Phó hiệu trưởng: Đặng Thị LanVăn kể chuyện rất gần gũi với học sinh tiểu học. Từ những lớp dưới, học sinh đã được luyện tập ở mức độ đơn giản về kĩ năng kể lại câu chuyện đã nghe, đã đọc hoặc đã chứng kiến. Lên lớp 4, thông qua các bài Tập làm văn, học sinh được tạo điều kiện để nâng hiểu biết đã có từ những lớp dưới thành những tri thức sơ giản nhưng có hệ thống về loại văn kể chuyện, phục vụ cho yêu cầu rèn các kĩ năng bộ phận trong quá trình sản sinh ngôn bản. Nội dung kiến thức và yêu cầu luyện tập kĩ năng đối với loại văn kể chuyện dạy ở lớp 4 được thể hiện qua 19 tiết kể từ tuần 1 đến tuần 18 chiếm gần 1/3 tổng số tiết TLV4( 19/ 62 tiết ), số tiết TLV kể chuyện không ít. Đối với dạng bài “ Luyện tập xây dựng cốt truyện”Tuần 4, đây là dạng bài luyện tập thực hành, chủ yếu rèn các kĩ năng làm văn, có tầm quan trọng giúp học sinh thực hành tưởng tượng gần gũi, tạo lập một cốt truyện đơn giản theo gợi ý khi đã cho sẵn nhân vật, chủ đề câu chuyện. Trước hết giáo viên giúp học sinh biết đặt kiến thức tiết học này vào trong hệ thống kiến thức, kĩ năng đã học ngay từ những tuầnđầu( Tuần 1,2,3,4) và tiền đề cho những kiến thức, kĩ năng của những tiết học tiếp theo. Giúp các em tái hiện được kiến thức đã được học, được luyện tập như: khái niệm thế nào là kể chuyện; biết kể câu chuyện đơn giản; nhận biết được nhân vật, tính cách nhân vật. Biết lựa chọn sắp xếp các hành động của mỗi nhân vật sao cho phù hợp với tính cách nhân vật ấy đúng với tình tự xảy ra; biết kể lại lời nói, ý nghĩ của nhân vật. Nắm được kiến thức sơ giản về cốt truyện, cấu trúc cốt truyện, bước đầu luyện tập sắpxếp các các sự việc trong câu chuyện thành cốt truyện với những ngữ liệu cho sẵn như: chuyện “ Dế Mèn bênh vực kẻ yếu”; truyện“ Cây khế”... Dựa vào cốt truyện đã sắp xếp để kể lại câu chuyện (Tiết 1-tuần 4). Tiết 2 của tuần 4 dựa trên cơ sở kiến thức đã học tổ chức luyện tập thực hành cho học sinh tập kể lại câu chuyện trên cơ sở tưởng tượngvà tạo lậpmột cốt truyện đơn giản theo gợi ý về nhân vật và chủ đề cho trước. Kĩ năng xây dựng cốt truyện được rèn luyện kĩ để tạo cơ sở vững chắc cho kĩ năng phát triển ý xây dựng đoạn văn ( ở tuần 6,7) và kĩ năng xây dựng bài văn hoàn chỉnh ( Tuần 8,9....). Đối với dạng bài này sách giáo viên cũng thể hiện quy trình giảng dạy và những định hướng cơ bản. Qua thực tế tổ chức dự giờ ở trường, bản thân tôi nhận thấy: Giáoviên đã xác định đúng kiến thức, kĩ năng trọng tâm của tiết học; kiến thức truyền thụ đảm bảo chính xác; tổ chức các hoạt động giữa thầy và trò khá nhịp nhàng, phát huy được tính tích cực, chủ động của HS, đa phần HS biết tưởng tượng xây dựng cốt truyện theo yêu cầu đề ra; học sinh giỏi khá biết dùng từ ngữ để viết câu văn khá sinh động; bước đầu biết kể lại câu chuyện do mình tạo lập. Tuy nhiên trong tiết dạy đây đó trong từng hoạt động học sinh vẵn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định (Kĩ năng dùng từ viết câu văn, liên kết các sự việc thành đoạn văn có đủ ba phần: mở bài, diễn biến sự việc, kết bài; ngôn ngữ kể(nói) chủ yếu đọc; đối tượng HS trung bình, yếu tham gia kể chưa nhiều; khâu tổ chức đánh giá nhận xét chưa thật chú ý đến các yêu cầu phát hiệnchỗ hay đáng học tập của bạn, học sinh nhận xét chung chung.Để khắc phục phần nào những vướng mắc trong thực tế như đã nêu ở trên, tôi thiết nghĩ: Điều quan trọng là giáo viên cần làm tốt một số khâu trong quá trình tổ chức dạy học, cụ thể: Ví dụ vềtiết: Luyện tập xây dựng cốt truyện –Tuần 4 ( Tiếng Việt 4, tập 1)Hoạt động 1: Tổ chức học sinh tưởng tượng và thiết lập cốt truyệnViệc 1: Xác định yêu cầu của đề bài-yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài, tìm hiểu nội dung yêu cầu cầu đề.