Hình ảnh ông Đồ thời tàn đã đi sâu vào trong lòng người đọc mỗi khi nhắc đến bài ''Ông Đồ'' của Vũ Đình Liên. Đầu tiên là hình ảnh ông Đồ không còn được trọng vọng, ngưỡng mộ ở khổ 3 :
"Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đổ buông không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu."
qua việc tác giả sử dụng quan hệ từ "nhưng" đã thể hiện ý đỗi lập tương phản . Báo sự đổi thay lớn của ông Đồ gợi tâm trạng bất ngờ, sửng sốt. Hay điệp từ"mỗi"diễn tả bước đi thời gian chậm rãi rừ từ, thể hiện sự mài mòn suy thoái. Câu hỏi tu từ:"Người thuê viết nay đâu?" đã gợi sự buồn thương tiếc nuối thất vọng vì bị người đời quay lưng . Vậy nguyên nhân ông Đồ thất thế là do đâu? Vì chế độ thi cử bằng chứ Hán không còn, chữ Nho mất vị thế, thú vui chơi câu đỗi không còn nữa. Vũ Đình Liên đã sử dụng phép nhân hóa "giấy đỏ buồn, nghiên sầu" khiến cho vật vô tri vô giác trở nên có hồn thể hiện sự cô đơn u uất của ông Đồ còn thể hiện cả sự đau sót ngậm ngùi của tác giả. khổ thơ 4 là khổ thơ cuối cùng của bài và cũng là khổ thơ thể hiện hình ảnh ông Đồ đã bị quên lãng :"Ông Đồ vẫn ngồi đấy...ngoài giời mưa bụi bay." Nghệ thuật đối lập tương phản không những thời gian không thay đổi mà lòng người đã đổi thay. Dáng vẻ:"vẫn ngồi đấy " gợi sự trầm ngâm bất động, nhẫn lại nhìn dòng người đang tấp nập ngược xuôi như đợi chờ một điều gì đó. Phó từ phủ định "không" thể hiện sự lạnh lùng thờ ở của mọi người . Bút pháp tả cảnh ngụ tình:"lá vàng rơi " gợi sự tàn tạ, rơi rụng, buồn bã. Lồng thêm đó là cảnh mưa bụi bay gợi sự não nề và ảm đạm . Gieo vần cách, khổ thơ nhiều thanh bằng diễn tả cảm xúc buồn thương kéo dài.
Câu nghi vấn:Vậy nguyên nhân ông Đồ thất thế là do đâu?
Câu phủ định: Nghệ thuật đối lập tương phản không những thời gian không thay đổi mà lòng người đã đổi thay.