Nói đên NGuyễn Du là nói đến bậc thầy về tả cảnh thiên nhiên, điều đó thể hiện rõ nhất qua 2 khổ thơ sau:
"Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
và:
"Trước lầu Ngung Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tầm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia."
Đúng vậy, chỉ bằng 4 câu thơ Nguyễn Du đã vẽ bức tranh tuyệt đẹp về khung cảnh thiên nhiên mùa xuân mang nét đẹp riêng nhưng rất đặc trưng quen thuộc.
”Ngày xuân… bông hoa”
Tác giả miêu tả cảnh ngày xuân thấm thoát trôi mau, tiết trời bước sang tháng ba. Hình ảnh ẩn dụ "con én đưa thoi "nói lên mùa xuân chú én bay qua bay lại như thoi đưa là đặc trưng của mùa xuân .Mùa xuân trôi qua thật nhanh khiến khiến tác giả có cảm giác bâng khuâng tiếc nuối.
“Cột non xanh….bông hoa”
Nguyễn Du đã sử dụng màu sắc rất hài hòa, nền của bức tranh là màu xanh đến tận chân trời của thảm cỏ. Nổi bật trên nền xanh ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Chữ “ trắng” được đảo lên trước tạo bất ngờ cho câu thơ tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp vừa có chiều dài, chiều rộng,chiều cao đến tận chân trời vừa có điểm “lê trắng”. Tất cả gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân mới mẻ, tinh khôi, dầu sức sống, trong trẻo, tinh khiết.Từ điểm làm cho cảnh vật sống động trở nên có hồn gợi đôi bàn tay người họa sĩ vẽ nên thơ nên hoa. Nghệ thuật chấm phá được nhà thơ sử dụng tài tình. Đến đây ta nhớ tới hai câu thơ cổ của Trung Quốc
“Phương Thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa”
Mùa xuân vốn là nguồn đề tài cảm hứng sáng tác của các thi ca nhạc họa. Đến với các nhà thơ xưa với phong cách cổ điển thì tả cảnh bằng cách gợi. Nguyễn Du gợi tả mùa xuân qua hình ảnh "con én đưa thoi" cỏ non xanh, cành lê trắng" thì Nguyễn Trãi gửi lên mùa xuân với hình ảnh” cỏ non như khói”. Còn các nhà thơ hiện đại gởi tả gợi tả mùa xuân một cách trực tiếp: Hàn Mạc Tử với một "mùa xuân chín"và Thanh Hải với "Mùa xuân nho nhỏ" . Nhưng dù ở thời đại nào thì các tác giả đã vẽ lên bằng cả tình yêu, niềm say mê trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Nhưng dù ở thời đại nào thì các tác giả đã vẽ bằng cả tình yêu, niềm say mê trước vẻ đẹp của thiên nhiên.
Không chỉ tả cảnh ngày xuân, nhà thơ còn tả cảnh trước lầu Ngưng Bích - nơi giam lỏng Kiều. Trong hoàn cảnh lúc này, nàng chỉ còn biết tâm sự, sẻ chia, an ủi nơi cảnh vật.
“Trước lầu… dặm kia”
Từ khóa xuân cho ta hiểu Kiều thực chất đang bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích - một ngôi lầu trước biển, đó là một không gian rộng lớn hiện lên với những nét chấm phá: núi non, cồn cát, bụi hồng. Cảnh vật được tái hiện theo cảm nhận của Kiều dẫu rằng có những cảm nhận trái với quy luật tự nhiên. Chơi vơi trên lầu cao nên Kiều có cảm giác trăng ở gần núi ở xa.
” V ẻ non … ở chung”
“4 bề”: một không gian rộng lớn vắng vẻ, hiu quạnh. Nàng đối diện với cảnh vật, với không gian tuần hoàn khép kín. Nỗi buồn dường như cũng mở rộng đến tận cùng với không gian bát ngát trước mắt. Vì thế mà "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"