(3 điểm)

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi bên dưới:

“Đọc, trong nghĩa đó là một trò chơi. Nơi mỗi người đọc có ba nhân vật chồng lên nhau, tác động lên nhau. Một là người đọc bằng xương bằng thịt, hai chân đụng đất, vẫn còn ý thức liên hệ với thế giới bên ngoài. Hai là, người đọc bị lôi cuốn, đang ngao du trong thế giới tưởng tượng của cảm xúc. Đó là người đang chơi. Ba là, người đọc suy tư, đưa vào trò chơi sự chú ý, sự suy nghĩ, sự phán đoán của tri thức. Đó là phút giây của trí tuệ có khả năng đưa người đọc lùi ra khỏi bài văn, mở một khoảng cách để diễn dịch. Người đọc vẫn ý thức rằng mình đang chơi nhưng biết phán đoán. Ba tay chơi là một trong việc đọc, chơi với nhau một trò chơi tinh tế khiến người đọc vừa bị lôi cuốn vừa biết dừng lại, vừa tham dự vừa cách biệt với bài văn. Tư thế của người đọc văn là vậy: tham dự và cách biệt qua lại không đứt quãng.”

(Trích “Chuyện trò” – Cao Huy Thuần, NXB Trẻ, 2013)

1. Xác định thao tác lập luận chính trong đoạn văn? (0.25 điểm)

2. Đoạn văn được viết theo kiểu nào? (0.25 điểm)

3. Nêu nội dung chính của văn bản? (0.5 điểm)

4. Đoạn văn được viết theo phong cách ngôn ngữ nào? (0.5điểm)

Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi bên dưới:

(…)

“Tuổi thơ chân đất đầu trần

Từ trong lấm láp em thầm lớn lên

Bây giờ xinh đẹp là em

Em ra thành phố dần quên một thời


Về quê ăn Tết vừa rồi

Em tôi áo chẽn, em tôi quần bò

Gặp tôi, em hỏi hững hờ

“Anh chưa lấy vợ, còn chờ đợi ai?”


Em đi để lại chuỗi cười

Trong tôi vỡ… một khoảng trời pha lê.


Trăng vàng đêm ấy bờ đê

Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may…”

(Phạm Công Trứ)

5.Xác định các phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ? (0.5đ)

6. Anh/chị hiểu như thế nào về hai câu thơ: (0.5đ)

“Em đi để lại chuỗi cười

Trong tôi vỡ… một khoảng trời pha lê”?

7. Anh/chị nhận xét như thế nào về hai nhân vật trữ tình “tôi” và “em” trong đoạn thơ ? (0.5đ)
A.
B.
C.
D.

Các câu hỏi liên quan


(3,0 điểm)

Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi bên dưới, từ câu 1 đến câu 4:

Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước ta, đáng lẽ phải sáng tỏ hơn nữa trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là trong lúc này.

Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và cành nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy. Có người chỉ biết Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của “Lục Vân Tiên”, và hiểu “Lục Vân Tiên” khá thiên lệch về nội dung và về văn, còn rất ít biết thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu, khúc ca hùng tráng của phong trào yêu nước chống bọn xâm lược Pháp lúc chúng đến bờ cõi nước ta cách đây một trăm năm!

(Trích Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc, Phạm Văn Đồng, Ngữ văn 12, trang 48, NXB Giáo dục, 2008)

Câu 1: Hãy chỉ ra phép tu từ cú pháp được sử dụng trong đoạn văn trên. (0,25 điểm)

Câu 2: Trong đoạn văn trên, tác giả chủ yếu sử dụng thao tác lập luận nào? (0,25 điểm)

Câu 3: Xác định và chỉ ra phép tu từ được sử dụng trong đoạn văn. (0,5 điểm)

Câu 4: Trong phần mở đầu của bài viết này, Phạm Văn Đồng đã nêu nhận xét gì về Nguyễn Đình Chiểu và thơ văn của ông? (0,5 điểm)

Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi bên dưới, từ câu 5 đến câu 8:

…Hơn một loài hoa đã rụng cành,

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;

Những luồng run rẩy rung rinh lá…

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.

(Đây mùa thu tới, Xuân Diệu, Ngữ văn 11 nâng cao, trang 30, NXB Giáo dục, 2009)


Câu 5: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ trên. (0,25 điểm)

Câu 6: Thủ pháp nghệ thuật nào đã được Xuân Diệu sử dụng trong đoạn thơ? (0,5 điểm)

Câu 7: Từ “rũa” trong câu “Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh” có thể được hiểu như thế nào? (0,25 điểm)

Câu 8: Anh/chị có nhận xét gì về cách cảm nhận thiên nhiên của Xuân Diệu qua đoạn thơ trên. (Trả lời từ 5 - 7 dòng). (0,5 điểm)
A.
B.
C.
D.