a) Quá trình đô thị hóa ở nước ta diễn ra chậm chạp, trình độ đô thị hóa thấp.
- Từ thế kỷ III trước công nguyên, thành Cổ Loa được coi là đô thị đầu tiên ở nước ta.
- Vào thời phong kiến, một số đô thị được hình thành ở những vị trí địa lí thuận lợi, với các chức năng chính là hành chính, thương mại, quân sự. Thế kỉ XI xuất hiện thành Thăng Long, sau đó là các đô thị : Phú Xuân, Hội An, Đà Nẵng, Phố Hiến ở thế kỉ XVI-XVIII
- Thời Pháp thuộc, hệ thống đô thị nhỏ bé, chức năng chủ yếu là hành chính quân sự. Đến những năm 30 của thế kỷ XX mới có một số đô thị lớn được hình thành như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định.
- Từ năm 1945 đến 1954, quá trình đô thị hóa diễn ra chậm, các đô thị không có sự thay đổi nhiều
- Từ 1954 đến 1975, đô thị phát triển theo hai xu hướng khác nhau : Ở miền Nam, chính quyền Sài Gòn dùng "đô thị hóa" như một biện pháp để dồn dân phục vụ chiến tranh. Ở miền Bắc, đô thị hóa gắn với quá trình công nghiệp hóa trên cơ sở mạng lưới đô thị đã có. Từ năm 1965 đến 1972, các đô thị bị chiến tranh phá hoại, quá trình đô thị hóa chững lại
- Từ năm 1975 đến nay, quá trình đô thị hóa có chuyển biến khá tích cực. Tuy nhiê, cơ sở hạ tầng của các đô thị ( hệ thống giao thông, điện, nước, các công trình phúc lợi xã hội) vẫn còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực và thế giới
b) Tỉ lệ dân thành thị tăng
- Tỉ lệ dân thành thị tăng từ 19.5% (1990) lên 26.9% ( 2005)
- Tuy nhiên, tỉ lệ dân thành thị còn thấp so với các nước trong khu vực
c) Phân bố đô thị không đều giữa các vùng
- Trung du và miền núi Bắc Bộ có số lượng đô thị nhiều nhất nước ta nhưng chủ yếu là các đô thị vừa và nhỏ và ít nhất là Đông Nam Bộ với nhiều đô thị lớn, đông dân