I, MB: Nguyễn Du là nhà thơ kiệt xuất của văn học Việt Nam. Đọc văn chương của Nguyễn Du, dù chữ Hán hay chữ Nôm ta đều tháy ông "có con mắt trông thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời". 'Truyện Kiều" là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông và cũng là kiệt tác số một của văn học nước nhà. Thúy Kiều- nhân vật trung tam của truyện được sáng tạo từ cảm hứng nhân đạo sâu sắc của tác giả. Nhưng Kiều cũng là nạn nhân, là hiện thân nỗi đau của những con người tài hoa, đức hạnh, có phẩm giá nhưng bị xã hội phong kiến chà đạp. 'Trao duyên" là một tỏng những nỗi đau đó của Kiều. Đặc biệt 14 câu thơ giữa của đoạn trích đã làm nổi bật tấn bi kịch ấy.
II, TB:
1, Khái quát chung
- Vị trí: Là đoạn thơ mở đầu cho cuộc đời lưu lạc đau khổ của Thuý Kiều. Tình huống của Kiều là tình huống trao duyên. Trích từ câu 723 đến câu 756 trong Truyện Kiều là lời Thuý Kiều nói với Thuý Vân
- Nội dung đoạn trích: Thúy Kiều trao kỉ vật và dặn dò em
2, Phân tích
- Thuý Kiều nói với Thuý Vân: “Duyên này thì giữ / vật này của chung” ->Tình duyên thuộc về Thuý Vân/ Kỉ vật là của hai người
- Nhịp thơ 4/4 đứt đoạn như tiếng khóc. Đó là ngôn ngữ của tình cảm! → Thuý Kiều trao duyên nhưng không trao tình.
- Kỉ vật được nhắc đến: + Chiếc vành + Tờ mây + Phím đàn + Mảnh hương → Minh chứng cho tình yêu say đắm của Kim - Kiều trước đây.
- “Của chung”: của chàng, của chị, nay còn là của em.
- “Của tin” niềm tin, hồn chị để cả ở trong ấy. Đó là Tâm trạng nuối tiếc, đau đớn vì phải chia li với mối tình đẹp đẽ, lãng mạn.
- Trong lời dặn dò em, Kiều cho mình là người “mệnh bạc”; Nhiều lần Kiều nhắc đến cái chết cho thấy tâm trạng bi kịch, nỗi đau đớn tột cùng và sự tuyệt vọng của Kiều lúc trao duyên. Kiều tự coi mình là người mệnh bạc, người có số phận bạc bẽo, không may, dầy bất hạnh, không thoát ra đượcnó giống như 1 định mệnh. Vì vậy mà lòng Kiều thổn thức, tiếc nuối, não nề, xót xa
+ Kiều hình dung về tương lai mù mịt của mình
+ Kiều tưởng tượng ra cảnh mình chết oan, chết hận: hồn tả tơi , vật vờ trong gió, không siêu thoát được nhưng vẫn mang nặng lời thề
+ Kiều dằn vặt, lâm li, ai oán, nửa tỉnh nửa mê, lời nói phảng phất như từ cõi âm vọng về
=> Nỗi đau, điều suy nghĩ của Thuý Kiều rất đời thường, rất nhân bản.Nhà thơ đã nhập thân vào nhân vật để hiểu và thể hiện thành công nội tâm nhân vật.
3. Đánh giá chung
- Đoạn thơ là một bi kịch vì mâu thuẫn nội tâm nhân vật càng lúc càng căng thẳng, cuối cùng dẫn đến bế tắc, bi đát. Cái thần của đoạn trích: Trao duyên mà chẳng trao được tình! Đau khổ vô tận! Cao đẹp vô ngần! (Lòng vị tha, đức hi sinh)
III, KB:
- Ý nghĩa văn bản: thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận đau khổ và nhân cách cao quý của Kiều
- Nghệ thuật: Miêu tả nội tâm độc đáo, ngôn ngữ giàu hình ảnh sinh động.
*Bài làm
Nguyễn Du là nhà thơ kiệt xuất của văn học Việt Nam. Đọc văn chương của Nguyễn Du, dù chữ Hán hay chữ Nôm ta đều tháy ông "có con mắt trông thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời". 'Truyện Kiều" là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông và cũng là kiệt tác số một của văn học nước nhà. Thúy Kiều- nhân vật trung tam của truyện được sáng tạo từ cảm hứng nhân đạo sâu sắc của tác giả. Nhưng Kiều cũng là nạn nhân, là hiện thân nỗi đau của những con người tài hoa, đức hạnh, có phẩm giá nhưng bị xã hội phong kiến chà đạp. 'Trao duyên" là một tỏng những nỗi đau đó của Kiều. Đặc biệt 14 câu thơ giữa của đoạn trích đã làm nổi bật tấn bi kịch ấy.
Từ trước đến nay “trao duyên” thường mang sắc thái tình cảm; là dấu hiệu của niềm vui mừng; hạnh phúc của đôi lứa dành cho nhau ấy thế nhưng trong văn học xưa lại có cái “trao duyên” đầy đớn đau, bẽ bàng. Đó là cảnh trao duyên của chị em Thúy Kiều, Thúy Vân. Bằng ngòi bút đặc tả, Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh thấm đẫm nước mắt.
