1. Mở bài
_Giới thiệu bài thơ Thương vợ cùng yêu cầu của đề: vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
2. Thân bài
a. Người phụ nữ vất vả, lam lũ, chịu thương chịu khó.
_Hoàn cảnh của bà Tú:
+ Thời gian “quanh năm”: làm việc chăm chỉ.
+ Công việc: buôn bán đầy rẫy thị phi.
+ Địa điểm “mom sông”: phần đất nhô ra phía lòng sông và có phần hơi nguy hiểm nếu không cẩn thận.
+ Một mình làm việc nuôi chồng, nuôi con: Nuôi đủ sáu miệng ăn. Từ "nuôi đủ" gợi bao nhọc nhằn.
_CÔng việc buôn bán lăn xả, mệt nhọc:
+"Lặn lội”: gợi vất vả đủ bề.
+“thân cò”: nỗi đau thân phận và tình cảnh éo le khi một mình nuôi chồng, nuôi con.
+ “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút vói rất nhiều nguy hiểm.
+ Eo sèo: chen lấn, xô đẩy, giành giật nhau trên mảnh đất mom sông vốn nguy hiểm đấy.
+ Buổi đò đông: đối mặt với đủ mệt nhọc mà không được từ bỏ vì nuôi chồng, nuôi con.
b Chăm sóc chu đáo cho chồng con, chịu phần khó nhọc về mình.
+ “nuôi”: chăm sóc hoàn toàn cho gia đình và một mình gánh vác trách nhiệm cùng bao nhọc nhằn.
c. ý thức được số phận và tuyệt nhiên không ngần ngại hi sinh.
+ “Một duyên hai nợ”: hiểu được tình cảnh số phận và không than vãn nửa lời.
+ “dám quản công”: hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con.
3. Kêt bài:
- Khẳng định lại những phẩm chất tốt đẹp của bà Tú- vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Bài làm.
Chúng ta đã được biết đến rất nhiều về thân phận người phụ nữ. Ca dao xưa cũng nói về vẻ đẹp và phẩm chất của người phụ nữ. Thương cảm thân phận người phụ nữ, chúng ta không chỉ thấy trong ca dan dân ca hay bà chúa thơ Nôm mà còn có Trần Tế Xương với Thương vợ. Người vợ của nhà thơ- bà Tú chính là đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Chân dung bà hiện lên trước hết là người phụ nữ vất vả, chịu thương, chịu khó.
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”
Người phụ nữ sống trong hoàn cảnh rất vất vả. Bà luôn tảo tần, vất vả nơi mom sông – nơi ẩn chứa rất nhiều mối hiểm nguy đến tính mạng. Một người phụ nữ nhưng lại phải đối mặt vô vàn vất vả. Đồng tiền kiếm được vô cùng khó khăn, bà Tú phải làm quần quật để có được số tiền ít ỏi ấy. Và bà Tú phải “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Chỉ một từ "nuôi đủ" cho ta hiểu rằng nỗi nhọc nhằn của bà vô cùng lớn. Một người phụ nữ không được yên ổn mà luôn phải đối mặt vói muôn vàn vất vả. “Năm con với một chồng” lời thơ sao mà chua xót đến thế. Đó chính là áp lực lớn đè nặng lên đôi vai gầy của người phụ nữ đáng thương! CHỉ một mình bà đối mặt với nỗi cực nhọc này. Nhưng bà không hề than vãn hay kêu ca nửa lời mà luôn cam chịu, hi sinh.
Cách dùng từ ví von của nhà thơ- “thân cò” là vô cùng đúng đắn. Đây cũng là hình ảnh mà ta thường bắt gặp trong ca dao xưa khi nói về nhọc nhằn của người nông dân lam lũ. Bà lặn lội khi quãng vắng, rồi lại “eo sèo mặt nước buổi đò đông” công việc đòi hỏi người phụ nữ phải chịu muôn vàn khó nhọc. Từ “lặn lội”, “eo sèo” đã nhấn mạnh hơn sự vất vả, bon chen của bà Tú trong công việc mưu sinh.
Với tình yêu chồng, thương con, bà hiểu trách nhiệm và gánh nặng của mình. Để đảm bảo cho chồng con có cuộc sống tốt đẹp, bà Tú không quản ngại nhọc nhằn. Dù làm nghề buôn bán quanh năm ồn ã, xô bồ, thì bà Tú cũng phải gắng vì chồng con ở nhà. Một mình bà nuôi cả bảy miệng ăn, một mình bà gánh vác cuộc sống của gia đình. Và ta cũng thấy thật chua xót khi chỉ một người chồng chữ nghĩa như ông tú thôi lại bằng công bà nuôi cả năm đứa con. Nói về cái vô dụng, cái kém cỏi ở bản thân, Tú Xương càng muốn khẳng định đức hi sinh của người vợ.
Nhưng dù có khổ cực đến đâu đi nữa, với tình yêu thương với sự thấu hiểu, người phụ nữ ấy vẫn luôn đứng vững trong mọi sóng gió và cam chịu hoàn cảnh:
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.”
Toàn bài thơ ta không một lần nghe thấy tiếng than thở, kêu than của bà Tú. Tấm lòng của bà quá rộng lớn và bao dung để ôm tất cả nhọc nhằn ấy vào mình. Và. dù “năm nắng” hay “mười mưa” bà nào có “quản công” nhọc nhằn, vât vả. Một mình bà sẵn sàng gánh vác cả gia đình trong sự chịu thương, chịu khó. Khó nhọc nào bà cũng cố kiên trì vì chồng, vì con. Và vẻ đẹp, đức hạnh ở người phụ nữ ấy khiến người chồng Tế Xương vô cùng cảm động, kính trọng. Có lẽ đó cũng là niềm an ủi lớn nhất cho bao nhọc nhằn của bà.
Bài thơ khép lại trong tình yêu, trong sự trân trọng của người chồng- ông Tú trước hình ảnh chân thực về người vợ tảo tần, giàu đức hi sinh và luôn hết lòng vì chồng con. Vẻ đẹp của bà Tú cũng chính là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam không chỉ xưa mà còn luôn sáng trong cuộc sống hôm nay.