I, Dàn ý tham khảo
1, Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu chung về ý kiến
2, Thân bài
a, Việt Bắc là khúc tình ca về thiên nhiên
b, Việt Bắc là khúc tình ca về con người
3, Kết bài
- Tình cảm của em dành cho tác phẩm
II, Bài văn tham khảo
Tố Hữu đã từng nói :“Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy”, chính những niềm thương, nỗi nhớ trào dâng ấy đã tạo ra những rung động mãnh liệt trong cảm xúc để rồi thơ ca đã trào ra bao nỗi nhớ thương vô vàn. “Việt Bắc” chính là những rung động mạnh liệt ấy của Tố Hữu. Nhận xét về tác phẩm này, có ý kiến cho rằng "Bài thơ Việt Bắc là khúc tình ca về thiên nhiên và con người trong kháng chiến". Điều này được thể hiện rõ qua đoạn thơ sau:
"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung".
“Việt Bắc” là một trong những tác phẩm phản ánh cụ thể phong cách thơ của Tố Hữu, đó là khuynh hướng thơ trữ tình chính trị, khuynh hướng sử thi gắn liền với cảm hứng lãng mạn, giọng điệu tâm tình ngọt ngào tha thiết, tính dân tộc đậm đà. Bài thơ được viết vào tháng mười năm 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc – thủ đô gió ngàn của dân tộc trở về Hà Nội. Tác phẩm được xem là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp
Trước hết, bài thơ Việt Bắc là khúc tình ca về thiên nhiên:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”
Hai câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên Việt Bắc vào mùa đông qua những nét chấm phá tinh tế. Trước hết, cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Việt Bắc hiện lên trong nỗi nhớ của người ra đi đẹp tựa như một bức họa. Có người đã từng nói “Thơ là họa, là nhạc”. Và có lẽ bức họa về thiên nhiên của Tố Hữu đã phản ánh rõ nét điều đó. Bức họa ấy được Tố Hữu phối màu thật tinh tế, khéo léo: giữa màu xanh u tịch nổi lên màu đỏ tươi của hoa chuối tựa như những bông hoa rực rỡ. Nhờ có sự phối màu này mà cái hoang lạnh, hắt hiu lau xám của miền sơn cước trong ngày đông trở nên thật ấm áp, rực rỡ. Chúng ta cũng từng bắt gặp cách phối màu tương tự trong thơ ca trung đại:
“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
hay
“Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”
Bức họa về thiên nhiên mùa đông còn được phác họa bởi những đường nét đối lập đầy ấn tượng. Giữa cái hùng vĩ bao la của núi rừng là cái đơn sơ nhỏ bé của hoa chuối. Nhưng không vì thế mà gợi cảm giác yếu đuối, đơn độc. Trái lại bức tranh mùa đông ấy vẫn thật khỏe khoắn, giàu sức sống.
Chưa dừng lại ở đó, thiên nhiên Việt Bắc như được thay da đổi thịt trong những ngày xuân. Nếu thiên nhiên mùa đông gây ấn tượng với người đọc bởi sắc đỏ rực rỡ của hoa chuối thì sang màu xuân lại là sự trỗi dậy đầy viên mãn của rừng mơ. Tố Hữu đã sử dụng phép đảo trong cụm từ “trắng rừng” vừa như thể hiện cảm xúc ngỡ ngàng, choáng ngợp vừa khiến cho cả không gian núi rừng tràn ngập một sắc trắng tinh khôi trong trẻo và lãng mạn. Đặc biệt động từ “nhớ” càng nhấn mạnh rõ hơn sức sống mãnh liệt cùng sự lan tỏa mạnh mẽ của rừng mơ trong cảm nhận của Tố Hữu. Quang Dũng cũng có cách nói tương tự “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Nếu “hoa về” của Quang Dũng đầy sinh động, mang bóng con người thì hoa của Tố Hữu mang sức sống lan tỏa của rừng mơ.
Hè về, Việt Bắc hiện lên đầy sinh động với những âm thanh, màu sắc và đường nét:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Vang vẳng trong không gian là tiếng‘ve kêu’ đặc trưng cho mùa hè. Dù Tố Hữu không đi vào miêu tả trực tiếp, cụ thể âm thanh của tiếng ve nhưng người ta vẫn có thể cảm nhận được sự náo nức vang vong, rộn rã làm sống động của một không gian núi rừng vốn tĩnh lặng, quạnh hiu. Điểm thêm trong bức tranh thiên nhiên mùa hè là sắc ‘vàng’ của ‘rừng phách’ đầy rực rỡ, lộng lẫy và kiêu sa. Và sắc vàng ấy không phải lan tỏa một cách chậm rãi, nhàn tản mà nó diễn ra một cách nhanh chóng, mau lẹ Động từ ‘đổ’ là động từ mạnh diễn tả sư chuyển biến đầy bất ngờ, đột ngột qua đó người ta như cảm nhận được chỉ trong chớp mắt sắc vàng đã được lan tỏa một cách diệu kì khắp không gian. Một hình ảnh âm thanh đặt bên cạnh một hình ảnh thị giác càng khiến cho thiên nhiên hiện lên sinh động, gợi cảm và lãng mạn.Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng ả.Đây chính là một bức tranh sơn mài được khắc họa bằng hoài niệm, bức tranh ấy lung linh với ánh sáng, rực rỡ với màu sắc và rộn rã với âm thanh.Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.
Khép lại bức tranh tứ bình là hình ảnh mùa thu Việt Bắc đầy ngọt ngào, lãng mạn:
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Không gian bao la tràn ngập ánh trăng. Nhờ ánh trăng của đêm thu, thiên nhiên Việt Bắc hiện lên thật trong sáng, rạng ngời với tất cả sự huyền bí, đẹp đẽ tựa như cõi thơ, cõi mộng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến cảnh đêm rừng Việt Bắc trong bài ‘Cảnh khuya’ của Hồ Chí Minh: "Trăng lồng cộ thụ bóng lồng hoa". Dường như không khí se lạnh của trời thu đã theo ánh trăng như bao phủ vạn vật, cỏ cây, ngấm vào nỗi nhớ của những con người gắn bó sâu nặng với Việt Bắc. Và ánh trăng ấy cũng chính là ánh trăng của tự do, của hòa bình đem đến sự bình yên, êm ả của quê hương đất nước từ chiến khu Việt Bắc xa xôi khiến cho lòng người không khỏi trở nên bình lặng sau những tháng ngày chiến đấu đầy gian khổ mà hào hùng.Hình ảnh ‘rừng thu trăng rọi hòa bình’ chính là một hình thơ tuyệt đẹp được khắc họa bởi hồn thơ Tố Hữu.
Bài thơ Việt Bắc không chỉ là khúc tình ca về thiên nhiên mà còn là khúc tình ca về con người Việt Bắc. Trong khung cảnh của thiên nhiên mùa đông, con người Việt Bắc xuất hiện cũng là một điểm nhấn “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Trong thơ Tố Hữu cũng hay miêu tả con người nhưng xuất hiện ở đây là những con người chất phác, cần cù với công việc lao động rất bình dị: làm nương, làm rẫy. Hơn nữa, những con người giản dị ấy lại được xuất hiện trong không gian kì vĩ của đèo cao, vực sâu, xuất hiện lồng lộng, tự tin, kiêu hãnh với tư thế làm chủ, mang tầm vóc của cả một dân tộc, một thời đại hào hùng chứ không hề nhỏ bé yếu ớt như trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan:“Lom khom dưới núi tiều vài chú”. Không chỉ dừng lại ở đó, con người Việt Bắc còn được xuất hiện trong một ánh sáng huy hoàng, lộng lẫy. Đó là ánh sáng được phản chiếu bởi ánh sáng của chiếc dao gài lấp lánh dưới ánh chiều nhẹ nhàng. Vì thế không quá khi nói rằng đó chính là ánh sáng của tinh thần lao động, ánh sáng tràn đầy tinh thần khỏe khoắn, lạc quan.
Con người Việt Bắc trong bức tranh mùa xuân cũng được hiện lên không kém phần quyến rũ trong câu thơ “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”. Động từ “nhớ” được đặt ở đầu câu thơ như nhấn mạnh cảm xúc nhớ thương da diết của người ra đi dành cho người Việt Bắc. Đó chính là cảm xúc chủ đạo của toàn bộ đoạn thơ. Và cũng từ nỗi nhớ ấy, tác giả gợi nhắc cho người đọc về hình ảnh chiếc nón lá. Đây là hình ảnh thân thuộc gợi nhiều cảm xúc với mỗi người dân Việt Nam. Nhưng dưới ngòi bút của Tố Hữu, nhà thơ lại đi vào đặc tả từng động tác của người đan nón “chuốt từng sợi giang”. Ý thơ tựa như một thước phim ngợi ca từng động tác đan nón tỉ mẩn, khéo léo, chau chuốt chi tiết của người dân Việt Bắc. Và dường như người dân Việt Bắc dồn biết bao tâm huyết, tình yêu thương, sự nâng niu chắt chiu vào từng sản phẩm lao động. Có lẽ vì thế chiếc nón trở thành chiếc nón nghĩa tình, chiếc nón của người yêu thương.
Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã trong bức tranh mùa hè, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến hiện lên trong miền kí ức của thi nhân: "Nhớ cô em gái hái măng một mình". ‘Hái măng một mình’ mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm yêu mến, trân trọng của tác giả dành cho con người Việt Bắc.
Chưa dừng lại ở đó, trong không gian đêm tĩnh lặng nơi núi rừng cùng mặt trăng tròn vành vạnh vào mùa thu, trên bầu trời ngân vang đâu đây ‘tiếng hát ân tình thủy chung’. Một tiếng hát xa xăm, không hề rõ câu từ nhưng ta lại có thể cảm nhận được cả cái tình, nỗi niềm ẩn dấu. Nhà thơ sử dụng đại từ ‘ai’ khiến hình ảnh con người hiện lên đầy mơ hồ, mờ ảo. Chỉ với đại từ phiến chỉ ‘ai’ đã gợi ra được cái ngọt ngào, tha, da diết mà không kém phần tinh tế của khúc hát đối đáp trao duyên.Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình và cũng là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng. Qua đó, nhà thơ như ngầm khẳng định vẻ đẹp con người nơi ‘thủ đô gió ngàn’: một lòng thủy chung son sắt với cách mạng, với dân tộc.
Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đan xen giữa câu lục tả cảnh, câu bát tả người, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.
Bài thơ là khúc ca ân nghĩa, là hồi tưởng đầy xúc động và ân tình của Tố Hữu về chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước, từ đó mà hướng về tương lai tươi sáng, nhắc nhớ tâm nguyện thuỷ chung. Viết về nghĩa tình dân tộc và hướng về đồng bào mình, Tố Hữu đã phát huy được hình thức nghệ thuật mang tính dân tộc, trong đó nổi bật là cách sử dụng thể thơ lục bát và ngôn ngữ thơ đậm sắc thái dân gian. Có thể coi Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam.