Hai khổ thơ, khổ 1 trong bài “Chiều xuân” của Anh Thơ, khổ 2 trong bài “Quê hương” của Tế Hanh đều viết về quê hương nhưng cảnh và cách tả cảnh của hai khổ thơ có nhiều điểm khác nhau:
- Khổ thơ trong bài “Chiều xuân” là thiên nhiên ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ với mưa bụi êm êm, bến vắng, đò lười biếng, quán tranh, hoa tím rụng. Tất cả đều gợi nên một chiều xuân êm đềm tĩnh lặng, lắng dịu, thiết tha, một thiên nhiên nông thôn Việt Nam dân dã và gần gũi. Anh Thơ đã vẽ nên một chiều xuân bằng sự quan sát tinh tế, bằng cách vẽ nhiều chi tiết cụ thể hữu tình. Vẫn có những hình ảnh được nhân hóa: đò lười biếng, quán im lìm nhưng chỉ tạo hình mà chưa gợi hồn. Đúng như lời nhận xét: “Bức tranh quê” chứa nhiều thành tố tả cảnh mà tình chưa tương ứng, nhiều thực quá mà còn thiếu hư, “hiển ngôn lấn át vô ngôn gợi”… (Văn Tâm).
- Khổ thơ trong bài “Quê hương” đã vẽ nên một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển, trong đó nổi bật lên là hình ảnh khỏe khoắn đầy sức sống của người dân chài điều khiển đoàn thuyền băng mình ra khơi. Khổ thơ vừa là phong cảnh thiên nhiên nhưng vừa là bức tranh lao động đầy hứng khởi và dào dạt sức sống. Không êm đềm, tĩnh lặng như chiều xuân của đồng bằng Bắc Bộ, bức tranh ấy “sống” hơn bởi việc xuất hiện hàng loạt những từ ngữ “hăng, phăng, vượt” và hình ảnh so sánh “Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã” đã diễn tả khí thế dũng mãnh của con thuyền ra khơi, toát lên một sức sống mạnh mẽ, một vẻ đẹp hùng tráng, hấp dẫn. Hình ảnh được miêu tả trong khổ thơ không chỉ có hình mà còn có hồn. Cánh buồm giương to căng gió biển khơi, trở thành biểu tượng của linh hồn làng chài thiêng liêng, ấm áp. Biện pháp so sánh cía hữu hình (cánh buồm) với cái vô hình (mảnh hồn làng) khiến cho hình ảnh mang vẻ đẹp bay bổng, lãng mạn, diệu kì.