Đề 1
Phần I.
Câu 1:
- Tác phẩm: "Làng"
- Tác giả: Kim Lân
Câu 2:
- Đoạn trích trên có 3 từ láy tượng thanh:"léo xéo", "lào xào", "thình thịch".
- Tác dụng: bộc lộ tâm trạng của ông Hai: căng thằng, lo lắng, sợ hãi đến mức ám ảnh (tiếng động trong đêm càng tô đậm nỗi sợ trong lòng ông Hai).
⇒ Ông Hai rơi vào tâm trạng đó là do ông không muốn mụ chủ nhà biết chuyện làng Chợ Dầu của ông Việt gian.
Câu 3:
Tác phẩm Làng ra đời đầu thời kì chông Pháp năm 1948. Làng kể về nhân vật có tên là ông Hai. Ông Hai vô cùng yêu cái làng Chợ Dầu của mình, vì thế khi Pháp đến đánh chiếm ông quyết định ở lại làng làm du kích, làm thanh niên chống giặc, mặc dù tuổi ông đã cao. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình neo đơn, ông buộc phải cùng gia đình tản cư lên thị trấn Hiệp Hoà, đi đến đâu ông cùng hồ hởi khoe với mọi người cái làng của mình. Thế rồi một hôm, ông nghe tin sét đánh là làng Chợ Dầu đã theo giặc. Ông cảm thấy vô cùng đau khổ và gia đình ông có thể lâm vào tình cảnh mất nơi ở. Đến khi nghe tin cải chính làng của ông là làng kháng chiến thì ông vô cùng sung sướng, ông đi khoe củi nhà của ông bị đốt hết trong niềm tự hào, sung sướng. Vậy đó, với cốt truyện thật đơn giản, ít nhân vật, tuy nhiên lại có sự đỉnh điểm rồi cởi nút rất dễ dàng. Truyện ngắn Làng bao hàm một giá trị nội dung vô cùng sâu sắc. Thông qua nhân vật ông Hai, một con người vô cùng yêu làng quê của mình, khi nghe tin làng theo giặc, ông tỏ thái độ vô cùng bất ngờ, đau đớn, tâm trạng mâu thuẫn. Từ lúc đó trở đi, ông không ra khỏi nhà, gia đình ông im lặng và tràn ngập nỗi buồn. Nhà văn Kim Lân thật tài tình khi xây dựng tình huống truyện để bộc lộ nội tâm nhân vật. Để có được nội dung câu truyện sâu sắc ấy, Kim Lân đã tạo ra những biện pháp nghệ thuật vô cùng đặc sắc như độc thoại, ngôi kể, điếm nhìn của người kể, những mâu thuẫn nội tâm, đối thoại, miêu tả dáng người để từ đó bộc lộ tình cảm.
Phần II.
Câu 1:
- Từ " thiều quang" trong đoạn trích có nghĩa là ánh sáng đẹp.
Câu 2:
- Phép đảo ngữ ở câu thơ:" trắng điểm một vài bông hoa."
- Bằng nghệ thuật đảo ngữ, tác giả đã nhấn mạnh sắc trắng của hoa lê. Bức tranh không chỉ có màu sắc của hoa mà còn cho thấy được cả một sức sống mãnh liệt đang bừng dậy, một sắc xuân tràn đầy sức sống, một sắc xuân tươi trẻ, mới mẻ và sống động, một vẻ đẹp trong sáng, hài hòa, mới mẻ, tươi tắn, tinh khôi.
Câu 3:
- Đó là câu thơ trong bài " Mùa xuân nho nhỏ" của Thanh Hải.
"Mọc giữa dòng sông xanhMột bông hoa tím biếc"- So sánh cách sử dụng phép đảo ngữ của các tác giả trong cả hai bài thơ.
+ Ở Cảnh ngày xuân, Nguyễn Du đã đảo tính từ " trắng" lên đầu câu, khiín cho tính từ trở nên " động từ hóa", sắc trắng như lan tỏa, tô điểm vào không gian.
+ Ở Mùa xuân nho nhỏ, động từ “mọc” được đảo lên đầu câu thơ gợi ấn tượng đậm nét về vẻ đẹp duyên dáng, và sức sống mạnh mẽ của bông hoa mùa xuân.
Câu 4:
Chỉ với bốn câu thơ, Nguyễn Du đã vẽ lên trước mặt người đọc bức tranh thiên nhiên mùa xuân - bức tranh với vẻ đẹp trong sáng, hài hòa, mới mẻ, tươi tắn, tinh khôi và tràn đầy sức sống. Hai câu thơ mở đầu với những hình ảnh gần gũi, giản dị như “con én”, “ thiều quang” đưa ta trở về với một mùa xuân truyền thống dân tộc, một nét xuân đã ăn sâu trong tiềm thức bao người.Thông qua bút pháp ẩn dụ tinh tế “ con én đưa thoi” nhà thơ đã thể hiện ngụ ý thời gian trôi qua rất nhanh, nay “đã ngoài sáu mươi”. Nguyễn Du cũng đã rất tinh tế khi miêu tả mùa xuân qua những đường nét, hình ảnh và ánh sáng, ánh “thiều quang” làm cho bức tranh xuân thêm ấm áp, gợi lên khí trời mùa xuân tươi sáng, rộng lớn, mênh mông. Và trên nền trời ấy là hình ảnh những chú chim én đang bay lượn, chao liệng như thoi đưa, đông đúc và nhịp nhàng. Sang đến những câu thơ tiếp theo, người đọc mới thật sự cảm nhận được vẻ tinh khôn, mơn mởn của bức tranh xuân. Vẻ đẹp của mùa xuân trong sáng, mới mẻ và tinh khôi đó đã được nhà thơ khắc họa qua những hình ảnh chấm phá độc đáo “ cỏ non xanh” , “ cành lê trắng”. Những hình ảnh ấy gợi tả nên một sắc xuân tràn đầy sức sống, một sắc xuân tươi trẻ, mới mẻ và sống động. Bao trùm lên không gian rộng lớn, vô cùng, vô tận là màu xanh non của cỏ, mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống. Màu xanh ấy làm nền cho bức tranh mùa xuân.Với nghệ thuật đảo ngữ, nhà thơ đã làm cho màu trắng của hoa lê càng thêm sống động và nổi bật trên cái nền màu xanh bất tận của đất trời cuối xuân.Việc hòa phối giữa màu xanh của cỏ non “cỏ non xanh tận chân trời” với màu trắng của cành lê “ cành lên trắng điểm” , Nguyễn Du- một bậc thầy trong sử dụng ngôn ngữ đã khắc họa nên hình ảnh một mùa xuân với vẻ đẹp hoàn thiện và trọn vẹn. Qua đó, ta cũng cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, tâm hồn tinh tế, lãng mạn của thi nhân
- Câu ghép: Nguyễn Du cũng đã rất tinh tế khi miêu tả mùa xuân qua những đường nét, hình ảnh và ánh sáng, ánh “thiều quang” làm cho bức tranh xuân thêm ấm áp, gợi lên khí trời mùa xuân tươi sáng, rộng lớn, mênh mông.
- Thành phần phụ chú: - bức tranh với vẻ đẹp trong sáng, hài hòa, mới mẻ, tươi tắn, tinh khôi và tràn đầy sức sống.
Đề 2
Phần I.
Câu 1:
- Tác dụng của dấu chấm lửng: Diễn đạt lời nói bị ngắt quãng (Bà Hai bị Ông Hai ngắt lời)
- Việc bà Hai nghe “người ta đồn”: Là việc làng Chợ Dầu Việt gian theo giặc.
Câu 2:
- Vị trí đoạn trích: Theo trình tự cốt truyện thì đoạn trích nằm ở tình huống sau khi ông Hai bất ngờ nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.
- Ý nghĩa: Đặt nhân vật vào tình huống gay cấn để thử thách tình yêu làng, yêu nước sâu sắc ở ông Hai.
Câu 3:
- Phương châm hội thoại bị vi phạm: phương châm về chất và phương châm lịch sự
- Mục đích: bộc lộ diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai(đau khổ, chán chường, thất vọng...) khắc họa tình yêu làng, yêu nước sâu sắc của nhân vật.
Câu 4:
Sau khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc,ông Hai trong vô cùng đau xót. Ông như sụp đổ hoàn toàn và không tin vào những gì mình vừa nghe thấy. Ông đã phải hỏi lại đến hai lần rằng điều đó có phải là sự thật không. Và khi người ta xác định rõ ràng đó là sự thật rồi thì ông như chết lặng. Nếu như trước đây ông ngẩng cao đầu mà đi,đi để khoe khắp mọi nơi về làng của mình thì giờ đây, ông chỉ biết cúi gằm mặt xuống mà đi, đi trong sự xấy hổ, bẽ bàng. Cái làng mà ông vẫn luôn tự hào vì có những con người thà chết chứ nhất định không bỏ làng mà đi giờ lại theo Tây ư ? Cái làng Chợ Dầu mà ông vẫn kiêu hãnh kể với người ta giờ lại đổ đốn đến như vậy ư ? Nghĩ đến việc này, lòng ông Hai đau như cắt. Ông mang tâm sự ấy kể với con mình. Ông hỏi con nhưng thực chất là đang nói với lòng mình, dặn mình đinh ninh :" Làng thì yêu thật đấy nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù " . Sự quả quyết ấy của ông đã cho thấy ông là người có tình yêu làng sâu đậm, có sự phân biệt rạch ròi giữa phải - trái, đúng - sai. Ông đã đặt tình yêu nước lên trên tình yêu làng, lấy quốc gia làm trọng đặt trên tình cảm cá nhân. Và rồi khi tin làng được cải chính, ông Hai được sống lại là chính mình. Ông lại đi khắp nơi khoe về làng và thấy thật hạnh phúc vì ngôi làng thân yêu của mình vẫn trong sạch,không vì tư lợi mà bỏ Tổ Quốc theo Tây. Đó là minh chứng rõ ràng nhất về tình yêu làng sâu đạm của người nông dân chất phác ấy.
*Phép nối liên kết: "Ông"
Câu bị động: được gạch chân
Phần II.
Câu 1:
"Thuyền ta lái gió với buồm trăngLướt giữa mây cao với biển bằng,Ra đậu dặm xa dò bụng biển,Dàn đan thế trận lưới vây giăng."
- Đoạn thơ là hành trình đoàn thuyền đánh cá ra khơi.
Câu 2:
- Biện pháp nghệ thuật: nhân hóa, nói quá qua từ "lái".
- Tác dụng: góp phần khắc họa vẻ đẹp người ngư dân về"
+ Tư thế: lớn lao, kì vĩ ngang tầm thiên nhiên, vũ trụ.
+ Tâm hồn: phóng khoáng, lãng mạn.
Câu 3:
Đánh bắt hải sản trên 2 ngư trường truyền thống Hoàng Sa và Trường sa là một việc làm quen thuộc với mỗi ngư dân Việt Nam ngàn đời nay. Mỗi lần ra khơi là họ lại phơi phới niềm tin một mẻ cá bội thu, trời yên biển lặng để chuyến hải hành diễn ra suôn sẻ. Tuy nhiên vươn ra khơi luôn tiềm ẩn những hiểm nguy, may rủi nhưng với quyết tâm vì cuộc sống và vì chủ quyền thiêng liêng của dân tộc họ sẵn sàng đối mặt với thách thức trước đầu sóng ngọn gió. Gian nan nguy hiểm có đứng giữa biển cả mới thấm được nỗi vất vả của người ngư dân. Họ gọi biển là mẹ bởi biển đã cho họ cá tôm và từ họ họ lớn lên nhờ tấm lòng của mẹ biển. Khi kéo một mẻ lưới nặng họ phải làm suốt từ lúc tinh mơ đến chiều tà, phơi mình giữa cái nắng gay gắt, cái hơi gió mặn mà của biển khơi. Tuy nhiên không hẳn lúc nào cũng đánh bắt đc nhiều cá và đó là một sự thất vọng vô cùng lớn mỗi chuyến ra khơi.Không chỉ vậy họ còn đối mặt với dông bão,biển động có thể ập đến bất kỳ lúc nào và đã có không ít con thuyền không bao giờ quay lại đất liền.Trên biển cách đất liến cả trăm hải lý chỉ cần một sự cố nhỏ về sức khỏe cũng có thể cướp đi sinh mạng con người. Nhìn hỉnh ảnh những ngư dân trên biển có lẽ ta sẽ tự hỏi rằng không biết nước biển tự nhiên mặn hay mặn bởi chính mồ hôi nước mắt con người một nắng hai sương đang đổ xuống ngày đêm.
