụ cho mục đích xâm lược của chúng.
6