Nỗi nhớ với những cảm nhận sâu sắc về quê hương. “Về thôi em” ngay đầu đề bài thơ đã thấm đẫm trong đó một tình quê trĩu nặng. Từ cái tình quê như một lời hối thúc, giục giã đó, tác giả mở ra trong cõi đời vô tận một hình ảnh quê hương trong nỗi nhớ sao mà ấm áp, bình dị đến thế! Lời thơ là lời tâm tình của người con xa xứ với giọng điệu thiết tha, nhẹ nhàng, trìu mến qua thể thơ tám chữ. Bài thơ mở ra bằng một câu hỏi đi làm với một thông báo: Em ra không mai anh về đất Quảng Trời miền Nam giáp Tết quá nôn nao Thông báo được đưa ra ngay trong không khí miền Nam những nagỳ giáp tế, người Quảng xa xứ đang quay quắt nhớ cố hương và đau đáu một nỗi niềm quê kiểng. Chính cảm thức thời gian, không gian đó đã làm cho khổ thơ mở đầu nhuốm màu tâm trạng và dậy lên một nỗi khát khao: Trời miền Nam giáp Tết quá nôn nao. Thèm chi mô một chén rượu hồng đào, Dẫu chưa uống - chỉ say từ câu hát. Nhắc tới quê nhà Quảng Nam là gợi nhớ về câu ca dao xưa: “Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đã say”. Câu ca ấy như thấm vào máu thịt của người dân xứ Quảng, giờ chạm đến lại ùa về làm say đắm lòng người. Nhắc tới quê hương là cồn lên nỗi “thèm” về một “chén rượu hồng đào”, đặc sản nổi tiếng của đất Quảng. Chất men ấy chỉ cần nghĩ đến đã làm ta ngất ngây. Đó là chất men của rượu hay chất men được thăng hoa từ vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh vật và con người nơi đây? Và cứ thế lời thơ tuôn chcảy tự nhiên theo mạch nguồn cảm xúc, gợi thương, gợi nhớ về một miền quê trên dải đất miền trung nắng đổ, mưa tràn nhưng lại nuôi dưỡng nên bao thế hệ con người bằng dòng máu anh hùng Cái ánh sáng chan hoà trong mắt nhỏ Cái không khí anh hùng ta hít thở Đã nâng ta hơn mọi thiên thần. Người xa quê như thấy mình được sống lại với từng cảnh vật thân thiết của quê nhà: Em ở biển ngọn khoai trườn nổng cát Anh trên nguồn đá chặn củ mì eo Cả đời cha cày bới lượm đói nghèo Vần khen đất mình chưa mưa đà thấm. Biển dưới em con cá chuồn ngon lắm Trên nguồn anh trái mít phải lòng theo. Không như Tế Hanh nhớ quê hương là “nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng”, là “quên sao được sắc trời xanh biếc” và “nhớ cả những người không quen biết”, Quang Anh nhớ tới quê hương là nhớ tới ngọn khoai. củ mì, conc á chuồn, trái mít. Chúng chưa hẳn là đặc sản cảu vùng đất Quảng Nam, nhưng lại là những sản vật gắn liền với mảnh đất “chưa mưa đà thấm”, gắn với tâm thức của người con xứ Quảng. Nó không chỉ là hình ảnh biểu trưng của mảnh đất quê nhà mà còn là biểu tượng của cuộc sống người dân Quảng Nam với bao nỗi nhọc nhằn, gian nan, vất vả. Cái chất Quảng nằng nặng trong ngôn ngữ “thèm chi mô…”, cái mộc mạc bình dị trong từng sản vật chính là cái “hồn” của một miền quê đầy nắng cát đã kết thành “mật ngọt” trong hồn thơ thi nhân. Bên hạt lúa củ khoai mặn mòi giọt mồ hôi ấy, hình ảnh người cha hiện lên trong cơ cực “cả đời cha cày bới lượm đói nghèo” và hình ảnh tần tảo sớm khuya của mẹ: Lận đận một đời quải gánh gieo neo Nuôi con lớn mẹ lên nguồn xuống biển. Những từ láy gợi tả cùng với thành ngữ dân gian kết hợp lối đảo ngữ có sức lay động đến miền sâu kín nhất cảu con tim - Giọng thơ trĩu nặng tâm tình như một lời tri ân. biết ơn, kính trọng và niềm xót xa cảu người con trước gánh nặng cuộc đời của cha mẹ. Qua đó. Tác giả đã cho ta một hình dung về cuộc đời cảu mẹ cha ta. Nhớ và thương biết mấy những bậc sinh thành đã vất vả gian nan vật lôn với cái đói, cái nghèo của đất quê. Không chỉ thương mà còn tự hào bởi người dân quê ta giàu tình cảm. yêu quê hương, cần cù, chịu thương, chịu khó> Lời thơ ẩn chứa một nỗi niềm day dứt, quặn thắt làm nát lòng người xa xứ. Trong cảm thức ly hương, chủ thể trữ tình dường như không kìm nén được cảm xúc đã phải dụng đến lý lẽ đẻ giải bày cho sự “mềm lòng” của mình: Đất dễ thấm - dễ mềm lòng quyến luyến Người đi xa nhớ muối mặn gừng cay Tình cảm lúc này giống như một cái gì đó thật mong manh, dễ vỡ, chỉ khẽ chạm cũng đủ vỡ oà. Và sự thật tiếng lòng ấy đã rung lên cùng tiếng đàn dội về trong cỏi nhớ theo chuyến tàu hối hả rời ga để bật lên thành tiếng khóc: Đờn Miếu Bông ai chọn phím so dây Để ta khóc theo chuyến tàu hối hả?