1.
Tính đến thời điểm này, ngoài bản Tuyên ngôn độc lập mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc (2 tháng 9 năm 1945) tại Quảng trường Ba Đình lịch sử khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, thì lịch sử Việt Nam còn ghi nhận có tới hai văn bản khác được coi là bản Tuyên ngôn độc lập của dân tộc. Bao gồm: “Nam quốc sơn hà” (tương truyền của Lý Thường) và “Bình Ngô đại cáo” (Nguyễn Trãi). Vậy một tác phẩm văn học như: “Nam quốc sơn hà” với bốn câu thơ ngắn ngủi có xứng đáng được coi là Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam?
Như chúng ta đã biết, Tuyên ngôn độc lập là văn bản chính luận được viết ra với mục đích tuyên bố với đồng bào trong nước và toàn thể nhân dân thế giới về nền độc lập và về chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ cần được tôn trọng. Bài thơ “Nam quốc sơn hà” được coi là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta trước hết vì bài thơ là lời tuyên bố hùng hồn về nền độc lập chủ quyền của đất nước:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”
Nước Nam ta là một đất nước độc lập, có chủ quyền riêng và vua chính là đại diện tối cao cho dân tộc. Ranh giới bờ cõi của nước Nam không chỉ được ghi nhận qua những trang sử hào hùng của dân tộc mà còn được ghi rõ ràng ở sách trời "tại thiên thư". Đó là một chân lý hiển nhiên: Sông núi nước Nam là của vua Nam, là của người dân nước Nam, một sự thật hiển nhiên không thể chối cãi . Trong lời tuyên bố về chủ quyền , tác giả còn thể hiện sâu sắc thái độ tự hào, tự tôn dân tộc khi coi nước Nam là một nước ngang hàng với nước Bắc, vua Nam bằng vai với hoàng đế Trung Quốc, qua việc sử dụng từ "đế" mà không dùng từ "vương" (chữ "đế" và chữ "vương" đều có nghĩa là vua, người đứng đầu 1 đất nước, đại diện cho nhân dân, nhưng trong các triều đại phong kiến Trung Quốc xưa, vua Trung Quốc tự xưng là "đế"( có thể hiểu là ông vua lớn) còn các ông vua đứng đầu ở các nước láng giềng thần phục chỉ phong "vương" (có thể hiểu là ông vua nhỏ). Với cách sử dụng ngôn từ sắc sảo như vậy, rõ ràng địa vị và tầm vóc của nước Nam ta đã được nâng lên một tầm cao mới.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên ấy, cha ông ta không chỉ khẳng định nền độc lập và chủ quyền của dân tộc mà còn thể hiện rõ ý chí quyết tâm bảo vệ đến cùng nền độc lập, chủ quyền ấy:
“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Lý Thường Kiệt coi quân xâm lược là "nghịch lỗ" (kẻ đi ngược lại với lẽ phải, với đạo trời), bài thơ "Nam quốc sơn hà" đã đưa ra lời cảnh cáo đanh thép: Chúng mày dám sang xâm phạm vào bờ cõi và chủ quyền thiêng liêng của nước Nam, thì tự chúng mày sẽ chuốc lấy bại vong thảm hại! Đó là cái kết cục xứng đáng cho những kẻ phạm vào sách trời, phạm vào đấng linh thiêng, coi thường chân lý, lẽ phải! Câu thơ vừa là một đòn tấn công mạnh mẽ dành cho kẻ thù xâm lược vừa có ý nghĩa khích lệ tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm của nhân dân với Tổ quốc...
Có thể nói không cần phải sử dụng quá nhiều ngôn từ, nhưng “Nam quốc sơn hà” vẫn làm rõ được những vấn đề mang tính trọng đại, lớn lao của quốc gia, dân tộc. Đó là lời tuyên bố đanh thép khẳng định chủ quyền về cương vực lãnh thổ và nêu cao ý chí quyết tâm bảo vệ toàn vẹn nền độc lập dân tộc, quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Với ý nghĩa sâu sắc ấy, “Nam quốc sơn hà” hoàn toàn xứng đáng là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt nam ta.
2. Là 1 công dân em cần học hành chăm chỉ,thực hiện đúng 5 điều bác hồ dạy, để sau này đóng góp xây dựng đất nước.
3.Chủ nghĩa yêu nước là một trong số những nội dung lớn của văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng. Và có thể nói, "Sông núi nước Nam" của Lý Thường Kiệt và "Phò giá về kinh" của Trần Quang Khải là những tác phẩm tiêu biểu về chủ nghĩa yêu nước trong kho tàng văn học trung đại Việt Nam. Mặc dù thời gian ra đời của hai tác phẩm cách xa nhau nhưng cả hai tác phẩm đều thể hiện rõ nét lòng yêu nước và tự hào dân tộc.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
(Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở)
Và với Phò giá về kinh của Trần Quang Khải cùng vậy, hai câu thơ mở đầu bài thơ đã thể hiện lòng tự hào dân tộc thông qua việc tái hiện hào khí chiến thắng của quân ta trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược.
Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
(Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù)
ai câu thơ mở đầu bài thơ đã tái hiện lại một cách chân thực và rõ nét những chiến thắng vang dội và có ý nghĩa quan trọng, là những chiến thắng mang tính chiến lược, góp phần to lớn vào sự thắng lợi của quân ta trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên xâm lược. Trong hai câu thơ, tác giả đã sử dụng biện pháp liệt kê - Chương Dương, Hàm Tử cùng việc sử dụng phép đối và các động từ mạnh "đoạt", "cầm" kết hợp với nhịp thơ nhanh, dồn dập để từ đó làm bật nổi khí thế hào hùng trong cuộc kháng chiến và bộc lộ niềm tự hào, tự tôn dân tộc trước những chiến thắng vang dội ấy.
Thêm vào đó, lòng yêu nước trong hai bài thơ còn được thể hiện ở ý chí kiên cường và lòng quyết tâm trong cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước. Trong Sông núi nước Nam, ý chí kiên cường ấy được thể hiện rõ nét qua hai câu thơ kết thúc bài thơ.
4. Em thích nhất là bài thơ phò giá về kinh:
Trần Quang Khải “là con trai thứ ba vua Trần Thái Tông, lại nổi tiếng học rộng biết nhiều, nên rất được nhà Trần biệt đãi, ngay từ còn trẻ đã nhận tước Chiêu minh đại vương, và sớm trở thành một chỗ dựa của triều đình. 1371, được Trần Thánh Tông cho giữ chức Tướng quốc thái uý. 1374, theo vua Thánh Tông đi đánh dẹp cuộc phản loạn của người Bà-lan. 1282, giặc Nguyên chuẩn bị xâm lược lần thứ hai, ông được đề cử chức Thượng tướng thái sư, nắm toàn quyền công việc nội chính. 1285 và 1287, hai cuộc kháng chiến chống Nguyên kế tiếp nổ ra, ông và Trần Quốc Tuấn là hai nhân vật chèo lái chủ chốt, đã góp công sức quan trọng của mình vào thắng lợi. Ông đã có mặt ở nhiều nơi, tham gia nhiều chiến dịch, nổi tiếng nhất là chiến dịch Chương Dương – Thăng Long vào khoảng giữa tháng Sáu năm 1285, một trong những chiến dịch có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ cuc diện cuộc kháng chiến lần thứ hai. Cũng như Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật và nhiều người khác, ông còn giữ một vai trò đặc biệt trong cuộc đấu tranh ngoại giao khôn khéo và phức tạp với nhà Nguyễn, kéo dài suốt mấy chục năm ngưng chiến từ 1258 đến 1284, và sau khi kháng chiến đã hoàn toàn thắng lợi.
Cuộc đời Trần Quang Khải là một tấm gương sáng về tinh thần yêu nước, tận tuỵ với trách nhiệm, biết gạt bỏ hiềm khích riêng để chung lưng đấu cật đánh thắng kẻ thù. Tuy là một Tể tướng địa vị bậc nhất trong triều, tính tình ông vẫn rất phóng khoáng, “thích học, hay thơ, có tập thơ Lạc đạo lưu hành ở đời” (Đại Việt sử kí toàn thứ). Nhưng Lạc đạo tập từ lâu đã mất. Chỉ còn giữ được chín bài, do Phan Phu Tiên sưu tầm trong Việt âm thi tập, trong số đó cố bài Đề dã thự trùng hoàn toàn với Tịnh Bang cảnh vật của. Trần Tung trong Thượng sĩ ngữ lục mà đến nay vẫn chưa đủ cứ liệu để xác minh sai đúng. Ngoài ra, Việt điện u linh cũng ghi được một bài thơ của ông đề ở đền Bạch Mã. Tuy số lượng còn lại không nhiều, thơ Trần Quang Khải trước sau vân là một trong những chùm sáng tác tiêu biểu nhất của dòng văn học yêu nước đời Trần. Ở đây có sư phối hợp khó chia tách giữa tiếng nói của một nhà chính trị, một nhà ngoại giao và một thi nhân. Có tình yêu thâm trầm mà cháy bỏng đối với đất nước, tầm tư tưởng xa rộng, khí phách kiên cường và lòng tin vững chắc vào thắng lợi (Tung giá hoàn kinh sứ)