I. Danh tính:
Họ tên: Lê Tư Thành
Ngày sinh: 25/8/1442.
Ngày mất: 3/3/1497.
Nơi ở: theo mình thì do ông là con trai thứ tư của tiên hoàng nên nơi ở chắc là hoàng cung rồi. Mà nhà Hậu Lê đóng đô ở Thăng Long nên chắc là quê ông ở Thăng Long đó ^.^
Cha: Vua Lê Thái Tông
Mẹ: Ngô Thị Ngọc Dao
II. Kinh tế:
Ông có nhiều chính sách nhằm phát triển kinh tế như: sửa đổi luật thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp,...
Về thuế ông chia ra làm 3 loại thuế: thuế đất, thuế ruộng, thuế đất bãi trồng dâu.
Ông chú trọng nhất là nông nghiệp
Các ngành nghề thủ công nghiệp và xây dựng ngay từ đầu thời Lê Thánh Tông phát triển mạnh mẽ.
Về thương mại, hoạt động nội thương thời Lê Thánh Tông chủ yếu là hình thức trao đổi sản phẩm giữa các địa phương.
Cái này mình rút từ wiki nên bạn lên đó tham khảo nếu thấy thiếu ý thì có thể bổ sung ^.^
III. Hành chính:
a) Quan chức : Cái này dài lắm mà không quan trọng nên đưa ra 1 số ý thôi nha ^.^
Lê Thánh Tông bỏ 6 bộ, đặt ra 6 viện, mỗi viện đều có Thượng thư và Tả, Hữu Thị lang đứng đầu nhưng một thời gian sau đó ông lại đổi lại như đầu.
Tháng 6 âm lịch năm 1466, Lê Thánh Tông ban quy chế về màu áo các quan văn võ: quan từ nhất phẩm đến tam phẩm phải mặc áo hồng; quan tứ phẩm và ngũ phẩm thì mặc áo màu lục; các viên chức còn lại đều mặc áo xanh.
b) Phân chia hành chính:
Năm 1466, nhà vua chia nước thành 12 đạo thừa tuyên và Trung đô phủ, lại đặt các ty Đô, Thừa để cai quản. Thánh Tông đổi lộ thành phủ, trấn thành châu, đổi chức An phủ thành Tri phủ, Trấn phủ thành Đồng tri phủ, Chuyển vận sứ thành Tri huyện, Tuần sát sứ thành Huyện thừa, Xã quan thành Xã trưởng.
24/4, Nước Việt ta có 13 thừa tuyên, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6851 xã, 322 thôn.
c) Quân sự:
Khoảng năm 1465-1470, Lê Thánh Tông ban hành chính sách tuyển quân: cứ 3 năm một lần làm lại hộ khẩu gọi là "tiểu điển", 6 năm một lần gọi là "đại điển".
năm 1466 nhà vua đổi vệ quân năm đạo thành quân năm phủ, bao gồm: Bắc quân phủ đóng ở mạn Kinh Bắc, Lạng Sơn; Trung quân phủ cai quản vùng Thanh Hóa-Nghệ An; Đông quân phủ cai quản vùng Hải Dương, Yên Bang; Tây quân phủ cai quản vùng Tam Giang, Hưng Hóa; Nam quân phủ cai quản các vùng Sơn Nam, Thuận Hóa, Quảng Nam. Riêng mạn Thái Nguyên, Tuyên Quang có quân Phụng trực trấn thủ. Mỗi quân có phủ đô đốc chỉ huy; chức quan cao nhất trong phủ này là Tả Hữu Đô đốc. Biên chế mỗi quân có 6 vệ, mỗi vệ có 5-6 sở, mỗi sở có 20 đội, mỗi đội gồm 20 người. Sử gia Trần Trọng Kim ước tính cả năm phủ đô đốc cộng lại là 6-7 vạn quân. Cùng năm 1466, Lê Thánh Tông lần lượt đổi tên các chức chánh ngũ trưởng, phó ngũ trưởng, đội sử thành tổng kỳ, tiểu tổng kỳ, quân lại.
Đối với cấm quân, năm 1470, Lê Thánh Tông lập các vệ quân Kim ngô, Cẩm y. Vệ Kim ngô được hợp thành từ 2 ty Tráng sĩ, Thần tý; vệ Cẩm y được hợp thành từ 2 ty Binh mã, Nghi vệ. Nhà vua còn lập thêm bốn vệ Hiệu lực, bốn vệ Thần vũ (đều được chia làm tiền, hậu, tả, hữu), 6 vệ Điện tiền (gồm vệ quân Vũ lâm, Tuyên trung, Thiên uy, Thủy quân, Thần sách, Ứng thiên), 4 vệ Tuần tượng cùng 4 vệ Mã nhàn. Năm 1490, Lê Thánh Tông mở rộng biên chế các vệ Kim ngô, Cẩm y, Thần vũ, Điện tiền; từ đây vệ Cẩm y có tới 20 ty, vệ Kim ngô có tới 100 ty.
(Phần này mình lấy hết trên wiki luôn do thấy đúng nên bạn cũng đừng khó chịu quá nha :D )
d) Luật pháp:
Đến năm 1483, vua Thánh Tông sai các đình thần sửa đổi, biên soạn lại các điều luật cũ, làm thành bộ Quốc triều Hình luật (còn gọi là Luật Hồng Đức). Bộ luật gồm 6 quyển, 722 điều, và được sử dụng suốt từ thời Hồng Đức đến hết thế kỷ XVIII.
IV. Văn hóa:
Lê Thánh Tông trị vì Đại Việt 38 năm và dưới thời ông Nho học trở nên chiếm ưu thế, ông đã cho ra lệnh soạn nhiều tác phẩm có giá trị văn hóa, xã hội. Các bia tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám được bắt đầu dựng vào thời đại của ông.
*Một vài bộ sách nổi tiếng của ông: Thiên Nam dư hạ tập, Quỳnh Uyển cửu ca, Minh lương cẩm tú,...
V. Xã hội, tôn giáo:
Dưới triều Lê Thánh Tông, nền văn hóa Tam giáo đồng nguyên của Đại Việt trước thế kỷ 15 đã hoàn toàn bị thay thế bằng sự lên ngôi của Tân Nho giáo (Tống Nho), đặc biệt trong khu vực triều đình và giới sĩ phu.
Bên cạnh đó, nhà vua không hẳn là hoàn toàn không tin vào các nền tâm linh ngoài Nho giáo. Ông đã sử dụng các đạo sĩ để cúng tế thần linh khi có sâu lúa phá hoại mùa màng. Ông còn bảo các quan phải cúng tế mọi thần linh trong nước vào những lúc hạn hán, bão lũ, bệnh dịch... hoặc khi đi chinh phạt.
Ngoài ra ông còn đưa ra 1 số điều luật như: cấm phụ nữ phá thai, ngiê cấm những người hát chèo để chế giễu cha mẹ hoặc quan trưởng,...