Những khổ thơ cuối của bài thơ đã cho ta thấy được những cảm nghĩ của tác giả về bà, đồng thời là nỗi nhớ thương bà trong xa cách. Đầu tiên là khổ sáu, nội dung là cảm nghĩ của tác giả về người bà của mình:
" Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Mở đầu đoạn thơ là những hồi tưởng kỉ niệm tuổi thơ bên bà, người cháu đã có những suy nghĩ về bà qua các cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm”. Cùng với đó, còn được kết hợp với các từ láy tượng hình “lật đật” và ẩn dụ “nắng mưa”. Tác giả đã cho thấy được cảm nhận của người cháu (tác giả) về những gian nan vất vả, sự chịu thương chịu khó, sự hi sinh của bà. Đó chính là tình cảm hết sức chân thành giản dị mà sâu nặng thiết tha. Suốt cuộc đời bà luôn chăm chuốt cho cháu cả về vật chất lẫn tinh thần. Đối với tác giả, bà chính là người thắp lửa, giữ lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình. Chưa dừng lại ở đó, tác giả còn nhấn mạnh tình yêu thương của bà dành cho mình qua hình ảnh điệp ngữ “nhóm”. Có hai nhóm được tác giả sử dụng trong khổ sáu, nhóm nghĩa thực và nhóm nghĩa ẩn dụ. Nhóm nghĩa thực gồm có “nhóm khoai sắn”, “nhóm nồi xôi gạo”, “nhóm bếp lửa”, chính bếp lửa của bà đã luộc chín khoa, rồi sắn để cùng sẻ chia, chung vui cùng bà con, xóm làng. Từ đó, có thể thấy, bà là người góp phần xây dựng tinh thần đoàn kết ở hậu phương, góp phần tạo nên sức mạnh cho cuộc kháng chiến. Tiếp là “nhóm” với nghĩa ẩn dụ “nhóm niềm yêu thương”, “nhóm những tâm tình tuổi thơ”. Nó ẩn dụ cho công việc thiêng liêng, cao quý của bà. Chính bà đã khơi dậy trong tâm hồn cháu và mọi người xung quanh sự yêu thương khát vọng ước mơ. Đến nỗi, nhà thơ đã phải thốt lên “ôi kì lạ thiêng liêng bếp lửa!”. Đó là sự ngạc nhiên ngỡ ngàng như khám phá ra một điều kì diệu giữa cuộc đời bình dị. Qua những dẫn chứng trên, đã cho thấy khổ thơ là lời gợi ca, khẳng định bà là người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh. Bà là người thắp lửa, là người giữ lửa và truyền lửa ở thế hệ sau.
Những dòng thơ cuối cùng của khổ bảy đã nói lên nỗi nhớ thương bà trong xa cách:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn lửa trăm tàu
Có lửa khói trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Được biết, khi đó tác giả đang ở Liên Xô, đó là nơi có cuộc sống đầy đủ khác hẳn Việt Nam, nó thể hiện rõ qua các từ “khói tàu” , “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”. “Trăm” là từ chỉ số nhiều, điệp ngữ “trăm” kết hợp với từ, có cách dùng liệt kê liên tiếp nhằm diễn tả cuộc sống đầy đủ về vật chất, tinh thần. Nhà thơ trong thật sự hạnh phúc bên nước Nga – Xô Viết. Còn nỗi nhớ thương bà và bếp lửa trong xa cách được thể hiện rõ “ vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở”. Tác giả sử dụng phó từ “vẫn” chỉ sự tiếp diễn; cụm “chẳng lúc nào” tức ngày nào cũng nhớ đến bà, nhớ đến bếp lửa, nhớ đến công việc của bà đó là nhóm bếp. Đó là nỗi nhớ thương da diết luôn thường trực cùng long biết ơn vô tận dành cho bà. Đó là lối sống đẹp của tư tưởng nhân nghĩa uống nước nhớ nguồn. Cuói cùng, tác giả kết thúc bằng câu hỏi tu từ “sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”, nó góp phần tạo nên một hình ảnh bếp lửa và bà cứ mở đi mở lại nhiều lần trong kí ức của nhà thơ như một kí ức khôn nguôi. Tóm lại bằng lời thơ nhẹ nhàng da diết kết hợp cùng với các biện pháp tu từ độc đáo nhà thơ đã khắc họa thành công nỗi nhớ thương bà trong xa cách.