Hình ảnh người chiến sĩ yêu nước trong bài "Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông"
Cuối thế kỷ 19 khi các phong trào đấu tranh chống Pháp lần lượt bị thất bại đất nước chìm ngập trong đau. Bước sang anh thế kỷ 20 hưởng ứng luồng gió mới từ phương tây thổi tới khi những con người yêu nước Quyết chí giành tự do cho dân tộc lại náo nức bước vào một cuộc đấu tranh mới theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Đây là là bài thơ thất ngôn bát cú đường luật.
Đây là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu câu vào bài thể hiện ngay khẩu khí của của bậc anh hùng nhân vật trữ tình hiện ra với một phong thái đường hoàng, tự tin đến ngang tàng ngạo mạn.Giọng đùa vui tự trào làm tan biến đi cảm giác của một người tù chỉ thấy một tư thế cao ngạo xen thường hiểm nguy. Hai từ “vẫn” trong câu thơ đầu mang đậm tính khẩu ngữ .Một sự việc nghiêm trọng (tù) được nói đến bằng một thái độ cười cợt, xem thường.Bị giam hãm trong tù ngục (lại là tử tù) mà cứ như khách tài tử tạm dừng chân trên chặng đường dài dặc.Hoàn cảnh dù có đổi thay, tai biến có thể đến bất cứ lúc nào nhưng chí khí thì chẳng khi nào dời đổi.
Hai câu tiếp dòng thơ chợt chuyển: “ Đã khachs …năm châu”
Tác giả tự nghiệm về thân thế của mình một cuộc đời bôn ba Đầy sóng gió Phan Bội Châu từng phiêu bạt khắp nơi khi Trung Quốc khi thì Nhật Bản ,Thái Lan trên hành trình lưu lạc ấy ông đã phải trải qua biết bao cay đắng cực khổ.
Chỉ vì hết lòng muốn tìm đường cứu nước chỉ vì yêu đất nước dân tộc mình mà người chí sĩ bị xem thường như một tội nhân bị truy nã khắp nơi phiêu bạt, lênh đênh, chẳng được yên ổn bao giờ, con người ấy cất tíếng than cho mình cũng là đau cho nỗi đau bụng chung của một đất nước đang mất chủ quyền.Tíếng thở dài ấy là bậc anh hùng cái buồn ấy là cái buồn của một người tù yêu nước của một nhân cách phi thường . Một phút ngẫm ngợi về mình để rồi lại sang sảng ca lên âm giai lãng mạn.
Kinh tế - kinh bang tế thế, người chí sĩ chẳng lúc nào thôi ôm ấp hoài bão chị nước cứu đời đấy là con đường Phan đã chọn Nguyễn dấn thân vẫn là cái khẩu khí hơn người tiếng cười của một người tù sao mà khoảng đạt đến thế đến độ ta chỉ còn thấy âm hưởng hào hùng bao trùm tất cả quần áo tất cả như cánh buồm xanh thân lướt gió đại dương lối nói khoa trương đã được sử dụng để thể hiện cái chí lớn lao,khát vọng xoay chuyển càn khôn.
hay liên giữa câu 3 4 và câu 5 6 của bài thơ “Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông” đã tuân thủ khuôn mẫu của một bài thơ thất ngôn bát cú luật.Đường trong đối ý, đối lời .Sự đang đối hài hòa của những câu thơ này góp phần tạo ra ấn tượng về cái vững vàng. Các cặp từ đối bốn biển năm châu buổi tay mở miệng bồ kinh tế của quán thủ khiến cho tầm vóc của người chiến sĩ trở nên phi thường phù hợp với âm hưởng chủ đạo của bài thơ.
Bản lĩnh và tư thế khác người của người anh hùng yêu nước được khẳng định dứt khoát trong hai câu thơ kết bài .Con người ấy còn sống là còn tranh đấu đến cùng cho lý tưởng chính nghĩa của mình.Hai chữ còn nhát ra điệp lại càng tăng thêm sắc thái mạnh mẽ dứt khoát cho câu thơ. Ý chí thép của chiến thắng nguy hiểm nguy.
Cả bài thơ toát lên một tinh thần bất khuất một tư thế vũ vững vàng của bậc trượng phu trong, cơn sóng gió .Truyền thống yêu nước chí khí anh dũng của dân tộc đang tiếp tục mạch chảy bất tận trong tâm huyết chí sĩ Phan Bội Châu .Hình ảnh người anh hùng đã trả vào lịch sử như một minh chứng cho tinh thần yêu nước xả thân vì lý tưởng chính nghĩa.
Bên cạnh người anh hùng Phan Bội Châu, người đọc cũng rất khâm phục người anh hùng Phan Châu Trinh - một trong những chiến sĩ cách mạng nổi tiếng đầu thế kỷ XX bài thơ Đập đá ở Côn Lôn làm trong thời gian ông bị đầy ở đảo Côn Lôn thể hiện khí phách quật Cường một bản lĩnh anh toàn với dũng sĩ thần thoại.
