Ta mòn gót đi cùng trời cuối đất
Tóc trên đầu hao hết nửa phần xanh
(Về quê nghe tiếng chim bắt cô trói cột)
Khi viết lên bài thơ này, người con Quảng Nam quê ta đã hơn mười năm tha hương. Mười năm ấy biết bao dấu mốc để gợi lên nhiều ý niệm về gia đình, quê hương, cội nguồn. Nhưng có lẽ, tết cận xuân kề là mốc thời gian dễ lay gọi nhất. Bởi trong tâm thức của người Việt Nam, tết cổ truyền luôn mang một ý nghĩa thiêng liêng. Và việc chuẩn bị đón tết trên mọi miền đất nước thường hết sức náo nhiệt.
Đang ở tận miền Nam, cái không gian giáp tết nơi ấy sao mà thôi thúc: “Trời miền Nam giáp tết quá nôn nao”. Đất trời nôn nao, dòng đời tất bật, lòng người con xa quê cảm thấy xốn xang. Sợi dây cảm xúc chạm vào nơi thẳm sâu của nỗi nhớ quê, thế là…thốt lên lời mời mọc rất tâm tình nghe giản dị mà thân thương :“ Em ra không mai anh về đất Quảng”. Cái hay của lời thơ là lời lẽ cứ chân tình không cần đến cách nói nghi thức, khách sáo gì cả. Có một đối tượng trữ tình được chọn trong bài thơ để người con tha hương có một người bạn gần gũi để giãi bày- nhân vật “em”. Điều này không lạ, nhưng cái lạ lại ở chỗ nhờ đó mà tác giả tạo nên một âm hưởng, một giọng điệu tha thiết rất riêng mà không phải bài thơ nào cũng có được. Chính vì thế, câu thơ đầu tiên đã cuốn ta vào ngay với cái giọng điệu tâm tình đầy thuyết phục ấy.
Đằng sau cách mời mọc tự nhiên chân thành ấy là ngập tràn cả niềm thương nhớ. Thế là, hình ảnh của quê hương thân thiết cứ thế hiện về, sống lại trong mạch hồi tưởng xúc động. Đó là cảnh vật, đó là con người quê hương.
Thèm chi mô một chén rượu hồng đào,
Dẫu chưa uống chỉ say từ câu hát.
Hai câu thơ thật đậm chất Quảng Nam gợi nhắc đến câu ca dao thân thuộc: “ Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm/ Rượu hồng đào chưa nhấm đà say”. Có cái mộc mạc trong cách nói “thèm chi mô”, có nét đặc trưng trong hình ảnh chén rượu hồng đào, có cái tinh nhạy đến đắm say lòng người trong cái “chưa uống đà say” của con người xứ Quảng. Sự tinh tế ở đây là người con xa quê lại “thèm chi mô”ấy, lại khao khát làm sao ấy những vẻ đẹp từ tâm hồn quê hương. Không có một tình quê đã thăng hoa thì đâu dễ gì viết sâu được như thế!
Như ta biết, mảnh đất Quảng Nam có cả miền biển, miền đồng bằng, trung du và đồi núi. Có lẽ, hai nơi chịu nhiều khó khăn hơn vẫn là “ biển” và “nguồn”. Tác giả cũng rất tinh tế chọn những sản vật ở hai nơi này để nhớ:
Em ở biển ngọn khoai trườn nổng cát,
Anh trên nguồn đá chẹn củ mì eo
…
Biển dưới em con cá chuồn ngon lắm,
Trên nguồn anh trái mít phải lòng theo,
Những hình ảnh “ ngọn khoai trườn nổng cát” “đá chẹn củ mì eo” “con cá chuồn,“ trái mít” ở hai miền quê nghèo rất bình dị được chọn đưa vào thơ còn mang một ý nghĩa sâu xa.“ Ngọn khoai trườn nổng cát” “đá chẹn củ mì eo”gợi nghĩ về một sức sống tiềm tàng của quê hương ta. Dẫu có trắng cát dưới nắng lửa hay dẫu có chẹn đá giữa mưa ngàn thì ngọn khoai hay củ sắn cũng vẫn thích nghi để vươn lên, để thành hình – những hình hài của giọt mồ hôi và nước mắt! Đặc biệt, hai sản vật dân dã mít non, cá chuồn của miền biển và miền núi đã tạo nên món ăn rất hợp khẩu vị với con người Quảng Nam. Ai đó trong chúng ta nếu xa quê, làm sao có thể quên được chất quê mặn mà trong những thứ rất dung dị ấy!
Rồi lớn hơn thế, hình ảnh của những địa danh như Miếu Bông, sông Thu, Hòn Kẽm Đá Dừng cũng da diết hiện về với nét đặc thù của nó. Tiếng đàn Miếu Bông đã từng làm nao lòng người, con Sông Thu bên bồi bên lở, Hòn Kẽm Đá Dừng vốn thân thương trong câu ca dao xứ Quảng,… Hình như âm thanh của tiếng đàn trong tâm tưởng đã lay động làm rung lên những cung bậc thiết tha nhất của nỗi nhớ:
Đờn Miếu Bông ai chọn phím so dây,
Để ta khóc theo chuyến tàu hối hả?
Với Tường Linh, ánh điện loang ngoài phố, chuyến tàu ra cũng đã gợi bao ngậm ngùi:
Mỗi chiều ánh điện loang ngoài phố
Trông chuyến tàu ra lại ngậm ngùi
Với Dương Quang Anh thì bộc trực hơn, Quảng Nam hơn! Làm sao có thể gửi gắm theo chuyến tàu ra hối hả ấy cả nỗi niềm cố hương sâu thẳm nên người con tha hương không thể giấu nỗi xúc động của mình:“Để ta khóc theo chuyến tàu hối hả?”.