Đoạn trích “Trao duyên” trải dài từ câu 723-756 của bài thơ kể về cuộc đời gian truân; kiếm đoạn trường; gia biến và lưu lạc của cô gái tài sắc Thúy Kiều. 18 câu thơ đầu của đoạn trích như tiếng nấc lòng nghẹn ngào đầy u sầu của Thúy Kiều khi gửi lại tấm chân tình của mình nhờ em là Thúy Vân nối tiếp cùng Kim Trọng.
Sau khi nhờ cậy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng, Thúy Kiều trao kỉ vật tình yêu lại cho Vân:
"Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung"
"Chiếc vành", "tờ mây" là những kỉ vật minh chứng cho tình yêu cũng là lời thề ước của Kim Trọng và Thúy Kiều. Kỉ vật của một mối tình đẹp mà Kiều không nỡ rời xa nay đành gửi gắm tất cả lại cho Vân. Đồ vật thì có thể trao lại cho người khác, nhưng còn tình cảm thì làm sao gửi gắm được, tình yêu giữa hai người đâu phải muốn cho ai là cho. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng giữa Kiều và chàng Kim, không thể có người thứ ba xen vào. “Duyên này thì giữ” là trao kỉ vật nhưng không thể quên được kỉ niệm điều đó chứng tỏ tình yêu sâu đậm, nồng nàn của Kim - Kiều. “Của chung” là vật từng là của riêng Kim và Kiều, nay là của chung Kim, Kiều, Vân, nó gợi được sự đau đớn và tiếc nuối. Nguyễn Du có lẽ đang oán cái chế độ xã hội tàn bạo, cổ hủ khiến cho một tình yêu thiêng liêng, mặn nồng như thế phải tan vỡ.
Kỉ vật đã trao lại cho em, Kiều nhắc nhở Vân những lúc hạnh phúc ở bên người yêu thì đừng quên chị:
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa"
Trao kỉ vật lại cho em cũng nhằm để cho em nhớ đến mình, nàng tự coi mình là “mệnh bạc” để người khác xót xa thay cho thân phận mình. Sợi tơ duyên đẹp đẽ ngày nào đã mất đi thì sống trên đời cũng chẳng còn nghĩa lý gì. Kiều chỉ mong rằng Thúy Vân còn giữ kỉ vật cũng như nhớ về người chị “mệnh bạc” này. Chút níu giữ đó là vật làm tin nay cũng trao đi rồi, còn "phím đàn” ở lại như để mỗi khi ai đó đánh lên sẽ nhớ tới nàng. Bốn câu thơ tiếp theo chính là những dự cảm về cái chết mà Kiều đã sẵn sàng đón nhận:
"Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về"
Tác giả sử dụng từ ngữ mang tính giả định "mai này", "dù có" để thấy được tưởng tượng của Kiều về cảnh ngộ của mình trong tương lai, Thúy Kiều đã mất niềm tin vào tương lai phía trước. Một người đương tuổi xuân phơi phới nhưng luôn nghĩ về cái chết. Nàng chỉ mong ước duy nhất đó là mai sau Thúy Vân hãy nhớ tới linh hồn của mình để nàng đỡ lẻ loi, hiu quạnh. Khi đàn, khi đốt hương hay khi trông ra ngọn cỏ thì hãy nhớ đến người chị này. Kiều mất niềm tin vào cuộc sống, cho dù chết cũng chỉ biết nương nhờ cỏ cây, vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ chứ chẳng biết bám víu vào đâu.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan"
Hình ảnh "hồn", "thân bồ liễu", "ghì trúc mai", "dạ đài", "giọt nước", "thác oan" gợi ra cuộc sống cõi âm, đầy tâm linh, ma mị. Lời thề, lời hẹn ước mặc dù đã được trao cho em thay mình trả nhưng không có nghĩa là cô đã hoàn toàn trút bỏ, lãng quên. Thậm chí kể cả khi đã chết thì vẫn “mang nặng lời thề”. Nàng tự ví mình như “bồ liễu”, “trúc mai” tuy mảnh mai, yếu đuối nhưng lại thanh cao. Mong muốn được rửa oan khuất khi bị tước mất quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc.
Bằng nghệ thuật khắc họa, miêu tả nội tâm nhân vật, ngôn ngữ độc thoại sinh động, sử dụng ngôn từ điêu luyện tác giả đã cho người đọc thấy được tâm trạng vật vã, đau đớn rồi ngất đi trong tiếng kêu thảng thốt, ai oán của Thúy Kiều. Đó là tâm trạng đau đớn đến cùng cực của Kiều khi phải nhường lại tình yêu của mình và Kim Trọng. Qua đó thấy được bi kịch mà người phụ nữ xưa phải chịu rất nghiệt ngã. Thời gian trôi qua đã hàng trăm năm nhưng đoạnn trích Trao duyên nói riêng và kiệt tác Truyện Kiều nói chung vẫn còn nguyên giá trị bởi tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao.