Kim lân là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi vào những đề tài độc đáo như tái hiện sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê (đánh vật, chọi gà, thả chim…). Những câu chuyện của ông kể lại một cách sinh động những thú chơi kể trên, qua đó biểu hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám – những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa.
Nổi bậc nhất trong các tác phẩm ấy là truyện ngắn Làng.Với giọng văn bình dị, đằm thắm, Kim Lân đã thể hiện sâu sắc những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp qua nhân vật Ông Hai, một người nông dân hiền lành có tình yêu làng sâu đậm.
Làng được viết và đăng báo trên tạp chí Văn nghệ năm 1948 – giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong thời kì này thì người dân nghe theo chính sách của chính phủ: kêu gọi nhân dân ta tản cư, những người dân ở vùng địch tạm chiếm đi lên vùng chiến khu để chúng ta cùng kháng chiến lâu dài.
Có thể nói, trong các nhà văn trước và sau cách mạng, Kim Lân là nhà văn sống gần gũi và am hiểu đời sống của người nông dân Việt Nam nhất. Ông không chọn những đề tài lớn để thử thách ngòi bút của mình mà lại đi vào những tình cảm nhỏ bé nhưng không kém phần kịch liệt trong con người. Ở đó, ông nhìn thấy cái vẻ đẹp trong sáng, bình dị trong tâm hồn của người nông vốn bị cuộc sống xô bồ che lấp. Ở đó, ông nhìn thấy sự chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam trước cuộc chiến chống thực dân Pháp.
Vào những năm 1948, phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp lên cao nhưng người dân chưa thật sự ngã về phía cách mạng. Cho đến khi cách mạng thực sự đem đến lợi ích cho các vùng giải phóng thì người nông dân mới hết lòng tin tưởng và ủng hộ. Kim Lân đã phát hiện và nhanh chóng nắm bắt tình hình ấy. Ông đã thể hiện sự chuyển biến tích cực với niềm tin tưởng tưởng và đem lại sự tin tưởng cho đông đảo người đọc. Có thể nói, với truyện ngắn Làng, Kim Lân đã đóng góp một tiếng nói đồng tình, ủng hộ cách mạng với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Tư tưởng của truyện được cụ thể hóa qua hình tượng nhân vật ông Hai. Ông Hai là một lão nông hiền lành, chân chất. Ông rất yêu và tự hào về cái làng Chợ Dầu của mình. Ông yêu mến từng cái cây, con đường, hàng gạch, lối đi và tất cả những gì mà làng Chợ Dầu có. Ông yêu mến con người của làng Chợ Dầu hiền lành, thân thiện và quả cảm.
Ông mường tượng tất cả đều gắn chặt với cuộc đời ông không thể tách rời và mỗi khi có ai đó chê bai hay này nọ về cái làng của ông, ông đều tỏ ra không hài lòng. Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức, say mê khoe về làng mình thì sẽ thấy. Mỗi hình ảnh của làng đều đem đến cho ông một tình yêu mến vô hạn. Đó cũng là tình cảm vốn có từ ngàn đời nay của người nông dân Việt Nam gắn bó máu thịt với quê cha đất tổ, nơi chôn nhau cắt rốn của tổ tông. Thế nhưng, ở nhân vật ông Hai, đó là một tình cảm đặc biệt, thiêng liêng lắm.
Cũng vì quá yêu làng như thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư. Ông thắm thía lắm cái cảnh tha hương cầu thực. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, sinh ra bực bội, ít nói, ít cười, lúc nào cũng lầm bầm.
Biểu hiện của ông Hai cũng là biểu hiện của đông đảo nông dân thời bấy giờ. Họ không muốn rời làng, không muốn thay đổi. Kháng chiến thì cứ kháng chiến sao lại phải rời đi? Họ quyết bám chặt đất đai dù có bị cùm kẹp, áp bức, bị giết hại. Đối với họ, thay đổi nơi ăn chốn ở, rời bỏ mồ mả tổ tiên là một việc trọng đại. Làng nước là chốn thiêng liêng, không thể nói bỏ là bỏ trong một sớm một chiều. Thế nhưng, để ủng hộ kháng chiến, ủng hộ cách mạng, gia đình ông cũng tản cư về chỗ mới nhưng tình yêu làng mãi còn quấn quýt trong ông.
Ở nơi tản cư, ông dần dần hiểu ra mọi chuyện. Giờ đây, không những ông Hai yêu làng mà còn yêu cách mạng, yêu kháng chiến nữa. Từ miễn cưỡng thực hiện tản cư, đến yêu mến rồi nhiệt tình ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến đó là một sự chuyển biến mạnh mẽ trong tình cảm của người nông dân. Ông Hai đã nhận thấy kẻ thù tàn bạo, chúng hủy hoại làng và cuộc sống của của nhân dân. Ông muốn tham gia chiến đấu cùng anh em nhưng ở tuổi này làm sao được.
Thế nhưng ông lại không muốn đứng ngoài cuộc, ông muốn làm gì đó chứ không chịu ngồi im khi trong lòng ông đang rộn ràng. Hằng ngày, ông đi nghe báo, ông đi nghe nói chuyện, ông bàn tán về những sự kiện nổi bật của cuộc kháng chiến…Tuy ít học, không biết chữ nhưng lại rất thích nói chữ, thích nói chuyện chính sự dù cũng không hiểu lắm các thuật ngữ chính trị, thích nói những chuyện to tát cho nó có cái không khí cách mạng. Và ông cho rằng đó là cách ông yêu nước, yêu kháng chiến, ông muốn cuộc chiến của dân tộc nằm trong lòng ông, không xa rời.
Từ chuyện làng, ông chuyển sang chuyện kháng chiến, chuyện đánh tây. Tình yêu làng trong ông vẫn lớn nhưng giờ đây nó hòa quyện trong tình yêu cách mạng, yêu kháng chiến, tình yêu nước. Tình cảm cá nhân ông Hai đã hòa hợp với tình yêu tổ quốc. Yêu làng cũng là yêu nước. Tản cư nghĩa là ủng hộ cách mạng, nghĩa là ủng hộ sự nghiệp giải phóng đất nước mà ủy ban kháng chiến đã đề ra. Có lẽ ông Hai chưa nhận ra điều đó nhưng trong tình cảm của ông tình yêu nước đã sớm nảy nở và ngày càng sâu sắc hơn. Kim Lân đã rất bình tĩnh khi thể hiện sự chuyển biến âm thầm mà mạnh mẽ này.
Sự việc ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc là một sự thử thách lớn đối với tình yêu làng, yêu nước của ông. Đồng thời nó cũng quyết định lập trường cách mạng của người nông dân trong tình thế ngặt nghèo của đất nước. Ông Hai đã sững sờ, chết lặng người đi, rồi cảm giác xấu hổ, uất ức nghẹn trào khi nghe tin dữ đó.
mẹ mik viết đó