Đề 6
Phần I.
Câu 1:
"Hồi nhỏ sống với đồngvới sông rồi với bểhồi chiến tranh ở rừngvầng trăng thành tri kỉ"
- So sánh:
+ Khổ 1: hình ảnh"đồng", "sông", "bể", "rừng" là hình ảnh của thiên nhiên trong hiện thực, là những khoảng không gian ghi dấu kỉ niệm ân tình giữa còn người và vầng trăng,...
+ Khổ 5: hình ảnh "đồng", "sông", "bể", "rừng" được hiểu theo nghĩa khái quát là kỉ niệm, là quá khứ đầy nghĩa tình giữa người và trăng.
Câu 2:
- Bài thơ gợi lên những suy nghĩ về đạo lý, lẽ sống của người Việt ta. Câu chuyện trong bài thơ nhắc nhở chúng ta đừng bao giờ quên quá khứ, đừng bao giờ trở thành kẻ vô tình, bạc bẽo. Bài thơ nhắc nhở con người cần biết ơn, trân trọng cội nguồn.
Câu 3:
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là vị tướng tài có công lớn đối với chiến thắng lịch sử của dân tộc. Ông mất đi để lại biết ba đau xót cho thế hệ những người ở lại. Cả cuộc đời, đại tướng đã cống hiến hết mình vì sự nghiệp chiến đấu của non sông. Nay ông mất đi làm sao mà dân tộc ta không đau xót cho được. Ngày nghe tin đại tướng mất, cả nước ta vô cùng bàng hoàng và tiếc nuối. Vị anh hùng lịch sử dân tộc ấy đã mãi mãi ra đi , về với cõi vĩnh hằng. Đất nước đã để tang người chiến sĩ ấy, đồng thời thực hiện di nguyện của ông, đưa ông trở về với vùng đất Quảng Bình nơi ông được sinh ra và lớn lên. Biết bao người dân đổ dồn về buổi thực hiện tang lễ. Họ đến để một lần cuối cùng cúi đầu tạ ơn công lao của người anh hùng,đồng thời tiễn đưa linh cĩu của ông về nơi an nghỉ cuối cùng. Trong những ngày đưa tang, không khí buổi lễ diễn ra trang trọng avf tôn nghiêm trước sự chứng kiến của hàng nghìn người. Biết rằng con người ta không thể trường tồn mãi mãi nhưng chẳng ai có thể khỏi ngậm ngùi trước sự ra đi của vị tướng ấy. Sinh thời, ông đã cống hiến hết mình vì non sông, đất nước, giờ ông mất đi, công lao ấy đáng được ghi nhận. Và việc cả nước để tang đại tướng cũng là cách dân tộc ta bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến công ơn của ông đã bỏ ra cho dân tộc. Sau khi đã hoàn thành tâm nguyện của ông, tất cả mọi người dân trên dải đất hình chữ S ai cũng cảm thấy được yên lòng vì đã một phần nào đó giúp người đã khuất cảm thấy được thảnh thơi. Có thể nói, với những cống hiến vĩ đại của đại tướng Võ Nguyên Giáp , ông xứng đáng được nhân dân suy tôn và ghi nhận.
Phần II.
Câu 1:
- Nhận xét trên nói về bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận.
Câu 2:
Đó là khúc ca lao động của người ngư dân thời đại mới. Tác giả đã thay lời người ngư dân hát lên khúc tráng ca này.
- Câu thơ có từ “hát” được dùng nghệ thuật ẩn dụ trong bài thơ là: "Câu hát căng buồm cùng gió khơi."
- Tác dụng: Tiếng hát tập thể hòa với tiếng sóng, thổi căng cánh buồm. Câu hát thể hiện niềm lạc quan, niềm tin của người lao động về một thành quả bội thu với tinh thần say mê lao động.