Hai câu thơ đầu văn bản "Đồng chí" của tác giả Chính Hữu đã cho thấy anh và tôi cùng chung cảnh ngộ xuất thân. Trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, những chiến sĩ dũng cảm, kiên cường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc không ai khác chính là những người nông dân mặc áo lính. Từ giã quê hương, họ ra đi tình nguyện đứng trong đội ngũ những người chiến đấu cho một lý tưởng chung cao đẹp, đó là độc lập tự do cho dân tộc. Mở đầu bài thơ là những tâm sự chân tình về con người và cuộc sống rất bình dị và cũng rất quen thuộc:
Quê hương anh nướ mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện, tâm sự của 2 người đồng đội nhớ lại kỉ niệm về những ngày đầu tiên gặp gỡ. Họ đều là con em của những vùng quê nghèo khó, là những nông dân ở nơi 'nước mặn đồng chua' hoặc ở chốn ' đất cày lên sỏi đá'. Hình ảnh ' quê hương anh' và ' làng tôi' hiện lên với biêt bao nỗi gian lao vất vả. Điều này đã làm cho hình ảnh vốn chỉ là danh từ chung chung kia trở nên cụ thể đến mức có thể nhìn thấy được, nhất là dưới con mắt của những người con làng quê Việt Nam. Thành ngữ dân gian được tác giả vận dụng rất tự nhiên, nhuần nhụy khiến người đọc có thể dễ dàng hình dung được những miền quê nghèo khổ, nơi sinh ra của những người lính. Khi nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ sẵn sàng ra đi và nhanh chóng có mặt trong đoàn quân chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hai câu thơ đầu theo cấu trúc sóng đôi, đối ứng: 'Quê anh - làng tôi' đã diễn tả sự tương đồng về cảnh ngộ. Và chính sự tương đồng về cảnh ngộ ấy đã trở thành niềm đồng cảm giai cấp, là cơ sở cho tình đồng chí, đồng đội của người lính. Như vậy, bằng cấu trúc sóng đôi, đối ứng, những thành ngữ dân gian, hình ảnh anh và tôi cùg chung cảnh ngộ xuất thân đã được tác giả Chính Hữu thể hiện qua 2 câu thơ đầu trong văn bẳn 'Đồng chí', qua đó, ta thấy được ngòi bút nghệ thuật độc đáo của tác giả.
Nhạn_