I, Dàn ý tham khảo
1, Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
2, Thân bài
- Khí phách hiên ngang, dũng cảm
- Không sợ hiểm nguy
- Kiên cường vượt qua mọi gian khó
3, Kết bài
- Tình cảm của em dành cho tác phẩm
II, Bài văn tham khảo
Có thể khẳng định rằng, cả hai bài thơ "Vào nhà ngục quảng đông cảm tác" và "Đập đá ở Côn Lôn" đã thể hiện rõ nét hình ảnh người chí sĩ cách mạng dưới ngòi bút tài hoa của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.
Mở đầu bài thơ "vào nhà ngục quảng đông cảm tác", hai câu đề đã vẽ nên cho chúng ta hình ảnh một người cách mạng với phong thái ung dung, lạc quan:
Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù
Câu thơ mở đầu bài thơ với việc sử dụng điệp ngữ "vẫn" lặp lại hai lần cùng các từ ngữ Hán Việt "hào kiệt", "phong lưu" không chỉ nêu lên hoàn cảnh của người cách mạng mà hơn thế nó như một lời khẳng định phong cách sống ung dung, đàng hoàng, đĩnh đạc của người cách mạng dẫu trong bất cứ hoàn cảnh nào. Câu thơ "Chạy mỏi chân thì hãy ở tù" là một cách nói khỏe khoắn, toát lên tinh thần lạc quan của nhà cách mạng. Dường như, họ không cảm thấy buồn bã, chán nản khi bị bắt giam mà với họ, nhà tù chỉ là nói nghỉ chân trên con đường dài hoạt động cách mạng của mình. Như vậy, hai câu thơ mở đầu đã làm toát lên phong thái ung dung, tinh thần hào sảng, lạc quan của nhà cách mạng yêu nước.
Nếu hai câu đề dựng lên trong chúng ta hình ảnh người cách mạng với phong thái ung dung, tinh thần lạc quan thì trong hai câu thực, hình ảnh người cách mạng hiện lên với tâm thế vững vàng, hiên ngang.
Đã khách không nhà trong bốn bể
Lại người có tội giữa năm châu.
Hai câu thơ với việc sử dụng thành công thủ pháp đối lập thường thấy đã làm nổi bật hình ảnh người cách mạng với phong thái ung dung. Người cách mạng tự xem mình là "khách không nhà", điều đó vừa cho chúng ta thấy hoàn cảnh khó khăn, vất vả trên con đường hoạt động cách mạng, nhưng hơn hết, ẩn sau từng câu chữ đó chính là nét đẹp tinh thần, tâm hồn của họ. Đó chính là tâm thế tự do, là tinh thần ung dung ngay trong chính hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm thiếu thốn. Thêm vào đó, với việc sử dụng từ "lại" như một lời nhấn mạnh, tác giả đã thể hiện rõ thái độ mỉa mai của mình trước hành động khủng bố những người yêu nước, những nhà cách mạng của thực dân Pháp.
Thêm vào đó, hai câu thực của bài thơ làm bật nổi lên trước mắt chúng ta hình ảnh nhà yêu nước với khẩu khí ngang tàn và luôn ôm ấp trong mình hoài bão, ý chí lớn lao.
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế
Mở miệng cười tan cuộc oán thù
Câu thơ "Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế" như một lời khẳng định đầy đanh thép về hoài bão kinh bang tế thế. Dẫu trong hoàn cảnh nào đi chăng nữa thì dường như khát vọng, hoài bão kinh bang tế thế vẫn luôn thường trực và hiện hữu trong tác giả. Đặc biệt, khẩu khí ấy càng được làm nổi bật rõ nét qua tiếng cười. Với cách nói phóng đại "cười tan cuộc oán thù" dường như đã khẳng định sức mạnh, niềm tin của những cách mạng họ có thể chiến thắng, có thể đánh tan mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù.
Hai câu thơ khép lại bài thơ như một lời khẳng định hùng hồn, đanh thép về ý chí, tinh thần và phong thái của những nhà cách mạng yêu nước bấy giờ. Với biện pháp điệp ngữ được sử dụng thành công đã cho chúng ta thấy rõ những phẩm chất tốt đẹp của những con người cách mạng. Họ là những con người quyết đấu tranh đến tận cùng vì dân tộc, vì sự nghiệp cứu nước và sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn, nguy hiểm, thiếu thốn và gian khổ để hoàn thành sự nghiệp, sứ mệnh của mình.
