PHẦN TRẮC NGHIỆM:
1, B. Phong cách Hồ Chí Minh
2, D. Gian nan vất vả
3, A. Câu đơn
4, D. Liệt kê và so sánh
5,
Bác Hồ từng dạy bài học về tinh thần đoàn kết luôn là bài học đắt giá đối với mọi cá nhân trong cộng đồng "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công". Đoàn kết là khi mọi người đồng lòng vì 1 mục tiêu chung, lợi ích chung và sự nghiệp chung. Tinh thần đoàn kết làm nên sức mạnh bất bại đã được chứng minh trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của người VN. Trong thời chiến, dân tộc VN đã chung sức đồng lòng đánh giặc, đoàn kết tương trợ lẫn nhau vì 1 mục tiêu cứu quốc trước mắt. Chỉ khi đoàn kết, thì người dân mới làm được những điều phi thường mà cá nhân chẳng thể làm được nếu 1 mình. Đoàn kết là sức mạnh và ngày nay, khối đại đoàn kết sức mạnh toàn dân tộc chính là phương châm hoạt động của nhà nước ta. Chỉ khi đất nước, dân tộc anh em chung sức đồng lòng vì sự nghiệp cống hiến tổ quốc trong thời bình thì mới không có lực lượng phản động nào có thể chia rẽ được đất nước. Trong những ngày dịch bệnh diễn ra, chỉ khi đất nước có được sự đoàn kết và tương thân tương ái thì VN mới có thể khống chế và kiểm soát dịch bệnh hiệu quả như vậy. Chính tinh thần đoàn kết của mọi tầng lớp nhân dân chính là vũ khí, là sức mạnh giúp đất nước chống chọi lại dịch bệnh. Đất nước duy trì được 1 khối thống nhất, nhân dân được sống trong cảnh hòa bình, êm ấm, ko có rối ren chính trị đều là nhờ duy trì được khối đoàn kết toàn dân. Hơn nữa, việc đoàn kết được sức mạnh của tập thể cũng giúp ích làm được những điều to lớn và mỗi cá nhân đều được giúp ích trong đó. Tóm lại, bài học về lòng đoàn kết là bài học quý giá và quan trọng đối với mọi cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
6,
Nguyễn Du chính là đại thi hào của dân tộc VN. Các tác phẩm của ông đều thể hiện được tấm lòng thương người và trải đời sâu sắc của ông. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là Truyện Kiều đã thể hiện được bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc của ông. Trong đó, đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm trong phần Gia biến và lưu lạc đã thể hiện được bút pháp miêu tả tâm trạng nhân vật trên nền thiên nhiên tài tình của ông.
Đầu tiên, sáu câu thơ mở đầu của đoạn trích là những câu thơ đong đầ tâm trạng của Kiều. Từ trên lầu cao, trước mặt, nàng cảm nhận được một không gian mênh mông rợn ngợp. Xa xa là dãy núi, hai bên bờ là cồn cát bụi mù bay. Chỉ có lầu Ngưng Bích hoàn toàn khép kín đang giảm lòng một thân phận mỏng manh đơn côi. Một mình đối diện với "mây sớm đèn khuya" khiến Kiều đau khổ đến tủi nhục bẽ bàng cho số phận ba chìm bảy nổi của mình.
"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"
Vòng thời gian luẩn quẩn một chu kỳ mây sớm đèn khuya khiến cho Kiều tan nát cõi lòng "chia tấm lòng" mà đau khổ vì hoàn cảnh đáng thương của chính mình.
Tám câu thơ tiếp theo chính là nỗi nhớ thương và tình yêu của Kiều đối với gia đình và Kim Trọng. Hai câu thơ "Tưởng người dưới nguyệt chén đồng/Tin sương luống những rày trông mai chờ". Kỷ niệm đôi lứa từng được cùng Kim Trọng uống rượu dưới ánh trăng vằng vặc nay hiện về trong tâm trí của Kiều. Đó là nỗi nhớ tình đầu đậm sâu của mình. Nhớ về chàng Kim, Kiều nhớ về chén rượu thề nguyền đính ước, minh chứng tình yêu đẹp đẽ của họ dưới ánh trăng. Dù cho Kiều đã trao duyên cho em mình nhưng có lẽ nàng Kiều vẫn chưa thể quên đi tình yêu của mình. Nàng còn lo sợ cho chàng Kim chờ mong tin tức của mình trong vô ích. Càng thương nhớ chàng Kim bao nhiêu thì hai câu thơ tiếp theo thể hiện sự xót thương của Kiều cho chính số phận, cuộc đời của mình "Bên trời góc bể bơ vơ/Tấm son gột rửa bao giờ cho phai". Kiều không chỉ thương cho số phận ba chìm bảy nổi bơ vơ tột cùng của mình mà còn thương cho sự trong trắng, trinh bạch của đời mình đã bị phá hủy, không thể gột sạch được. Hình ảnh "tấm son" là hình ảnh ẩn dụ của tấm lòng trinh bạch của Kiều, nay đã chẳng thể trở về sự trong trắng nguyên vẹn, ấm êm ngày xưa. Cuối cùng, 4 câu thơ còn lại đó chính là nỗi nhớ thương của Kiều dành cho bố mẹ của mình. "Xót người tựa cửa hôm mai/Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ". Hình ảnh "người tựa cửa" đó là hình ảnh của bố mẹ mà Kiều tưởng tượng đang đứng trông chờ nàng trở về. Hình ảnh "quạt nồng, ấp lạnh" và câu hỏi tu từ cho thấy nỗi lo lắng, bận tâm của Kiều về việc ai sẽ chăm sóc cho bố mẹ thay nàng. Nhớ về bố mẹ, ta thấy được nỗi đau đớn, xót xa của nàng Kiều khi giờ đây, bố mẹ chẳng có ai để ủ ấm chăn vào mùa đông và quạt mát cho bố mẹ vào mùa hè nữa. Hai câu thơ "Sân Lai cách mấy nắng mưa/Có khi gốc tử đã vừa người ôm" có sử dụng điển tích "Sân Lai, gốc tử" cho thấy tấm lòng hiếu thảo của nàng đối với cha mẹ nơi quê nhà. Hình ảnh "cách mấy nắng mưa" cho thấy sự cách biệt cha mẹ ở cả không gian và thời gian của Kiều. Ở nơi đất khách quê người, nàng không chỉ lo lắng cho cha mẹ mà còn cảm thấy đau đớn tột cùng, xót xa cho chính mình. Tóm lại, 8 câu thơ giữa bài thơ đã cho thấy tâm trạng đau đớn, xót xa đến tột cùng của nàng Kiều ở nơi đất khách quê người.
Tóm lại, 14 câu thơ đầu trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" đã thể hiện được nỗi lòng của Thúy Kiều và hoàn cảnh đáng thương tội nghiệp của Kiều khi ở nơi đất khách quê người. Từ đó, ta thấy được giá trị nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du.