Sau tám năm xa cách, ông Sáu trở về nhà với niềm vui, niềm háo hức mong mỏi được gặp đứa con gái mà bấy lâu nay anh chỉ nhìn qua tấm ảnh. Xuồng vừa cập bến, anh đã nhún chân nhảy thót lên bờ, bước vội những bước dài để được gặp con. Vừa nhìn thấy con, ông đã gọi hết lên: “Thu! Con!”. Không chỉ có vậy, tình yêu thương, quan tâm, chăm sóc của ông Sáu đối với con còn được thể hiện trong những ngày ở nhà. Trong những ngày đó, ông chẳng đi đâu, chỉ quanh quẩn vỗ về bé Thu, mong nó gọi một tiếng “ba”. Những tình cảm ấy của ông không được bé Thu đón nhận, ông càng gần nó bao nhiêu nó lại càng xa ông bấy nhiêu, nó coi ông như người xa lạ, gọi ông là “người ta” làm ông đau đớn, thất vọng. Đến lúc chia tay tình yêu của ông Sáu nén chặt trong lòng, ông cũng muốn ôm con, hôn con nhưng lại sợ nó khóc thét từ chối nên đành đứng nhìn từ xa. Trong cái giây phút không ai ngờ đến, nó cất tiếng gọi ba, lúc cha con nhận nhau cũng là lúc ông Sáu phải đi rồi. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, ông đã khóc trong hạnh phúc, giọt nước mắt của người lính có mấy khi rơi mà nay khóe mắt ông ươn ướt. Con bé không muốn cho ông đi, ông hứa mua cho nó một cây lược, đến lúc đó nó mới chịu buông ông ra. Ở nơi căn cứ, lúc nào ông cũng ân hận, day dứt vì đã trót đánh con và vui mừng, hớn hở như đứa trẻ được quà khi nhặt được khúc ngà voi làm lược cho con. Ông đã dồn hết tâm huyết để làm cây lược, kỳ công, tỉ mỉ như một người thợ bạc đang say mê với tác phẩm quý giá. Nhưng bất hạnh thay, một trận càn quét của địch đã cướp đi sinh mạng ông.Trước khi ra đi ông đã cố hết sức móc cây lược đưa cho bác Ba như một sự ủy thác thiêng liêng của người lính nhờ gửi lại cho bé Thu. Tác giả đã khai thác tình cha con trong những tình huống éo le và cảm động. Cách lựa chọn ngôi kể tạo tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý cùng với việc miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật tinh tế, sâu sắc đã giúp truyện có được vị trí riêng trong lòng độc giả. Tình cảm sâu nặng của ông Sáu đối với con đã được nhà văn Nguyễn Quang Sáng diễn tả thật xúc động biết nhường nào!