A, MB
- giới thiệu Nam Cao và truyện ngắn lão Hạc: Nhà văn Nam Cao chính là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất viết về số phận những người nông dân nghèo đói bị vùi dập và những người trí thức sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Sau cách mạng, Nam Cao chân thành, tận tụy sáng tác phục vụ kháng chiến. Những tác phẩm nổi bật của ông là: truyện ngắn Chí Phèo, truyện ngắn Đời thừa, truyện ngắn Đôi mắt, truyện ngắn Lão Hạc,...Truyện ngắn Lão Hạc là truyện ngắn xuất sắc về người nông dân của Nam Cao, được đăng báo lần đầu năm 1943.
- giới thiệu Ngô Tất Tố và truyện ngắn Tắt đèn: Cùng chủ đề viết về người nông dân với Nam Cao, còn có nhà văn Ngô Tất Tố với truyện ngắn Tắt đèn. Ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc viết về đời sống người nông dân sau cách mạng. Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu nhất của ông.
- Ở trong cả hai tác phẩm, nhân vật lão Hạc và chị Dậu đều để lại trong lòng bạn đọc ấn tượng sâu sắc về số phận khổ sở của người nông dân và bức tranh hiện thực của cái đói nghèo, cũng như sự áp bức của xã hội phong kiến
B, TB
1, Sự đói nghèo
- Đầu tiên, số phận của những người nông dân như chị Dậu và lão Hạc đều gồm những điểm chung: số phận nghèo khổ, bế tắc mòn mỏi trong xã hội cũ. Lão Hạc vì không có tiền mà không cưới được vợ cho con trai, khiến cho anh trai phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Chẳng những thế, vì nghèo khổ mà lão Hạc đã phải đưa ra quyết định đau đớn tột cùng là bán cậu Vàng-kỷ niệm duy nhất của con trai lão, đồng thời nhịn ăn để tiết kiệm tiền. Quyết định cuối cùng của lão đó là nhờ ông giáo trông nom mảnh đấtcho đến khi con trai lão trở về và lo ma chay cho mình. Cuối cùng, sau bao tháng ngày nghèo khổ phải ăn củ rong, củ dáy, lão Hạc đã chọn đến cái chết đau đớn như để kết thúc cái nghèo, cũng như để tự trừng phạt hành động bán cậu Vàng của mình. Cái chết của lão chính là để bảo toàn tài sản cho con trai chưa trở về của mình. Đồng thời cái chết ấy cũng là kết thúc đầy đau đớn cho số phận của một người nông dân nghèo khổ mà lương thiện, cũng là một sự giải thoát trong cuộc sống của lão Hạc. Từ việc đưa ra quyết định bán cậu Vàng cho đến khi quyết định tự tử, lão lúc nào cũng chịu những sự giằng xé nội tâm dữ dội về tiền bạc. Chỉ khi lão chết rồi, lão mới để dành tiền cho con, hoàn thành được trách nhiệm một người cha.
- Còn chị Dậu, cũng phải chịu cảnh đói kém mà còn nặng sưu thuế khổ sở vô cùng. Vì nghèo mà chị Dậu phải bán con, bán chó để lo tiền sưu thuế cho chồng. Thế nhưng, chúng vẫn bắt chị phải nộp thuế cho người em chồng đã chết. Nhà chị vì không có tiền nộp mà chồng chị bị đánh đập dã man. Trong đoạn trích "Tức nước vỡ bờ", anh Dậu cũng suýt bị bọn cai lệ lôi đi đánh trói một lần nữa do chị Dậu chẳng thể có tiền mà nộp cho chúng.
2, Sự bế tắc
- Thứ hai, ở lão Hạc và chị Dậu, chúng ta còn thấy được sự bế tắc trong cuộc sống của họ.
- Cái chết của lão Hạc chính là cái chết của sự bế tắc từ đói khổ, từ sự trừng phạt lương tâm mà lão dành cho mình.
- Về phía chị Dậu, hành động bán con, hay dám đứng lên đánh lại bọn cai lệ cũng chính là hành động của sự bế tắc bị dồn đến đường cùng của chị Dậu. Sự vùng lên chống lại bọn cai lệ chính là minh chứng cho việc chị bị dồn ép vào thế đường cùng để mà làm nên việc tày đình đó là: chống lại thế lực phong kiến, đó là những kẻ được pháp luật phong kiến bảo hộ, có sức mạnh và vũ khí trong tay. Sở dĩ chị dám dùng sức mạnh và thân phận hèn mọn đó của mình để bảo vệ chồng vì chị bị dồn vào tình thế buộc phải làm như vậy, không còn cách nào khác. Nếu chị cứ để chồng bị đánh trói thì chồng chị chắc chắn sẽ chết. Chính vì vậy, sự vùng lên đấu tranh không chỉ thể hiện tinh thần phản kháng cùng sức mạnh nội tại của chị mà nó cũng phản ánh sự bết tắc, cùng quẫn của chị, cũng như bao người nông dân đương thời khác.
C, KB
Tóm lại, bức tranh hiện thực qua hai tác phẩm "Lão Hạc" và "Tức nước vỡ bờ" hiện lên vô cùng chân thực và sâu sắc. Người đọc cảm thấy thương cảm cho số phận của họ cũng như lên án cho bộ mặt thật của những thế lực phong kiến gây lên nỗi khổ cho người nông dân những năm 1930-1945
BÀI LÀM
Nhà văn Nam Cao chính là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất viết về số phận những người nông dân nghèo đói bị vùi dập và những người trí thức sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Sau cách mạng, Nam Cao chân thành, tận tụy sáng tác phục vụ kháng chiến. Những tác phẩm nổi bật của ông là: truyện ngắn Chí Phèo, truyện ngắn Đời thừa, truyện ngắn Đôi mắt, truyện ngắn Lão Hạc,...Truyện ngắn Lão Hạc là truyện ngắn xuất sắc về người nông dân của Nam Cao, được đăng báo lần đầu năm 1943. Cùng chủ đề viết về người nông dân với Nam Cao, còn có nhà văn Ngô Tất Tố với truyện ngắn Tắt đèn. Ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc viết về đời sống người nông dân sau cách mạng. Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu nhất của ông. Ở trong cả hai tác phẩm, nhân vật lão Hạc và chị Dậu đều để lại trong lòng bạn đọc ấn tượng sâu sắc về số phận khổ sở của người nông dân và bức tranh hiện thực của cái đói nghèo, cũng như sự áp bức của xã hội phong kiến
Đầu tiên, số phận của những người nông dân như chị Dậu và lão Hạc đều gồm những điểm chung: số phận nghèo khổ, bế tắc mòn mỏi trong xã hội cũ. Lão Hạc vì không có tiền mà không cưới được vợ cho con trai, khiến cho anh trai phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Chẳng những thế, vì nghèo khổ mà lão Hạc đã phải đưa ra quyết định đau đớn tột cùng là bán cậu Vàng-kỷ niệm duy nhất của con trai lão, đồng thời nhịn ăn để tiết kiệm tiền. Quyết định cuối cùng của lão đó là nhờ ông giáo trông nom mảnh đấtcho đến khi con trai lão trở về và lo ma chay cho mình. Cuối cùng, sau bao tháng ngày nghèo khổ phải ăn củ rong, củ dáy, lão Hạc đã chọn đến cái chết đau đớn như để kết thúc cái nghèo, cũng như để tự trừng phạt hành động bán cậu Vàng của mình. Cái chết của lão chính là để bảo toàn tài sản cho con trai chưa trở về của mình. Đồng thời cái chết ấy cũng là kết thúc đầy đau đớn cho số phận của một người nông dân nghèo khổ mà lương thiện, cũng là một sự giải thoát trong cuộc sống của lão Hạc. Từ việc đưa ra quyết định bán cậu Vàng cho đến khi quyết định tự tử, lão lúc nào cũng chịu những sự giằng xé nội tâm dữ dội về tiền bạc. Chỉ khi lão chết rồi, lão mới để dành tiền cho con, hoàn thành được trách nhiệm một người cha. Còn chị Dậu, cũng phải chịu cảnh đói kém mà còn nặng sưu thuế khổ sở vô cùng. Vì nghèo mà chị Dậu phải bán con, bán chó để lo tiền sưu thuế cho chồng. Thế nhưng, chúng vẫn bắt chị phải nộp thuế cho người em chồng đã chết. Nhà chị vì không có tiền nộp mà chồng chị bị đánh đập dã man. Trong đoạn trích "Tức nước vỡ bờ", anh Dậu cũng suýt bị bọn cai lệ lôi đi đánh trói một lần nữa do chị Dậu chẳng thể có tiền mà nộp cho chúng.
Thứ hai, ở lão Hạc và chị Dậu, chúng ta còn thấy được sự bế tắc trong cuộc sống của họ. Cái chết của lão Hạc chính là cái chết của sự bế tắc từ đói khổ, từ sự trừng phạt lương tâm mà lão dành cho mình. Về phía chị Dậu, hành động bán con, hay dám đứng lên đánh lại bọn cai lệ cũng chính là hành động của sự bế tắc bị dồn đến đường cùng của chị Dậu. Sự vùng lên chống lại bọn cai lệ chính là minh chứng cho việc chị bị dồn ép vào thế đường cùng để mà làm nên việc tày đình đó là: chống lại thế lực phong kiến, đó là những kẻ được pháp luật phong kiến bảo hộ, có sức mạnh và vũ khí trong tay. Sở dĩ chị dám dùng sức mạnh và thân phận hèn mọn đó của mình để bảo vệ chồng vì chị bị dồn vào tình thế buộc phải làm như vậy, không còn cách nào khác. Nếu chị cứ để chồng bị đánh trói thì chồng chị chắc chắn sẽ chết. Chính vì vậy, sự vùng lên đấu tranh không chỉ thể hiện tinh thần phản kháng cùng sức mạnh nội tại của chị mà nó cũng phản ánh sự bết tắc, cùng quẫn của chị, cũng như bao người nông dân đương thời khác.
Tóm lại, bức tranh hiện thực qua hai tác phẩm "Lão Hạc" và "Tức nước vỡ bờ" hiện lên vô cùng chân thực và sâu sắc. Người đọc cảm thấy thương cảm cho số phận của họ cũng như lên án cho bộ mặt thật của những thế lực phong kiến gây lên nỗi khổ cho người nông dân những năm 1930-1945