Bài làm
Văn chương là một trong những hình thái sáng tạo tinh tế bậc nhất của con người. Khi viết nên một bài văn, bài thơ...thì chính lúc đó, ta được sống đúng với cảm xúc của mình. Văn chương không hề xa rời sự thật. Đó chính là đời sống tâm hồn, phản ánh thực tiễn xung quanh chúng ta. Tùy từng hoàn cảnh, từng giai đoạn lịch sử mà văn chương có những đặc trưng, xu hướng riêng.
Nhưng một câu hỏi vẫn được nhiều người đặt ra rằng từ đâu mà có văn chương? Đến với Hoài Thanh thì ông nói đó chính là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài.
Nhưng theo các bạn thì nguồn gốc văn chương là gì? Trong cách nói của Hoài Thanh, nguồn gốc chính là cội nguồn, gốc rễ, là nơi xuất phát, nơi mảnh đất màu mỡ, phì nhiêu để cây đời văn chương đâm chồi nảy nở. Nguồn gốc của văn chương nói cách khác hơn đó là nơi khởi nguồn, nơi bộc phát của văn chương.
Còn văn chương là gì? Văn chương là những gì đẹp đẽ nhất, tinh túy nhất, là nơi cảm xúc được thăng hoa kết trái. Chỉ có hai chữ đơn giản nhưng lại hội tụ hết thảy những điều tuyệt vời nhất. Nhà phê bình văn học xuất sắc Hoài Thanh có một nhận định đúng đắn và độc đáo: " Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài". Hoài Thanh đã khẳng định mảnh đất ươm mầm văn chương đó chính là những tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ, ý chí của con người trước những biến đối của môi trường bên ngoài. Đó có thể là tình cảm gia đình thiêng liêng, là tình yêu đôi lứa, là tình thầy trò, hoặc lớn hơn là tình yêu nước nồng nàn của nhân dân ta, cũng có thể là một số cảm xúc bỗng ùa về khi sáng mai ta thức dậy ngắm bình minh đang lên cao chót vót. Có lần nào đó Chế Lan Viên đã nói rằng: " Chẳng có thơ đâu giữa cuộc đời sống khép". Qủa đúng là vậy! Văn chương xuất phát từ tấm lòng. Chỉ khi ta dang tay đón nhận tất cả những gì cuộc đời mang lại, thì mới có văn chương.
Văn chương đích thực có mãnh lực lạ lùng. Ta bỗng thấy yêu đời khi nghe đâu đây vang lên bài "Nghe bài đọc thơ" của nhà thơ Trần Đăng Khoa, ta xúc động khi đọc bài Cây vú sữa, xúc động với tình yêu thương vô bờ bến của người mẹ; rồi ta bồn chồn, thổn thức trước tình yêu đôi lứa bình dị, đẹp đẽ trong "Đô dép " của Trần Trung Kiên; và "Người đi tìm hình của nước" của Chế Lan Viên lại khiến lòng yêu nước trong mỗi trái tim mãnh liệt hơn bao giờ hết. Không những vậy văn chương còn lên án những gì ngược lại đạo đức, truyền thống con người Việt Nam, nuôi dưỡng và nhân rộng lòng nhân ái đến với mọi người. Văn chương đưa ta từ cảm xúc này đến cảm xúc khác, những con sóng triền miên của tâm trạng, những cung bậc tình yêu, những thăng trầm cảm xúc. Văn chương có những đặc trưng riêng rất thú vị nhưng lại mang tính giáo dục đặc biệt. Văn chương làm cuộc đời thêm đẹp, cuộc sống thêm màu sắc ý nghĩa.
Con người từ khi sinh ra đến khi trưởng thành được cha mẹ nuôi nấng, dạy dỗ. Công lao to lớn ấy đếm sao cho xuể, kể sao cho vừa. Nhưng những người con vẫn muốn ca những lời ca ấy, để bày tỏ tình yêu và biết ơn sâu sắc đến cha mẹ.
" Ngày nào em bé cỏn con
Bây giờ em đã lớn khôn thế này
Công cha áo mẹ chữ thầy
Nghĩ sao cho bỏ những ngày ước ao."
Chắc hẳn ai đọc bốn câu ca dao này cũng không khỏi xúc động nghẹn ngào. Câu ca dao ngọt ngào như lời ru của mẹ, đưa em vào giấc ngủ yên bình. Trong từng bước trưởng thành, tình yêu thương, sự chia sẻ của cha mẹ dành cho con cái rất quan trọng. Để rồi khi lớn khôn, người con mới hồi tưởng lại và cảm xúc ùa về. Đây chính là tình yêu, sự biết ơn. Vậy chẳng phải văn chương bắt đầu bằng một chữ tình hay sao?
" Em nghe thầy đọc bao ngày
Tiếng thơ đỏ nắng xanh cây quanh nhà
Mái chèo nghiêng mặt sông xa
Bâng khuâng nghe tiếng của bà năm xưa
Nghe trăng thở động tàu dừa
Rào rào nghe chuyện cơn mưa giữa trời
Đêm nay thầy ở đâu rồi
Nhớ thầy em lại lặng ngồi em nghe."
Từng câu thơ lại toát lên một vẻ đầm ấm giữa con người với con người. Những cảm xúc này của Trần Đăng Khoa là khi tác giả nghe thấy người thầy của mình đọc thơ. Giọng đọc của thầy ấm áp lưu lại trong tâm trí học trò những ngày sau đó và xa hơn nữa, lâu hơn nữa. Đọc đoạn thơ ta thấy một niềm vui, một niềm rạo rực đang nảy nở. Bởi đoạn thơ không những lột tả tình thầy trò cao cả mà còn cho ta thấy tình yêu của tác giả đối với quê hương, với thiên nhiên, cây cỏ. Đó là những cảm xúc tích cực với thế giới xung quanh, sẽ lan truyền và nhân rộng với mỗi đọc giả. Đến với một tác giả khác cũng là vị vua văn võ song toàn, lúc về nơi chôn rau cắt rốn của mình, ông đã không kìm được lòng xúc động:
" Thôn hậu thôn điềm đạm tự yên
Bán vô bán hữu địch dương biên
Mục đồng địch lý ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền"
Bốn câu thơ ngắn gọn, súc tích nhưng bao hàm rất nhiều ý nghĩa, tâm hồn người thi sĩ cảm nhận được sự bình yên, no ấm của vùng quê nghèo, nơi gắn liền với tuổi thơ ông. Bài thơ sẽ tìm được sự đồng điệu nhiều hơn nếu đọc giả là một con người xa xứ. Nỗi niềm đó có lẽ những người trong cuộc sẽ hiểu rõ hơn ai hết. Phải là một người yêu quê hương sâu đậm mới có thể phác họa bức tranh làng quê trong buổi chiều hoàng hôn sinh động như vậy. Bởi lẽ ông cảm nhận được nhịp thở của quê hương, hương vị quen thuộc này rõ rệt như khi ông còn bé.
Ta lại nhớ đến một câu nói của Chế Lan Viên rằng: " Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt/ Một mật ngọt bằng đời vận chuyến ong bay". Một nhận định rất ngắn gọn nhưng rất đỗi tinh tế, sâu sắc. Để có những vần thơ, những câu văn thật hay, thật ý nghĩa, đôi khi xuất phát từ những cảm xúc bất chợt. Nhưng để có những cảm xúc đó, thường phải trải qua sự lao động cần mẫn, kiên trì. Văn chương không có chỗ cho sự khô khan, trùng lặp, hay những gì trái đạo đức. Nếu có thì đó không phải văn chương chân chính.
Văn chương là tiếng nói đồng điệu đi tìm tâm hồn đồng điệu. Văn chương hình thành nhờ có tình yêu, lòng vị tha. Văn chương vì thế mà trở thành tiếng nói của tâm hồn. Nhận định của Hoài Thanh về văn chương không những đúng với thời xưa mà còn cả thế hệ nay mai.