Câu 1
a- Bài ca là lời của một người và chỉ có một phần.
b- Bài ca có hai phần: Phần đầu là câu hỏi của chàng trai, phần sau là : lời đáp của cô gái.
c- Hình thức đối đáp này có rất nhiều trong ca dao, dân ca.
d- Hình thức đối đáp này không phố biến trong ca dao, dân ca.
Câu 2
Như chúng ta đã biết, địa danh thường có những nét tiêu biếu về các phương diện địa lí, tự nhiên, lịch sử, văn hoá. Thông qua lời hỏi đáp, nhân vật trừ tình muôn bày tỏ tình cảm với nhau qua việc chia sẻ hiếu biết về nhừng danh lam thắng cảnh cua quê hương đất nước. Điều đó còn cho thấy người hỏi đã biết lựa chọn những nét đặc sắc, tiêu biểu về địa danh và người đáp đã trả lời rất trúng ý của người hỏi. Họ là những con người tài hoa, lịch lãm, tế nhị.
Câu 3
– Trong ca dao có một sô bài thường bắt đầu bằng cụm từ “Rủ nhau”. VD: “Rủ nhau đi cấy, đi cày…” hay “Rủ nhau đi tắm ao sen”….
– Nhóm từ “Rủ nhau” được dùng khi người rủ và người được rủ có quan hệ thân thiết, gần gũi, hoặc có chung mối quan tâm và cùng muốn thực hiện một việc gì đó.
– Với bút pháp tả cảnh gợi nhiều hơn tả, thông qua các địa danh tiêu biểu của hồ Gươm: Kiếm Hồ, cầu Thê Húc, đền Ngọc Sơn – một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp giàu truyền thống lịch sử – văn hoá đã hiện lên ngay trước mắt người đọc. Những tên gọi đó đã ăn sâu vào trong tiềm thức và trở thành những tên gọi thân thương quen thuộc trong lòng mỗi người dân Việt Nam.
– Địa danh và cảnh trí gợi cho người đọc nhớ đến truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc. Đó là một hồ Gươm, một Thăng Long huyền thoại. Qua đó gợi tình yêu, niềm tự hào về quê hương đất nước.
– Câu hỏi cuối bài ca: “Hỏi ai gây dựng nên non nước này?”, với giọng điệu tự nhiên, tâm tình, nhắn nhũ là lời khẳng định về công lao to lớn của cha ông ta trong việc xây dựng cơ đồ cho dân tộc. ơ đây, những địa danh của hồ Gươm được nâng lên thành biểu trưng cho truyền thống lịch sử – văn hoá của dân tộc Việt Nam. Qua đó, muốn nhắc nhở thế hệ hôm nay và mai sau cần giừ gìn và tiếp tục xây dựng những truyền thống văn hoá tôt đẹp ấy.
Câu 4
– Nhận xét về cảnh trí xứ Huế: Bài ca dao đã phác hoạ ra trước mắt người đọc một bức tranh xứ Huế thơ mộng. Bức tranh đó có “non xanh”, “nước biếc” là những màu sắc khá nên thơ, khoáng đạt, tươi tắn và giàu sức sống. Bức tranh đó được sánh với “tranh hoạ đồ”, gợi lên một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá.
– Nhận xét về cách tá cảnh: Bài ca dao sử dụng bút pháp gợi nhiều hơn tả, dùng nghệ thuật so sánh kết hợp với các định ngữ đã vẽ nên những đường nét và màu sắc sinh động của con đường vào xứ Huế.
– Phân tích đại từ “ai” và những tình cảm ẩn chứa trong câu ca dao “Ai vô xứ Huế thì vô”: Đại từ “ai” được hiểu theo rất nhiều nghĩa vì: đại từ “ai” trong ca dao thường mang ý nghĩa phiếm chỉ. Đó có thể là một hoặc nhiều người, hàm chứa nhiều đôi tượng mà tác giả hướng tới. Lời ca dao “Ai vô xứ Huế thì vô…” là lời mời, lời nhắn nhủ. Điều đó thể hiện tình yêu, lòng tự hào đối với cảnh đẹp xứ Huế và lời mời gọi mọi người hãy đến thăm xứ Huế đẹp mộng mơ.
Câu 5
– Hai dòng thơ đầu mỗi dòng gồm 12 tiếng, được kéo dài ra và khác với một dòng thơ bình thường. Như thế có tác dụng gợi lên sự rộng dài, to lớn, và vì vậy ta có cảm giác cánh đồng lúa như trải dài ra mênh mông, vô tận.
– Các biện pháp nghệ thuật: đảo ngữ, điệp ngữ và phép đối xứng giúp cho người đọc như đang đứng trước một cánh đồng không chỉ rộng lớn mà CÒI1 rất đẹp và đầy sức sống.
Câu 6
– Hình ảnh cô gái trong hai dòng cuối của bài 4 là một cô thôn nữ mảnh mai, duyên dáng và đầy sức sống.
– “Thân em” được so sánh với hình ảnh “chẽn lúa đòng đòng”. Đây là một sự so sánh tự nhiên, sinh động gợi lên nét trẻ trung phơi phới đầy sức xuân.
– Trước cánh đồng bao la, rộng lớn, tác giả dân gian vẫn nhận ra cô gái vô cùng đáng yêu “phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”. Ở đó cô gái chính là hồn của cảnh vật.
Câu 7
– Bài 4 là một cách bày tỏ tình cảm của chàng trai đối với cô gái, thông qua việc ca ngợi cánh đồng và vẻ đẹp cùa đối tượng trữ tình- một vẻ đẹp đầy sức sông, trẻ trung. Bởi vậy, có thể kết luận rằng đây chính là lời cũa chàng trai.
– Cùng với cách hiếu trên, còn có thế hiểu theo cách khác đó là: lời của bài ca dao là lời của cô gái, cô đã ý thức được vẻ đẹp của bản thân “Thân em như chẽn lúa đòng đòng, phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”. Song trước không gian rộng lớn thì “chẽn lúa đòng đòng” lại trở nên nhỏ nhoi, vô định, nên đó phải chăng còn là tâm trạng lo âu của cô gái, cô không biết sô’ phận của mình sẽ ra sao?
#nocopy
Nếu dc thì cho mk xin hay nhất nha
Học tốt OwO