Câu 1:
cơ sở kinh tế chính là nông nghiệp kết hợp với chăn nuôi và một số ngành thủ công nghiệp sản xuất khép kín trong công xã nông thôn bóc lột bằng địa tô
có 2 giai cấp đó là địa chủ và nông dân lĩnh canh
chế độ quân chủ là chế độ do vua đứng đầu, quyền lực tập chung trong tay vua từ khi mới thành lập gọi là chế độ quân chủ
Câu 2
Do ko thể lập bảng nên mik nêu ý thôi nhé
Phát kiến địa lí
Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha là những nước tiên phong.
- B. Đi-a-xơ (1487), đã dẫn đầu đoàn thám hiểm đi vòng qua cực Nam của châu Phi. Điểm đó được ông đặt tên là mũi lão Tố, sau gọi là mũi Hảo Vọng.
- C. Cô-lôm-bô (1492), dẫn đầu đoàn thuỷ thủ Tây Ban Nha đi về hướng Tây. Ông đã dẫn đến một số đảo thuộc vùng biển Ca-ri-bê ngày nay, nhưng ông tưởng đây là miền “Đông Ấn Độ”, Cô-lôm-bô được coi là người phát hiện ra châu Mĩ.
- Va-xcô đơ Ga-ma (1497), rời cảng Li-xbon đến Ca-li-cút thuộc bờ Tây Nam Ấn Độ. Trở về Li-xbon, Va-xcô đơ Ga-ma được phong làm Phó vương Ấn Độ.
- Ph. Ma-gien-lan (1519-1522) là người đã thực hiện chuyến đi đầu tiên vòng quanh thế giới bằng đường biển.
+ Đoàn tàu của ông đi vòng qua điểm cực Nam của Nam Mĩ (sau này được gọi là eo biển Ma-gien-lan) tiến vào đại dương, mà ông đặt tên là Thái Bình Dương.
+ Tại Phi-líp-pin, ông bị thiệt mạng trong lúc giao tranh với thổ dân.
+ Cuối cùng, đoàn thám hiểm chỉ còn 1 thuyền và 18 thuỷ thủ về đến bờ biển Tây Ban Nha
Ý nghĩa
- Mở ra một trang mới trong tiến trình phát triển của lịch sử loài người.
- Mở ra những con đường mới, những vùng đất mới, những dân tộc mới, những kiến thức mới, tăng cường giao lưu văn hoá giữa các châu lục.
- Thị trường thế giới được mở rộng, hàng hải quốc tế phát triển.
- Thúc đẩy quá trình khủng hoảng, tan rã của quan hệ phong kiến và sự ra đời của chủ nghĩa tư bản ở châu Âu.
- Tuy nhiên, các cuộc phát kiến địa lí cũng làm nảy sinh quá trình cướp bóc thuộc địa và buôn bán nô lệ.
Câu 3
Dẹp loạn 12 sứ quân
Với phương thức hành động giỏi kết hợp chính trị với quân sự, khéo léo “lấy lòng” Trần Lãm, đồng thời trổ tài cầm quân, giúp Trần Lãm đánh dẹp các thế lực thổ hào nhỏ hơn ở trong vùng, cuối cùng được Trần Lãm tin yêu, giao cho tất cả binh quyền và đất đai, cư dân thuộc vùng hùng cứ - Đinh Bộ Lĩnh đã không chỉ trở thành chúa tể miền đất chiến lược căng ngang – từ Tây sang Đông – cả cạnh đáy, giáp biển, của tam giác châu thổ sông Hồng, mà còn hiện diện giữa cuộc “Loạn thập nhị sứ quân” như một thủ lĩnh, không chỉ kiệt xuất về quân sự, mà còn sắc sảo, giỏi giang về chính trị, đặc biệt là một nhân vật có chí hướng và thích làm lớn.
Đem ứng ngay điều này vào việc tự nhận sứ mạng dẹp “Loạn thập nhị sứ quân” trong các năm từ 965 đến 967, dưới ngọn cờ đề ba chữ “Vạn Thắng Vương”, Đinh Bộ Lĩnh đã cho đương thời và lịch sử, thấy ở mình, bản lĩnh lợi hại của một nhà quân sự bẩm sinh, dưới (ở trong) không chỉ một tấm chiến bào, mà còn là cả chiếc áo thụng của một chính khách, ngày càng thâm trầm, sắc sảo, là như thế nào.
Chỉ có 6 (một nửa) trong số 12 sứ quân (là: Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, Kiều Công Hãn, Kiều Thuận, Nguyễn Thử Tiệp, Lý Khuê) khiến Đinh Bộ Lĩnh phải dùng “biện pháp quân sự” đánh dẹp.
Còn như trường hợp Ngô Nhật Khánh (là họ hàng với Ngô Quyền) thì gả con gái (là Công chúa Phất Kim) cho làm vợ, và thu nạp mẹ của Nhật Khánh làm “hoàng hậu” (vợ) của mình (dùng hôn nhân để thu phục); trường hợp sứ quân Lã Đường ở Văn Giang (Hưng Yên) cũng được Đinh Bộ Lĩnh khéo léo khuất phục. Duy nhất, sứ quân Nguyễn Khoan ở Yên Lạc (Vĩnh Phúc ngày nay) được sử cũ chép là “Tự tan rã”!
Vậy là, đến cuối năm 967, trước mắt, Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh và người dân cả nước Việt lúc bấy giờ, là một cảnh tượng - có phần nào giống với tình hình cuối năm 938, khi Ngô Quyền vừa đánh xong trận Bạch Đằng – “Trời quang mây tạnh”. Sau “giông bão” tiền đồ đang hứa hẹn, đòi hỏi phải làm được một “đại sự” nào đấy, cho thật xứng đáng và xứng hợp.
Lên ngôi
(Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh) lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đặt Kinh đô ở Hoa Lư, bắt đầu dựng đô mới, đắp thành, đào hào, xây cung điện đặt triều nghi. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế”.
Một là, lên ngôi “Hoàng đế” mà không xưng “Vương” nữa, vì đã là “Vạn Thắng Vương” rồi. Nhưng không phải chỉ có thế. Việc “xưng đế hiệu” mà không xưng “Vương hiệu” – mặc dù trong tiếng Việt, “Đế” hay “Vương” thì cũng đều là “vua” cả nhưng động thái này rất có ý nghĩa về mặt ngoại giao, tránh “chạm cạnh” với Hoàng đế nước láng giềng phương Bắc; chính sự rành rẽ này, phát đi những tín hiệu rất rõ ràng về sự bình đẳng/ bình quyền, giữa nước Việt phương Nam và nước Trung Hoa ở phương Bắc, đúng như sự khẳng định ở 5 thế kỷ sau của thiên tài Nguyễn Trãi, trong “Bình Ngô Đại cáo”, bằng 4 chữ thần tình: “Các đế nhất phương” (cùng là “đế” một phương).
Hai là, thành lập một quốc gia dân tộc, một thể chế nhà nước quân chủ tập trung, với bộ máy chính quyền trung ương được tổ chức chặt chẽ, để quản lý (quản trị) một đất nước đã giành lại được độc lập từ thời Ngô Quyền rồi, nhưng bây giờ thì thêm sự thống nhất nữa khi “Loạn thập nhị sứ quân” đã được khắc phục. Đồng thời, sẵn sàng sức mạnh quốc gia mà đối phó với những mưu toan của ngoại bang lăm le xâm lược.
Quốc gia dân tộc ấy, có tên gọi là “Đại Cồ Việt”, một quốc hiệu “vừa chữ (Hán) vừa nôm (dân tộc)”, vừa khẳng định tộc danh “Việt”, vừa biểu đạt xu hướng, khí thế của sự phát triển mạnh mẽ của đất nước và dân tộc, là: rất lớn, “hai lần lớn lao” (tức: Vừa “đại” vừa “cồ”). Ba là, lựa chọn và đặt định, đồng thời xây dựng kinh đô của quốc gia (đất nước) và triều đại (nhà Đinh) ở Hoa Lư (Thung lũng hoa Lau). Đương thời và cho đến ngày nay, vẫn có hai địa điểm và địa danh cùng là Hoa Lư (Thung Lau).
Những năm sau đó, sử cũ cũng còn chép được nhiều việc quan trọng, lớn lao nữa, đã được Đinh Bộ Lĩnh và triều đại của ngài thi hành. Đó là chuỗi công việc và sự nghiệp, tiếp tục và tăng cường hoàn thiện, những đại sự đã được thực hiện, trong và từ năm 968 lịch sử.
Vì thế, năm 968 trong lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc, thường vẫn được “gọi gọn” là: Năm thành lập nước Đại Cồ Việt với một loạt các sáng tạo vượt bậc, luôn và mãi là một cột mốc kỳ vĩ, với nhân vật lịch sử lớn: Đinh Bộ Lĩnh mà thân thế và sự nghiệp còn cần được nghiên cứu sâu sắc thêm và hơn rất nhiều nữa trên dòng lịch sử lâu đời và hào hùng của đất nước và dân tộc ta.