Gửi ẹ
Có mấy câu chép ở báo người già mong bẹn ko chê
KHÁI QUÁT PHẬT GIÁO THỜI HẬU LÊ
Kể từ khi triều đại nhà Lý tồn tại 215 năm (1010-1225) Phật giáo mang tính Quốc giáo, nên phát triển mạnh mẽ trên khắp cả nước, từ vua quan cho đến dân. Đến triều đại nhà Trần, tồn tại 175 năm (1244-1400), đầu thời Trần, Phật giáo phát triển đến cực thịnh, nhưng đến giai đoạn cuối thì Phật giáo trên đà đi xuống cùng với sự biến chuyển suy yếu của xã hội. Từ 1400 đến 1477, nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, muốn đưa Nho giáo thành quốc giáo vì ngày đó không có chính thể nào khác để học tập ngoài chế độ phong kiến Trung Hoa. Nho giáo không phải là tôn giáo, họ tập trung mở trường đào tạo ra thành phần trí thức để cai quản xã hội. Rồi đến nhà Minh xâm lược, với chính sách ngu dân, đồng hóa nên tất cả tinh hoa văn hóa, sách vở của Đại Việt bị thiêu đốt hoặc chở về Kim Lăng.
Đến nhà Hậu Lê (1427-1789) là một triều đại phong kiến Việt Nam, nhà Hậu Lê do Lê Lợi lập ra, gồm có hai giai đoạn:
- Lê Sơ (1428-1527) kéo dài 100 năm bắt đầu từ khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi. Lê Lợi gạt bỏ vua bù nhìn là Trần Cảo, tự làm vua lập ra triều đại mới và kết thúc khi quyền thần Mạc Đăng Dung phế bỏ vua Lê Cung Hoàng lập ra nhà Mạc.
- Nhà Lê Trung Hưng (1533-1789) kéo dài 256 năm, bắt đầu từ khi tướng Nguyễn Kim lập tông thất Lê Duy Ninh làm vua Lê Trang Tông tại Ai Lao để khôi phục nhà Hậu Lê. Kết thúc khi vua Lê Chiêu Thống chạy sang lưu vong tại Trung Quốc dưới thời Thanh Cao Tông.
Như vậy, khi nói đến nhà Hậu Lê thì bao gồm hai giai đoạn Lê Sơ và Lê Trung Hưng. Đặc biệt, thời Lê Trung Hưng tuy kéo dài nhưng các vua Lê mất thực quyền, chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Thời kỳ đầu gọi là Nam Bắc triều, nhà Lê và nhà Mạc chia đôi nước Đại Việt. Còn phần lớn hậu kỳ thời Lê Trung Hưng, nước Đại Việt lại bị chia cắt chúa Trịnh và chúa Nguyễn, gọi là Trịnh Nguyễn phân tranh.
Nói đến thời Lê Sơ là kể từ khi Lê Thái Tổ lên ngôi (1428) đến khi Lê Cung Hoàng mất (1257), lúc bấy giờ Phật giáo không phát triển nếu không gọi là giai đoạn “ suy yếu”.
KHÁI QUÁT PHẬT GIÁO ĐÀNG TRONG VÀ ĐÀNG NGOÀI THỜI HẬU LÊ.
Theo dòng lịch sử thì Phật giáo có mặt rất sớm, vào khoảng những năm đầu kỷ nguyên Tây lịch. Suốt thời gian tồn tại, ảnh hưởng sâu rộng và thâm nhập vào mọi tầng lớp dân chúng. Hầu như dân tộc Việt nam gắn liền với Phật giáo Việt Nam. Chúng ta có thể thấy vấn đề này rõ nhất qua những thời đại chuyển mình của đất nước. Nhưng đến thời Lê Sơ, đất nước không ổn định, xã hội rối ren thì Phật giáo cũng “suy”.
Đức Phật nói, cái gì càng cao thì sự sụp đổ càng mau. Thành ra đạo Phật hưng thịnh thì cũng bắt đầu cho sự việc suy vong. Vì cực thịnh, một số Tăng sĩ trong Phật giáo đã lợi dụng của đàn na tín thí để làm sở hữu cá nhân cho riêng mình, rồi từ đó tranh giành với nhau, hủy báng nhau, từ đó dần dần đem đến sự suy tàn của Phật giáo.
“Xét lại Tăng giới hiện thời ở nước ta, phần nhiều không chuyên tâm về học vấn, kẻ hảo tâm thời lo độc thiện, có khi lạc vào cái chủ nghĩa yếm thế nên không biết nghĩa vụ và trách nhiệm của mình; mình đã chẳng biết thời làm sao truyền bá ra cho người khác biết được? Phật lý đã không rõ rệt, nên những kẻ tại gia tín ngưỡng phần nhiều là mê tín, chỉ biết đốt hương cầu khấn Phật, Thần phù hộ, cho cuộc đời mình được sung sướng thảnh thơi mà thôi, chớ ít có ai tiêm nhiễm một chút từ bi bác ái. Thành ra cái chùa Phật hình như cái bảo hiểm công ty, thời tránh sao khỏi những kẻ gian tà, họ lợi dụng để mưu kế sinh nhai, khiến cho trong Tăng giới hằng ngày diễn tấn bi kịch”.[3]
Vì thế triều đình có những chế định, quy điều để ràng buộc Tăng già, để Phật giáo nương theo đó mà phát triển.
“Lê Thánh Tông hạn chế Phật giáo và Đạo giáo chặt chẽ hơn. Năm 1461, nhà nước cấm quan lại, nhân dân không được xây thêm chùa mới, tự tiện đúc chuông, tô tượng. Hoạt động của bọn thầy cúng, thầy bói, đạo sĩ bị ngăn cấm. Các nhà sư uống rượu, ăn thịt đều bị hoàn tục, phạm tội dâm ô thì bị lưu đày. Năm 1471, Thánh Tông đặt ti Tăng lục và Đạo lục chuyên trách Đạo giáo và Phật giáo…”[4]
Trở lại vấn đề chúng ta thấy, để ổn định trật tự xã hội và củng cố chính quyền nên triều đình phải dùng Nho giáo, vì thế Phật giáo không được ủng hộ như trước. Nên tư tưởng dung thông tam giáo giữa hai giai đoạn: Thế kỉ XI- XIV và XVI-XVIII có ý nghĩa và mục đích khác nhau. Nhưng Phật giáo vẫn phát triển âm thầm. Tiếp theo là vào thời Trịnh-Nguyễn phân tranh hai Đàng Trong-Ngoài với hai hoàn cảnh xã hội khác nhau. Đàng ngoài xã hội suy nên Phật giáo cũng không phát triển, trong khi Đàng Trong thì xã hội ngày một hưng thịnh.
Cuộc sống nhân sinh trong thời đất nước suy vi cũng đã làm cho nhiều người quay về với đạo Phật. Đối với quần chúng, sự phản tỉnh này chỉ như một nguồn an ủi tâm linh làm nơi nương tựa tinh thần để vơi đi những khổ đau đang chế ngự trong lòng người dân Việt. Đối với vua quan, họ quy hướng vào đạo Phật và ủng hộ đạo Phật nhưng đây chỉ là để tạo dựng công đức cho dòng họ chứ họ không biết lấy tinh thần Phật giáo làm chủ đạo cho việc trị quốc an dân. Tuy nhiên, sự phản tỉnh của quần chúng và tầng lớp cai trị đã tạo thành môi trường thuận tiện cho sự phục hưng Phật giáo, sự phục hưng này được đẩy mạnh nhờ hai động lực.
Thứ nhất là có nhiều cao tăng từ Trung Hoa qua Đại Việt hành đạo, đem qua một nguồn sinh lực cho đạo Phật Việt Nam (đặc biệt lúc này là Phật giáo Đàng Trong).
Thứ hai là tầng lớp trí thức, đứng trước bao cảnh dâu bể của nhiều triều đại kế tiếp nhau đã bắt đầu xoay sang nghiên cứu Phật học, rồi nhiều người đã xuất gia để trở thành một nguồn nhân lực mới cho cuộc phục hưng Phật giáo.
“Thế kỷ XVI, XVII Phật giáo lại được phục hồi ở cả hai miền, “Vua chúa, phi tần, quan lại đua nhau theo Phật, góp tiền, cúng ruộng cho các chùa. Từ thời Mạc, các chùa Thiên Hựu, Bảo Phúc (Hà Tây)…được sữa chữa, các chùa Viên Giác, Hưng Phúc (Hải Dương), Sùng Quang (Hà Nội) được xây dựng. Thời Lê-Trịnh, Trịnh Tạc cho trùng hưng chùa Tây Phương (Hà Tây), Trịnh Cương bắt dân ba huyện sửa chữa lại chùa Phúc Long (Bắc Ninh) suốt 6 năm liền không xong, phải bỏ, chùa Tây Thiên (chân núi Tam Đảo), chùa ở núi Độc Tôn (Bắc Thái).., Trịnh Giang bắt dân ba huyện Hải Dương sửa lại chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều), Sùng Nghiêm (Hải Dương), chùa Hương Hải (Hải Dương), tạc tượng Phật đặt ở chùa Quỳnh Lâm v.v… Ở Đàng Trong, Nguyễn Hoàng cho dựng chùa Thiên Mụ (năm 1601), các chúa sau nhiều lần trùng tu và xây thêm nhiều chùa khác, cho người sang Trung Quốc xin kinh Đại Tạng. Nhân dân nhân đó cũng đổ công sức, tiền bạc vào tu sửa, xây dựng chùa, theo Phật. Nhưng nhìn chung Phật giáo không còn thịnh đạt như ở Thời Lý-Trần, các nhà chùa không còn là những trung tâm vừa để giảng đạo vừa có một nền kinh tế phong phú”.[5]
Trải qua bao thời đoạn của lịch sử chúng ta thấy cội nguồn dân tộc đã hòa quyện với môi trường Phật giáo, một môi trường tâm linh lành mạnh và khoa học, nên theo giáo sư Nguyễn Khắc Thuần thì: “Chùa chiền, diễn đạt theo cách nói hiện đại, thực sự là những trung tâm văn hóa của xã hội”.[6]
KẾT LUẬN
Phật giáo Việt Nam ảnh hưởng bởi sự kết tinh của hai luồng văn hóa lớn từ Ấn Độ và Trung Quốc. Nhờ sự hòa nhập khéo léo nhuần nhuyễn của Phật giáo mà người dân bản địa tiếp thu tư tưởng Phật giáo dễ dàng. Đó chính là nền tảng dẫn đến sự phát triển ở những giai đoạn sau này. Thời đại Lý-Trần, Phật giáo được xem là thời đại hoàng kim. Tuy nhiên, những thời đoạn đi qua, với biết bao thăng trầm mà Phật giáo đã cùng có mặt với đất nước và dân tộc. Cái thời vàng son ấy của Phật giáo đã bị mai một, khi triều Lý-Trần được thay bằng triều Lê. Thời gian đầu Phật giáo vẫn giữ được ưu thế, nhưng đến cuối Lê thì Phật giáo được thay bằng Nho giáo.
Sự suy yếu của triều đình Hậu Lê đã làm cho sự tranh giành của các phe phái diễn ra quyết liệt và hỗn loạn. Mạc Đăng Dung dần dần chiếm ưu thế, đến năm 1527 nắm toàn bộ quyền hành trong tay, lập nên nhà Mạc. Giai đoạn này chiến tranh tàn khốc, cũng chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng đất nước bị chia cắt, khiến dân chúng rơi vào cảnh lầm than.
Trong thời đoạn đất nước bị chia cắt, chiến tranh kéo dài. Chính lúc ấy sự có mặt của Phật giáo đã góp phần không nhỏ trong việc giúp cho người dân ở các xóm làng quên đi sự đau khổ của chiến tranh phong kiến, thiên tai… mà quay về đời sống tâm linh nơi chính mình.
Về tư tưởng, dùng Nho giáo để củng cố chính quyền, tình trạng mua quan bán chức công khai nên bộ máy quan lại ngày càng đông mà thực chất chỉ là hư danh. Vì thế vua chúa và Nho sĩ là những người đại diện đứng ra dung thông Tam giáo.
Nhìn chung, Phật giáo thời Hậu Lê đã cho chúng thấy được nét khởi sắc của Phật giáo, dù thời đoạn có thành bại, nhưng nền tảng chân lý không sai khác. Thế nên, đối với các vị thiền sư lúc bấy giờ, dù có được trọng dụng hay không thì cuộc đời các Ngài vẫn thanh nhàn trong chốn thiền môn, nơi nào đủ duyên thì hiện, không đủ duyên thì ẩn. Cái đến đi của các Ngài khác nào:
“Nhạn quá trường không
Ảnh trần hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm”..
Ờm có mấy câu tui hỏi cô giáo vs cả ông tui mong bạn ko chê