Nhà tù thực dân Côn Đảo là một địa ngục trần gian. Bọn thực dân dùng nơi này để Đài đầy đọa những con người yêu nước ưu tú làm nhụt chí khí đấu tranh của họ. Trong đó, đập đá là mộtcông việc cực nhọc mà người đi đày phải làm .Phan Chu Trinh có ở trong số tù khổ sai ấy.Nhưng giữa nắng gió biển khơi khắc nghiệt người tù Phan Chu Trinh đã dựng lên cả một tượng đài ngày bằng thơ thể hiện một vẻ đẹp lạ lẫm liệt phong thái cứng cỏi ngang tàng của người anh hùng cứu nước .Bốn câu thơ đầu tác giả miêu tả cảnh tượng đập đá của người tù cũng bằng những hình ảnh ấy mà khác hỏa dáng vóc phi thường của người anh hùng đấng nam nhi “Làm trai…côn Lôn”
Câu mở đầu tác giả phát ra bối cảnh không gian gợi mở âm hưởng hùng tráng bằng tư thế hiên ngang sừng sững của phận làm trai đầu đội trời chân đạp đất kiêu hùng dân gian có câu Làm trai cho đáng nên trai Nguyễn Công Trứ thì viết “Chí làm trai Nam Bắc Tây Đông/ cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể”. Phan Bội Châu cũng đề cao chỉ hướng làm trai thì cũng phải khác đời . Điều đó cho thấy quan niệm về chí trai, làm trai có mạch nguồn trong quan niệm nhân sinh truyền thống. Trong câu thơ Phan Chu Trinh Quan niệm ấy đã được khẳng định trong một bối cảnh cụ thể đứng giữa đất Côn Lôn là đứng giữa biển trời đất thật kiêu hãnh, đường hoàng đúng là tư thế của người làm chủ giang sơn . Ba câu thơ tiếp theo qua những hình ảnh chân thực diễn tả công việc nặng nhọc khai thác đá tác giả đã khắc họa thành những hình ảnh biểu trưng cho tầm vóc sức mạnh Dời Non Lấp Bể kinh thiên động địa của nhân vật trữ tình những hành động mạnh mẽ cho phép ta hình dung ra hình ảnh người dũng sĩ với sức vóc thần kỳ đang xung trận “ xách búa” ra đóng đập bể mấy trăm hòn những từ ngữ cực tả sức mạnh dũng mãnh làm nổi bật hình tượng con người trong tư thế ngạo nghễ lớn ngang tầm vũ trụ giữa không gian biển trời bao la trần sưởng một tượng đài kết bằng những hình khối phi thường.
Bốn câu cuối bộc lộ trực tiếp cảm xúc và suy nghĩ của người anh hùng “ Tháng ngày …con con” “thân sành sỏi, dạ sắt son” sẽ bền bỉ trụ lại được cùng tháng ngày mưa nắng thế đó lập ở câu 5 6 thể hiện sự kiên tâm vững trí của nhà cách mạng dù trong bất kỳ hoàn cảnh khắc nghiệt nào. Tấm lòng thủy chung son sắc mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen Nguyễn Trãi kia cũng là sự kế thừa truyền thống anh hùng bất khuất đã được khẳng định trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam vững vàng Bến Tre gan cùng Tuế nguyệt đến ngạo nghễ đã là đạo sống phong cách của người chiến sĩ chẳng tích phân mình cho sự nghiệp Trung Phan Chu Trinh xuất thân nho học ở những vần thơ này ta thấy bản lĩnh của nhà nho đã hòa thấm thuần thục với tinh thần yêu nước ý chí cách mạng trong bối cảnh đầy những gian nan thử thách hồi đầu thế kỷ 20 người chiến sĩ dám dấn thân vì giang sơn Xã Tắc cùng cũng phải là những con người bất chấp khi sinh nguy khó biết quên thân mình có khi còn phải biết gồng mình lên Chiến Thắng hoàn cảnh ảnh bằng ý chí cảm hứng lãng mạn hào hùng tiếp tục được đẩy lên đỉnh điểm ở hai câu thơ kết hợp với hình ảnh thơ mang đậm chất sử thi hay chữ vá trời lấy từ tích Nữ Oa vá trời I tầm vóc sức mạnh ở đây đã được thi vị Hóa đến mức thần kỳ giống như bà lão ai trong truyền thuyết đội đá vá trời I hình ảnh những kẻ và trời được vừa thực vừa bay bổng khoa chương thực ở mức liên hệ với hình ảnh những người tù lao động khổ sai đập đá làm lở núi non đã được miêu tả ở 4 câu thơ đầu bay bổng khoa chương ở nối ví với nhân vật trong phân tích hai câu thơ cuối này gợi tả sự đối lập giữa cái lớn lao kỳ vĩ và trời với thực tế gian nan chỉ là việc còn con con sự đối lập ấy và kết quả của một ý chí sắt đá niềm tin lớn và sự nghiệp chính nghĩa kẻ và trời bằng sức mạnh đội đá vá trời có thể để mệt mỏi trở ngại gian nan thực tế thì những khó khăn tác giả phải đương đầu không con Con chút nào nhưng chỉ có bằng cách ấy bằng ý chí quật cường, tích tụ từ nguồn mạch dân tộc người chiến sĩ mới có thể tiếp tục được con đường giành giật trong ra trước mắt đó cũng là một cuộc chiến thắng chính mình.
“Đập đá ở Côn Lôn và cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông” là hai bài thơ của nhà thơ nho yêu nước tiêu biểu trong phong trào cách mạng những năm đầu thế kỷ XX. Qua đó chúng ta nhận ra cái mạch chảy dào dạt của chủ nghĩa yêu nước chủ nghĩa anh hùng trong truyền thống dân tộc Việt Nam. Rồi đây cái mạch nguồn ấy lại bừng lên trong những đời sống mãnh liệt và thể hiện trong văn học kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp.