Trong mấy năm gần đây, những vấn đề về văn hóa – giáo dục, vai trò của trí thức được Đảng và Nhà nước đặt ở vị trí cực kỳ quan trọng. Đảng ta nêu lại một câu nói rất nổi tiếng trước đây nhưng hầu như suốt mấy thế kỷ đã bị coi nhẹ, đó là câu nói của Thân Nhân Trung, trong bài văn bia khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442): “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, được dựng vào năm Hồng Đức thứ 15 (1484).
Năm 1484, trong thời kỳ cực thịnh của phong kiến Việt Nam, phải nói tới vua Lê Thánh Tông, người đã có công xây dựng một đất nước phát triển về mọi mặt: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, đặc biệt là việc giáo dục và đào tạo nhân tài cho đất nước.
Nhìn lại thời gian gần 30 năm từ Lê Thái Tổ qua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông rồi đến Lê Thánh Tông, đất nước đã trải qua nhiều sự kiện rối ren, trong đó có vụ thảm án Lệ Chi viên và vụ cướp ngôi của Lê Nghi Dân.
Lê Thánh Tông sau 25 năm làm vua (1460-1484), ngày càng nhận ra vai trò của hiền tài qua các bước thăng trầm của lịch sử. Ông đặc biệt quan tâm tới việc đào tạo, sử dụng và trọng đãi hiền tài. Đất nước không thể ổn định và phát triển nếu như không thu hút được những người có trí tuệ và tài năng góp sức vào sự nghiệp lớn của quốc gia.
Với tư tưởng nói trên, Lê Thánh Tông đã tổ chức việc học tập, hướng kẻ sĩ vào con đường chính thống của Nho giáo là tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Trong bốn điều Tu tề trị bình ấy thì tu thân phải là gốc trong mọi ý nghĩ và hành vi suốt cả cuộc đời. Tu thân là phải đạt được ba đức tính Nhân Trí Dũng. Trước hết, con người phải giữ được đạo nhân nghĩa, thể hiện được tấm lòng trung với vua, hiếu với cha mẹ. Muốn thực hiện được điều nhân nghĩa ấy thì phải học tập để hiểu được lý lẽ của cuộc sống, nhận thức được đúng, sai trước mọi vấn đề. Có Nhân và có Trí vẫn chưa đủ mà còn phải có hành động dũng cảm nữa, nghĩa là phải kiên cường bất khuất trong thực hiện nhiệm vụ. Đúng như Nguyễn Trãi đã từng nói: Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược / Có nhân có trí có anh hùng.
Với tinh thần ấy, Lê Thánh Tông giao cho Thân Nhân Trung, người cận thần mà ông quý trọng nhất, soạn một bài văn cho tấm bia đầu tiên ở Văn Miếu, để nói về ý nghĩa của khoa thi Hội năm 1442. Từ khi nhà Lê dựng nước đến năm này, đây là khoa thi đầu tiên được tổ chức với quy mô lớn, với nguyên tắc chặt chẽ, với sự tham gia chấm thi của nhiều bậc hiền tài như: Lê Văn Linh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Trần Thuấn Du, Nguyễn Tử Tấn. Khoa thi đã chọn được 33 người trúng cách, trong đó có Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Như Đổ đỗ Bảng nhãn, Lương Như Hộc đỗ Thám hoa. Còn lại là những Tiến sĩ xuất thân, Đồng Tiến sĩ xuất thân, trong đó có nhà sử học nổi tiếng Ngô Sĩ Liên.
Thân Nhân Trung mô tả quang cảnh ngày thi đỗ như sau: “Ngày 3 tháng 4, yết bảng xướng danh để tỏ rõ cho tất cả các kẻ sĩ thấy được sự vẻ vang, ban cho tước trật để biểu dương sự kiện khác thường, áo mão cân đai để trang điểm, thiết yến ở Quỳnh Lâm để tỏ ân huệ, ban cho ngựa tốt về quê để tỏ ý sủng ái. Sĩ thứ đất Trường An tụ tập đến xem đều ca ngợi”.
Theo Thân Nhân Trung trong văn bia năm 1442 và văn bia năm 1487 thì việc coi trọng khoa thi, quý trọng hiền tài được thực hiện từ Lê Thái Tổ. Tuy nhiên, đến đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) thì việc này được nhà vua đặc biệt quan tâm và tổ chức chu đáo nhất. Thân Nhân Trung nhận định rằng: “Phàm những điều triều trước đã làm thì noi theo mà giữ lấy. Việc mà những triều trước chưa làm đủ thì bổ sung và mở rộng thêm. Sau khi loa truyền yết bảng, lại cho dựng đá đề tên, cốt để lưu truyền mãi mãi. Phép hay ý đẹp đều làm đến nơi đến chốn”.
Lê Thánh Tông thấy cần thiết phải dựng thêm bia đá đề tên tiến sĩ. Ý tốt đẹp của nhà vua là ở chỗ ông nêu lên vai trò của hiền tài như một điều kiện quan trọng bậc nhất để giành lại sự hưng thịnh cho đất nước.
Vâng mệnh nhà vua, Thân Nhân Trung thảo bài văn bia năm 1442 và bài văn bia 1487, qua đó ông đã phân tích và nêu lên những điều kiện cơ bản trong chính sách hiền tài của Nhà nước. Ông viết: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng lớn lao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy các bậc vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo nhân tài bồi đắp thêm nguyên khí”. Thân Nhân Trung nêu lên công lao của các vua đầu nhà Lê như: Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông…
Lê Thái Tổ ngay từ khi quét sạch quân xâm lược, xây dựng triều đại mới đã: “Ban bố thi hành văn đức, lo lắng, mong muốn thâu nạp người tài, trường học, đào tạo nhân tài. Bên trong có Quốc Tử giám, bên ngoài có các bậc phủ học. Ngài thân hành tuyển chọn con cháu các quan, các bậc tuấn tú, hào kiệt trong dân cho vào làm Học sinh cục Nhập thi, Cận thị, Ngự tiền, và làm giám sinh Quốc Tử giám. Lại sai quan chuyên trách mở rộng phạm vi tuyển chọn trong dân, lấy con em những nhà lương thiện, bổ sung vào làm sinh đồ các phủ, đặt thầy dạy bảo, soạn sách ban hành, nền tảng của việc bồi dưỡng, đào tạo nhân tài thật là rộng rãi vậy”.
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, hiệu quả câu nói của Thân Nhân Trung không chỉ dừng lại trong phạm vi xã hội thời Lê. Nó mang một ý nghĩa phổ biến đối với mọi quốc gia qua mọi thời kỳ lịch sử.
Bản thân sự ra đời của quốc gia đã đánh dấu một bước trưởng thành của một dân tộc ở cả lao động chân tay và lao động trí óc. Nhân dân là người làm ra lịch sử, nhưng lịch sử tồn tại và phát triển không dừng lại ở đời sống vật chất. Sự tồn vong và thịnh suy của một quốc gia còn phụ thuộc vào đời sống tinh thần, nghĩa là phải kể đến vai trò của trí thức, của những hiền tài, của những nhân vật kiệt xuất. Những người này, xuất hiện từ trong sự nghiệp sản xuất và chiến đấu của nhân dân. Họ gắn bó với nhân dân và dẫn dắt nhân dân trên con đường phát triển của quốc gia.
Dân tộc ta sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh thường xuyên bị đe dọa bởi thiên tai và địch họa. Dân tộc ta không thể tồn tại và phát triển nếu như không có tinh thần yêu nước và khí phách anh hùng của toàn thể nhân dân. Trên nền tảng vật chất và tinh thần ấy, trong lịch sử đã thường xuyên xuất hiện những tài năng lỗi lạc, đem thêm niềm tin và sức mạnh cho nhân dân và cùng nhân dân vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Họ chính là những hiền tài của đất nước. Họ là nguyên khí của quốc gia, thể hiện tinh hoa của phẩm chất và tâm hồn được chắt lọc và nâng cao từ trong nhân dân. Không có hiền tài thì không thể có những thành công rực rỡ của nhân dân. Không có nền tảng vật chất và tinh thần từ trong nhân dân cũng không thể có hiền tài. Từ trong mối quan hệ giữa nhân dân và hiền tài, nảy sinh sức mạnh trường tồn của dân tộc.
Nguyễn Trãi khái quát ý nghĩa trên trong Đại cáo bình Ngô: