I, MB: Rất nhiều những người anh hùng đã được ghi tên trong các tác phẩm văn học. Đa phần họ đều là những người có tên tuổi. Nhưng có một nhà thơ đã ghi danh những người anh hùng bình dị - những người nông dân yêu nước trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Đó là Nguyễn Đình Chiểu với tác phẩm ‘ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. 15 câu đầu bài đã dựng lên hình ảnh những người nông dân
II, TB
1, Gioi thiệu chung
Hoàn cảnh sáng tác:Viết theo yêu cầu của Đỗ Quang tuần phủ Gia Định để truy điệu các nông dân nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tấn công đồn Cần Giuộc đêm 16 – 12 – 1861.
2, Phân tích
A, Phần 1: Lung khởi.- Hoàn cảnh người nông dân
- Mở đầu: “Hỡi ôi!” " tiếng than thể hiện tình cảm thương xót với người đã khuất
->Tiếng kêu nguy ngập, căng thẳng của đất nước trước giặc ngoại xâm. Tiếng than lay động lòng người, nỗi xót xa, đau đớn trong lòng tác giả.
- Câu 1:
+ Nghệ thuật đối: “Súng giặc đất rền” – “Lòng dân trời tỏ”" Phác hoạ khung cảnh bão táp của thời đại.
+ Hình ảnh không gian to lớn “ đất”, “trời” kết hợp cùng những động từ gợi sự khuếch tán âm thanh, ánh sáng “rền”, “tỏ” " Sự đụng độ giữa thế lực xâm lược, hung bạo với vũ khí tối tân, và ý chí chiến đấu của nhân dân ta.
- Câu 2
Mười năm công vỡ ruộng – một trận nghĩa . người nông dân người nghĩa sĩ đánh Tây
yếu tố thời gian phản ánh sự chuyển biến độc xuất (sức vùng dậy đấu tranh mau lẹ của người dân yêu nước). Hoàn cảnh đất nước bị Pháp xâm lược và sự phản ứng mạnh mẽ đấu tran chống trả của nhân dân.
“Côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó”
Đây là những nét cơ bản về đức tính của người nông dân Việt Nam
B, Người nông dân trong lao động và chiến đấu
- Hình ảnh người nông dân trong cuộc sống thường nhật
+ Côi cút đ gợi ra cuộc sống âm thầm lặng lẽ, chịu thương chịu khó, gắn bó với đồng ruộng.
+ Toan lo nghèo khổ: Quanh năm làm ăn vất vả mà vẫn quanh năm lo đói lo rách. Sự lựa chọn từ ngữ là biểu hiện ý thức, tấm lòng yêu thương trân trọng của thầy Đồ Chiểu với người nghĩa sĩ nông dân.
- Hoàn cảnh sống của họ
+ Chỉ quen với cuốc cày đồng ruộng “việc cuốc... quen làm”
+ Họ xa lạ với vũ khí, với chiến tranh: “tập khiên... ngó”
+ Họ sống bình dị “Ngoài cật có một manh áo vải”
=> Không chỉ bình dị còn gợi ra sự thiếu thốn, mỏng manh của tấm áo che thân. Đâu phải những người “mớ ba mớ bảy” giàu có gì. Hoàn cảnh của họ gợi ra bao nỗi niềm thương cảm của người đọc. Họ nghèo về vật chất nhưng rất giàu về tinh thần.
* Hình ảnh người nông dân trong trận nghĩa đánh Tây
+ Yêu nước gắn liền với căm thù giặc. “Tiếng phong hạc... cắn cổ”
+ Yêu nước gắn liền với niềm tự hào về truyền thống đất nước và khẳng định quan điểm đúng đắn: “Một mối xa thư... bàn chó”
- Xa thư, xa đồng quỹ, thư đồng văn, xe chung một đường, sách cùng một chữ. Cả câu khẳng định đất nước ta là một khối thống nhất.
- “Hai vầng nhật nguyệt”: mặt trăng và mặt trời. Hình ảnh rực rỡ này khẳng định: Ta với địch (chỉ bọn Pháp), không thể có chỗ đứng chung dưới ánh sáng rực trời của chính nghĩa. Điều đó khẳng định còn ta thì không thể có địch và ngược lại.
+ Lòng yêu nước thể hiện ở tinh thần tự nguyện đứng lên đánh giặc.
“Nào ai.... Bộ hổ”
- Đoạt kình đ bắt, chém loài cá dữ ở biển
- Bộ hổ đ bắt hổ bằng tay không
Câu văn đối nhau về cả hình ảnh và thanh Há để ai/đâu dung lũ, Đoạt kình/bộ hổ, Hoả mai đánh/gươm đeo dùng, Rơm con cúi/lưỡi dao phay.
Tất cả nhằm thể hiện sức mạnh của tinh thần yêu nước của người nghĩa sĩ nông dân. Sau này trong văn học hiện đại, chúng ta bắt gặp những hình ảnh.
“Đất nước của những người mẹ mặc áo vá vai
Bền bỉ nuôi chồng nuôi con đánh giặc”
Và “Đất nước của những người con gái con trai
Đẹp như hoa hồng, rắn hơn sắt thép
Những buổi chia tay không bao giờ rơi nước mắt
Nước mắt để những ngày gặp mặt”
+ Hành động chiến đấu của người nghĩa sĩ nông dân thật dũng cảm. Hàng loạt những từ ngữ. “Chi nhọc quan... súng nổ”.
- “Đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không”Kiên quyết mạnh mẽ không sợ giặc, vào đồn giặc như vào chỗ không người.
- “Xô cửa xông vào liều mình như chẳng có” Tinh thần quả cảm không sợ hi sinh.
=> Hàng loạt những động từ đạp rào, lướt tới, xô cửa, xông vào, đâm ngang chém ngược, hò trước, ó sau làm nổi bật hành động chiến đấu mạnh mẽ của người nghĩa sĩ nông dân. Cách ngắt nhịp câu ngắn gọn tạo giọng điệu không khí khẩn trương sôi động. Tính chất tương phản giữa một bên là nông dân và một bên là kẻ thù xâm lược. Một bên điều kiện chiến đấu không có gì chỉ là lòng “mến nghĩa”, một bên có đủ tàu chiến, súng nhỏ, súng to làm rõ tinh thần chiến đấu.
- Đây là bức tranh công đồn chưa hề thấy trong văn chương trung đại. Ta mới thấy võ quan như Phạm Ngũ Lão “Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu”, một Trần Quốc Tuấn “Chỉ căm tức rằng chưa xả thịt lột da... cũng nguyện xin làm”. Một Đặng Dung mài gươm dưới trăng ngửa mặt nhìn trời than thở. “Mài gươm mấy độ bóng trăng tà”. Một Nguyễn Trãi “Trận Bồ Đẳng sấm vang chấp giật, miền Trà Lân trúc trẻ tro bay, sĩ khí càng hăng, quân Thanh càng mạnh”.
=> Đây là lần đầu tiên người nông dân chiến đấu xuất hiện với vẻ đầy dũng khi hiên ngang trong văn học mặc dù lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã khẳng định công lao to lớn của người dân chân lấm tay bùn.
3, Tổng kết:
- NT: Ngôn ngữ chân thực, giàu cảm xúc
+ Lời văn biền ngẫu, uyển chuyển, giàu hình ảnh.
+ Thủ pháp liệt kê, đối lập..
- ND: + Tác phẩm là khối tượng đài đồ sộ, hoành tráng về người nông dân anh dũng
+ Phát hiện, cái nhìn tiến bộ về người nông dân của nhà thơ.
+ Qua tiếng khóc chân thành trong văn tế, ta càng hiểu tinh thần yêu nước của nhà văn Nam Bộ
III, KB: Khẳng định lại vấn đề
*Bài viết tham khảo
Rất nhiều những người anh hùng đã được ghi tên trong các tác phẩm văn học. Đa phần họ đều là những người có tên tuổi. Nhưng có một nhà thơ đã ghi danh những người anh hùng bình dị - những người nông dân yêu nước trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Đó là Nguyễn Đình Chiểu với tác phẩm ‘ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. 15 câu đầu bài đã dựng lên hình ảnh những người nông dân
Tiếng súng giặc vang lên, những người nông dân chiến sĩ đều đứng lên bảo vệ Tổ quốc:
“Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ…”
Mở đầu bài văn tế, tác giả cũng phải thốt lên “hỡi ôi!” - một câu cảm thán, nó là một sự căm thù với giặc và cũng là một lòng cảm thán đối với dân. Ở đây, tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối để làm nổi bật lên ý chí của những người nông dân. “Súng giặc”, “lòng dân” hai thứ mâu thuẫn với nhau, nó mở ra một trận chiến bão táp, sự đối lập giữa thế lực xâm lăng và tấm lòng trung thành bảo vệ Tổ quốc. “Mười năm công vỡ ruộng” với “một trận nghĩa đánh Tây” càng khẳng định tinh thần của những người chiến sĩ ấy quyết tâm chiến đấu bảo vệ mảnh đất quê hương.
Những tưởng những người chiến sĩ ấy là những quân sĩ tinh nhuệ của triều đình, nhưng không, họ đều là những người nông dân áo vải có cuộc sống bình dị:
“Nhớ linh xưa;
Cui cút làm ăn; lo toan nghèo khó..”
Những người nông dân áo vải với công việc lao động thường ngày, làm lụng vất vả, chịu thương chịu khó để kiếm miếng cơm manh áo. Họ là những con người sống gắn bó với từng tấc đất ruộng đồng, với xóm làng, họ không phải là những binh lính chuyên nghiệp. Trước khi cầm vũ khí lên đánh giặc, họ nào biết đến chiến trận, tâm hồn giản dị với mọi vật xung quanh mình “chỉ biết ruộng trâu trong làng bộ”, chân tay quen với việc cày việc cuốc. Họ là những người nông dân chất phác, đâu biết tới những vũ khí dành cho chiến tranh, đâu biết cưỡi ngựa, trường nhung, đâu biết khiên, súng, mác… Ấy vậy, khi thực dân Pháp xâm lược, họ đã hóa thân nhanh chóng thành những người lính can trường, đứng lên bảo vệ đất nước.
Nghe tin giặc, người dân căm phẫn nhưng trông chờ đâu được tin gì ở triều đình. Họ đã tự giác ra chiến trận để đánh đuổi bọn giặc ngoại xâm. Nguyễn Đình Chiểu đã vận dụng một cách khéo léo những từ ngữ miêu tả rất sinh động và chân thực gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân. Hoàn cảnh chiến đấu ấy, diễn ra thật đối lập. Những người nghĩa sĩ ấy chỉ được trang bị những dụng cụ thô sơ, thiếu thốn “manh áo vải, ngọn tầm vông, dao phay, con cúi..”. Nhưng thứ vũ khí thô sơ ấy không ngăn cản được tinh thần của họ. Bọn giặc đã khiến cho những người nông dân hiền lành ấy muốn “ăn gan”, “cắn cổ” bọn cướp nước. Hình tượng những người binh sĩ ấy càng được tô đậm hơn khi dám đối đầu với vũ khí lợi hại, tối tân của giặc “tàu thiếc, tàu đồng, đạn to, đạn nhỏ….”. Nguyễn Đình Chiểu đã dùng rất nhiều ngôn ngữ góc cạnh kết hợp với động từ mạnh như “đâm ngang, chém ngược, xô, đẩy…” để miêu tả tinh thần chiến đấu của họ. Họ chiến đấu dũng cảm, anh dũng hy sinh với khí thế hừng hực “khí thế tấn công như vũ bão, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng”. Nghĩa quân ấy đã xả thân vì nghĩa lớn của dân tộc, vì một tương lai của đất nước.
Những người chiến sĩ ấy đã vì dân tộc mà hy sinh, để lại nỗi đau cho người thân, mẹ già, con thơ. Nguyễn Đình Chiểu cũng như người thân, nhân dân đau đớn trước sự hy sinh. Tiếng khóc của họ bi mà không lụy vì nó tiếp tục ca ngợi công lao của nghĩa sĩ, đồng thời nó thúc giục thế hệ sau tiếp tục sự nghiệp của các anh. Đồ Chiểu đã rất thành công trong nghệ thuật khắc họa nhân vật. Dưới ngòi bút của ông, hình ảnh những người nghĩa sĩ hiện lên thật oai phong, lẫm liệt. Giọng văn đều mang âm hưởng bi thương, nhưng lại vô cùng hào hùng để ca ngợi vẻ đẹp của người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” một tác phẩm đặc sắc đã ca ngợi công lao của những người chiến sĩ, nó sẽ mãi là một bài văn chương sống mãi với thời gian. Những nghĩa sĩ Cần Giuộc anh dũng, quả cảm sẽ mãi là một hình tượng đẹp, một tấm gương lớn cho người đời noi theo.