Thân ấy vẫn còn còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu
“Đập đá ở Côn Lôn” là khẩu khí của một người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang. Khẩu khí ấy rắn rỏi như chính khí phách của tác giả – một nhà chí sĩ yêu nước trên bước đường bôn ba cách mạng đang bị giam cầm, đày ải. Có thể nói rằng, với “Đập đá ở Côn Lôn” nhà chí sĩ Phan Châu Trinh đã khẳng định rằng, có một dòng thơ ca yêu nước chống ngoại xâm toát lên khí phách kiên cường bất khuất.
Trước hết tác giả đã dựng lên một tượng đài hiên ngang, lẫm liệt về người anh hùng cứu nước. Dẫu đó là một người tù nhưng hình ảnh thơ lại khiến ta liên tưởng đến tư thế của người đang làm chủ mình, làm chủ cuộc sống, muốn dùng sức mạnh và nghị lực của bản thân để hoán cải càn khôn, vũ trụ:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Thật hào hùng, thật lẫm liệt ở cái tư thế “đứng giữa đất Côn Lôn”. Ởđây, vị trí của kẻ làm trai là vị trí trung tâm. Đất Côn Lôn như là toàn bộ hình ảnh thu nhỏ của cuộc sống đầy cam go khủng khiếp. Với tư thế ấy, kẻ làm trai như muốn khẳng định sức mạnh dời non lấp biển của mình, sức mạnh ấy sánhngang cùng trời đất, ở chính giữa trời đất. Họ tin rằng với vị trí ấy, sức mạnh đó sẽ làm cho “lở núi non”.
Đi liền với tư thế là hành động:
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Hai câu thơ vận dụng nhiều động từ chỉ hành động mạnh, hay nói cách khác động từ chi phối toàn bộ ý tưởng của câu thơ: “xách”, “đánh tan”, “ra tay”, “đập bể”… Hình ảnh và ý thơ đối nhau chan chát vừa tạo lớp nghĩa tả thực người tù đang cầm búa để đập đá trong những buổi lao động khổ sai, vừa tạo nghĩa bóng thể hiện khí phách hào hùng của người có chí lớn.
Cùng với dụng ý sử dụng động từ, cách ngắt nhịp của hai câu thơ khiến hình ảnh thơ trở nên cứng cỏi, mãnh liệt:
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Nhịp thơ 2/2/3 tạo nên hành động mạnh mẽ, ý chí quyết tâm của kẻ có chí vá trời lấp biển.
Và tiếp theo, hai câu luận (5 – 6) thể hiện nghị lực phi thường của kẻ làm trai trong một hoàn cảnh vô cùng nghiệt ngã:
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.
“Tháng ngày”, “mưa nắng”, những thử thách của thời gian và hoàn cảnh không làm cho người chiến sĩ sờn lòng, nản chí, trái lại, lời thơ khẳng định một quyết tâm vượt qua mọi gian lao, khổ hận để giữ tấm lòng son sất.
Hai câu thơ kết, tác giả bộc lộ trực tiếp tâm tư, tình cảm của “những kẻ vá trời khi lỡ bước”. Nếu nói rằng âm hưởng chủ đạo của bài thơ là khẩu khí anh hùng của một người tuy thất thế nhưng vẫn nuôi mộng lớn dời non lấp bể thì ở hai câu kết ý tưởng đó được thể hiện nổi bật nhất:
Những kẻvá trời khi lỡ bước
Gian nan chi kể việc con con!
Hình tượng kì vĩ “những kẻ vá trời” làm ta liên tưởng đến bà Nữ Oa trong câu chuyện thần thoại, sức mạnh của Nữ Oa là sức mạnh biến cải cả trời đất, vũ trụ. Khí phách của người anh hùng trong bài thơ được tỏa sáng, tạo nên sức truyền cảm góp phần động viên tinh thần những người yêu nước trong những giờ phút nguy nan nhất.
Đọc xong bài thơ, có hai hình ảnh đậm nét đọng lại trong tâm trí em. Đó là hình ảnh một người bị kẻ thù đày đọa nhưng vẫn coi thường gian khổ, chết chóc, dáng vẻ vẫn hiên ngang anh hùng. Người chí sĩ xem thực tế khổ ải của lao tù thực dân như một hoàn cảnh để tôi rèn khí phách. Một hình ảnh khácvượt lên hoàn cảnh tù đày, không gian, thời gian, một kẻ “làm trai” nguyện đem tâm huyết và nghị lực để cải tạo thế giới, biến cái cuộc sống thực tại hướng tới một chân trời sáng tươi của đất nước, dân tộc. Hai hình ảnh đó liên kết, đan xen, bổ sung cho nhau để dựng nên một tượng đài anh hùng rực rỡ trong dòng văn học yêu nước chống ngoại xâm.