-Giáo viên cùng HS phân tích đề, gạch chân những từ ngữ quan trọng: Hãy tưởng tượngvà kể lại vắn tắt một câu chuyện có 3 nhân vật : bà mẹ ốm, người conbằng tuổi em và một bà tiên.-Hướng dẫn HS nhận biết để xây dựng cốt truyện với các điều kiện đã cho, em phải tưởng tượngvà hình dung ra điều gì sẽ xảy ra, diễn biến của câu chuyện. Khắc sâu cho HS ở hoạt động này là xây dựng cốt truyện có nghĩa chỉ cần những sự việc chính có đầu, có cuối liên quan đến các nhân vật và có ý nghĩa như là bộ khung của câu chuyện. Giáo viên gợi ý cho học sinh xác định rõ nhân vật, sự việc hay các chi tiết nào của cốt truyện đâu là “chính”, “phụ” để“nhấn”, “lướt” nhằm làm nổi bật chủ đề và ý nghĩa của truyện. Việc 2: Lựa chọn chủ đề của câu chuyện-Giáo viên cho học sinh đọc thầm gợi ý 1và 2 trong sách giáo khoa, tìm hiểu: Câu chuyện với 3 nhân vật (bà mẹ ốm, người con, bà tiên) có thể là một câu chuyện về sự hiếu thảohoặc một câu chuyện kể về tính trung thực.-Giáo viên gợi ý HS lựa chọn chủ đề câu chuyện ( kể câu chuyện về sự hiếu thảo hay câu chuyện về tính trung thực.)Hướng dẫn HS có thể tưởng tượng ra những cốt truyện khác nhau ( 1 trong 2 chủ đề ) nhằm tạo sự phong phú trong HS tránh rập khuôn, gò ép không phát huy được tính chủ đông, sáng tạo của học sinh.Việc 3: Thực hành xây dựng cốt truyệnMục tiêu chính của hoạt động này là rèn kĩ năng tưởng tượngvà sắp xếp các sự việctrong cốt truyện theo tình tự hợp lí.Tôi thiết nghĩ đây là khâu cực kì quan trọng, giáo viên không nên ngộ nhận trong dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, lấy HS làm nhân vật trung tâm có nghĩa là vai trò của giáo viên có phần mờ nhạt đi, chỉ có giao việc, kiểm soát, tổ chức đánh giá kết quả thực hành của HS là đủ. Thực tế kĩ năng tưởng tượng, dùng từ ngữđể viết câu văn diễn tả các sự việc trong cốt truyện của HS tiểu học vùng nông thôn như TH số 2 Liên Thủy còn nhiều hạn chế nhất định, nhất là HS trung bình, yếu. Để khắc phục những hạn chế trên, đòi hỏi vai trò “ tổ chức, hướng dẫn, điều hành”của giáo viên càng cần được phát huy. Trước hết tổ chức cho học sinh hoạt động cá nhân giao việc cụ thể, rõ ràng, tường minh(đọc tìm hiểu các câu hỏi gợi ý ở SGK) theo chủ đề em đã chọn; đặt câu hỏi gợi ý, tiếp sức, định hướng cho HS khi cần thiết; có thể sử dụng HS giỏi, khá lần lượt trả lời các câu hỏi ở SGK dựng mẫu, nhằm khơi gợi trí tưởng tượng trong HS, biết lựa chọn từ, tạo câu để triển khai các ý cần nói thành đoạn văn cụ thể, biết liên kết các sự việc thành cốt truyện theo yêu cầu đề bài. Ví dụ:*Với chủ đề 1: Câu chuyện về sự hiếu thảo, GV gợi ý học sinh tưởng tượng : Gợi cho HS có nhiều cách diễn đạt khác nhau trong mỗi câu hỏi, mỗi sự việc.-Bà mẹ ốm như thế nào?( ốm rất nặng/ ốm nặng phải nằm liệt giường/)-Người con chăm sóc mẹ như thế nào?( Người con thương mẹ lắm, cứ quấn quýt bên mẹ./ Người con thương mẹ nhiều lắm, lúc thì bón từng thìa cháo, lúc thì quạt cho mẹ ngũ....chăm sóc mẹ tận tình, chu đáo suốt ngày đêm....)-Để chữa khỏi bệnh cho mẹ, người con gặp phải những khó khăn gì? Em đi tìm thuốc quý hiếm chữa bệnh cho mẹ tận rừng sâu, đường lắm nỗi gian truân, vất vả....nhưng em không nản và quyết tâm lặn lội trong mưa rét, đói khát...( Sự việc này bộc lộ rõ tính cách nhân vật người con ) dẫn đến cao điểm, tình huống “Thắt nút”gây sự hồi hộp, chú ý cao cho người nghe.-Bà tiên đã giúp hai mẹ con như thế nào? Bà tiên cảm động trước những việc làm, hành động, suy nghĩ, bất chấp khó khăn, gian khổ... đó là tình yêu thương, lòng hiếu thảo của người con dành cho mẹ nên bà tiênđã giúp cậu tìm được cây thuốc quý.Giáo viên cần hiểu đây là tình tiết mở ra hướng “ Cởi nút “một cách khéo léo.-Kết quả: Bà mẹ lành bệnh, hai mẹ con sống đầm ấm như xưa. Rút ra ý nghĩa cốt truyện giáo dục học sinh